Showing posts with label Đạo & Đời. Show all posts
Showing posts with label Đạo & Đời. Show all posts

Wednesday, February 06, 2019

Ly cafe đầu năm



Sáng mùng một, pha ly cafe, mở đĩa nhạc xuân, ngắm cành đào vừa nở thêm vài cụm hoa mới. Mùi hương trầm của đêm Giao thừa hình như vẫn còn lãng đãng quanh đây. Hôm nay trời hãy còn lạnh nhưng nắng đẹp, cảm giác như nắng xuân ở quê nhà, hây hây hanh vàng. Một năm cũ qua đi, một năm mới lại bắt đầu. Dẫu biết xuân hạ thu đông chỉ là quy luật thường tình của tạo hoá, có khởi đầu tất có kết thúc, có cái cũ tất có cái mới. Tết nhứt cũng là một chu kỳ tuần hoàn như bao chu kỳ tuần hoàn khác, một sự vận hành tất yếu của tự nhiên. Nhưng rồi năm nào cũng thế, Xuân đến thì ai cũng thấy lòng mình xôn xao, và cứ khan khác một điều gì. Ngày Tết có cái hồn đặc trưng của nó, khởi sự trong lòng của mỗi con người !

Tối qua Giao thừa xong, đi chùa về nhà đến hơn 2g sáng, nhưng vẫn không buồn ngủ. Nhiều bạn bè nhắn tin, gởi email chúc tết, ngồi đọc và gọi điện thoại đến gần sáng. Sáng mùng một ở Mỹ, thiên hạ vẫn đi học đi làm như thường lệ. Ngồi nhâm nhi ly cafe nghe nhạc, tự nhiên nghĩ đến bài thơ "Xuân Vãn" của ông vua Trần Nhân Tông, người được cho là vị Sơ Tổ sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, cũng là dòng Thiền duy nhất của người Việt Nam.

Xuân vãn,
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản, bồ đoàn khán trụy hồng.

Nôm na là Ngài nói về sự cảm nhận đối với cái Tết vào những thời điểm khác nhau. Thuở nhỏ còn bé chưa biết gì thì mỗi dịp xuân về thấy trong lòng náo nức rộn ràng như trăm hoa đua nở. Đến khi lớn lên hiểu thấu vấn đề, khám phá cốt lõi của sự việc, thì thấy muôn sự cũng bình thường thôi. Tuy bài thơ chỉ đơn giản vậy, nhưng lâu nay biết bao nhiêu người giảng giải phân trần, dịch nghĩa dịch ý, đôi khi làm phức tạp hơn, hết thiền  :-).
Mở ngoặc chút nói về chuyện dịch thơ xưa. Hồi nhỏ giờ mình cứ thắc mắc là tại sao có nhiều nhà dịch giả, văn thi sĩ, trí thức VN, lại thích cùng tham gia dịch thuật một bài thơ nổi tiếng nào đó, mặc dù ý tứ cũng chỉ na ná giống nhau. Từ những bài thơ Tàu như Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế, Lô Sơn của Tô Đông Pha, Tạp Thi của Vương Duy .... cho đến thơ Việt của thiền sư Mãn Giác, của vua Trần Nhân Tông ...v.v.. Như bài Xuân Vãn này cũng có rất nhiều người tham gia dịch thuật, không biết là đã có bao nhiêu bản dịch lâu nay rồi. Nội cái tựa không thôi cũng được dịch ra nhiều kiểu như Xuân Muộn, Cuối Xuân, Xuân Rãi, Xuân qua, Xuân tận ... Lâu lâu cứ tới tết là mình thấy thêm bản dịch mới, chữ nghĩa thì có khác chút đỉnh nhưng vẫn là ý đó. Nhiều lúc mình nghĩ nếu Phật Hoàng Trần Nhân Tông mà biết đời sau quá bận rộn, ti tiết, sợi tóc chẻ làm tám bài thơ của ông như vậy, chắc ông đã nói :

Thuở nhỏ chưa hiểu rõ sắc không,
Tết mới trăm hoa rộn trong lòng.
Nay đã hiểu rõ tính sắc không
Làm ơn đừng dịch nữa được không ?

Giỡn chút cho vui ngày Tết, chứ thực ra cuộc sống vốn đa dạng, con người càng đa dạng hơn, làm sao nói hết được. Cái hiểu biết của con người thì vô cùng, bất tận, như cái thang hình xoắn ốc cứ bắt lên trời mà đi, không biết đến đâu là tận cùng. Có khi cùng hoành độ nhưng khác tung độ. Có khi cùng một sự việc, nhưng sự nhận thức của ngày hôm nay lại khác xa rất nhiều so với ngày hôm qua. Còn cái "ngộ" thì cũng có "thực ngộ", "giả ngộ". Người “ngộ” thực sự lại chẳng thấy mình ngộ, mà cũng chẳng bao giờ đi khoe đã ngộ, vì thực ra cũng chẳng có cái gì gọi là “ngộ” :-). Còn ông "giả ngộ" lại nghĩ rằng mình đã ngộ, và “ngộ” để làm thơ, để tranh cãi, để làm pháp sư….Nên chuyện thế gian biết đâu mà lần. Cũng khổ. Như Tô Đông Pha thấy mình đã ngộ, nên khoe "Bát phong truy bất xuất", lại được nhà sư Phật Ấn điểm nhãn bằng "Nhất thí mã quá giang" :-).
Thời buổi này thì chùa chiền ngày càng nhiều, sư sãi tăng ni cũng nhiều. Trong nước nhiều đền chùa, mà ở hải ngoại cũng không hiếm. Tín ngưỡng cũng nhiều mà mê tín cũng nhiều. Xưa nay người theo đạo Phật, rất kính trọng Tăng Ni (một trong 3 ngôi Tam bảo). Nhưng cũng nên lưu ý vì chưa hẳn cứ ông nào xuống tóc là nhất thiết ông ấy có nguyện vọng tu tập một cách đúng nghĩa. Thời buổi vàng thau lẫn lộn, thật giả chồng chất lên nhau, nên không phải ông “sư phụ “ nào cũng đúng, cũng thông thái, cũng hiểu biết thấu đáo vấn đề hướng dẫn giúp đỡ người đời tu tập đúng cách. Đặc biệt là mấy ông quốc doanh, còn kinh tế, chính trị chính em trong đó, nên người tu học phải cẩn thận và tỉnh táo tự học cách để phân biệt được đúng sai. Mà đạo nào rồi cũng sẽ gặp những khó khăn như vậy thôi, chỉ là ít hay nhiều. Cho nên nhiều người cho rằng thời này đến chùa, đến nhà thờ, mà phân biệt được đâu là cái áo cà sa, đâu là ông thầy, đâu là đạo pháp; cũng như đâu là cái thánh giá, đâu là ông cha, đâu là lời Chúa … thì là giỏi rồi :-).

Nhớ trong đạo Phật có câu chuyện vui, một cậu bé đi hỏi ông thầy tu được cho là đã "đắc đạo" :

- Hồi xưa thầy chưa đắc đạo, thầy làm gì ?
- Chặt củi, gánh nước, nấu cơm .
- Thế đắc đạo xong, thầy làm gì ?
- Chặt củi, gánh nước, nấu cơm
- Vậy thì đâu có gì khác ?
- Khác là hồi xưa lúc chặt củi, nghĩ chuyện gánh nước, lúc gánh nước nghĩ chuyện nấu cơm. Bây giờ thì làm việc gì nghĩ việc đó thôi !

Đúng vậy. Thực ra nếu đơn giản được như thế thì đã bớt khổ não phiền muộn rồi. Lâu nay biết bao nhiêu kinh sách thiền học, triết gia, tu sĩ, nói về đề tài "sống trong hiện tại". Thầy NH cũng đã chia xẻ rất nhiều về phương pháp hành thiền "Hãy an trú trong hiện tại" ở nhiều nơi trên thế giới. Nhưng cuộc sống này vốn không đơn giản vậy. Nhiều người hiểu rõ lý thuyết, đạo lý, kinh điển, nhưng rồi cả đời vẫn mãi loay hoay không thực hành được cái buông bỏ, đơn giản cho chính mình. Đời sống vốn có quá nhiều thứ phức tạp, dao to búa lớn. Từ con ngưòi đến xã hội, từ tôn giáo đến chủ thuyết, từ bằng cấp cho đến danh xưng, từ địa vị cho đến quyền bính, từ đoàn thể cho đến đảng phái, từ cá nhân cho đến chế độ, từ lý thuyết cho đến chủ nghĩa, từ lạc hậu cho đến ưu việt, từ ăn lông ở lổ cho đến công nghệ 4, 5 chấm ..v.v.  Cho nên không phải chỉ có tôn giáo, mà còn nhiều vấn đề khác trong đời sống, muốn đơn giản cũng chưa chắc được. Lòng người ngổn ngang ham muốn. Có lúc thiên hạ bắt cái đơn giản phải phức tạp theo họ, mới xứng tầm, mới đủ chất , mới thức thời, mới kịp trào lưu :-). Như mình đi cả nửa đời người rồi mà vẫn còn thấy ba lô sau lưng nặng trĩu. Tết ngồi mơ mộng chút, rồi ngày mai lại phải bận rộn theo nghiệp áo cơm !

Một nhà thông thái khác lên tận non cao để chứng minh cái bản lĩnh của mình, vì nghe ông Thầy nổi tiếng "cao tăng". Tay cầm con sâu đố ông Thầy :

- Thầy giỏi vậy, là cao tăng, vậy biết con sâu trong tay tôi là sống hay chết ?"
- Dạ, là con sâu chết !

Nhà thông thái cười ngạo nghễ, mở tay ra, chỉ con sâu còn sống mà nói :

- Vậy mà Thầy cũng đưọc gọi là cao tăng sao ? Thầy nói sai rồi, con sâu này còn sống.

Nói rồi, vứt con sâu ra bụi cây, hí hửng đi xuống núi. Vừa đi vừa dương dưong tự đắc nghĩ rằng ta tài giỏi, ta đã "thắng" được ông thầy đó. Tính ra tài cán của Thầy "cao tăng" cũng chỉ đến thế là cùng, còn bị thua mưu trí của ta.

Và cuộc sống này vốn không hiếm những người tư duy “tài ba” như nhà thông thái đó. Họ vẫn say men chiến thắng, vẫn đề cao cái ngã tối thượng của mình. Đến một lúc nào đó, nếu có duyên, nhà thông thái kia sẽ hiểu ra được tại sao nhà sư nói sai. (Trong điển tích này nhà thông thái được cha của ông chỉ điểm mới hiểu ra vấn đề). Còn nếu không gặp duyên, thì có khi cả đời ông ta vẫn nghĩ rằng mình đã mưu trí thắng được ông sư kia. Và sẽ có nhiều phiên bản (version) của câu chuyện tài giỏi “thắng cả cao tăng”  rêu rao đồn đãi trong thiên hạ. Đúng sai ai biết, mà sướng khổ ai lường ? Nhưng âu đó cũng là những duyên nghiệp bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Theo cách hiểu của nhà Phật, càng ít những chuyện hơn thua thị phi như vậy càng tốt, lòng người sẽ thanh thản hơn và cuộc sống sẽ an vui hơn. 

Ngày đầu Xuân, những người xa quê, thường nghĩ đến gia đình, anh em bạn bè, và quê hương. Nhìn lại quê mình, một đất nước có quá nhiều thiệt thòi, nội chiến, ngoại xâm, chiến tranh dai dẳng hết thời kỳ này đến thời kỳ khác. Về mặt con người, so với những quốc gia khác trong khu vực thì VN đã mất mát và đau thương quá nhiều. Những cuộc chiến huynh đệ tương tàn cứ xảy ra, mâu thuẩn triền miên, bằng mặt nhưng không bằng lòng. Nồi da xáo thịt, kéo dài hết triều đại này đến vương triều khác. Còn thắng thua chỗ nào ? Được mất ra sao? Dĩ nhiên là sự nhận thức của mỗi con người khác nhau. Cái nhìn về thời cuộc cũng luôn thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng hiểu biết của từng người. Người ngoài cuộc hiểu khác người trong cuộc, người thắng cuộc nghĩ khác người thua cuộc, đó là những chuyện thường tình. Có thể là thắng đối với góc nhìn này, nhưng lại là thua ở một góc nhìn khác. Mà cũng chưa chắc là thắng thua, hoặc chỉ là nạn nhân của những tham vọng, sai lầm, hoặc toan tính của các thế lực chính trị nào đó ? Có nhiều câu hỏi mình tin rằng sẽ lần hồi được sáng tỏ theo thời gian, nhưng cũng có những thắc mắc sẽ không bao giờ có lời giải đáp trắng đen rõ rệt. Tất nhiên là mỗi người có cách nghĩ và nhận thức riêng của mình. Câu hỏi quan trọng nhất sau mỗi cuộc chiến vẫn là “đất nước và dân tộc sẽ đi về đâu ?”. Quốc gia có được hưng thịnh hơn và người dân có được tự do hạnh phúc hơn không? 
Thực ra, cho đến thời điểm này, thì VN cũng là một trong vài nước ít ỏi còn lại trên thế giới, vẫn kiên trì đi theo chủ nghĩa Mác Lê. Đó cũng là điểm đặc biệt khác người. Bám trụ bền vững. Trong khi đó những đất nước từng là trụ cột của quốc tế CS như nước Đức của Mác, nước Nga của Lê Nin, cũng đã rời bỏ và thay đổi thể chế chính trị gần 30 năm qua.

Thôi ngừng ở đây, buổi sáng đầu năm bao giờ cũng an bình và lắng đọng. Uống ly cafe, nghĩ đến câu chuyện chặt củi, gánh nước, nấu cơm, sống trong hiện tại. Ngắm cành hoa đào, nhớ chuyện tự thắng thua của nhà thông thái và con sâu. Nghe bài nhạc Xuân nghĩ đến bài thơ cũ gần ngàn năm tuổi, mỗi dịp xuân về vẫn còn là đề tài thi thố của bao văn hào, tri thức, tài tử, thi nhân .....
Năm mới cầu chúc cho quê hương an lành, cho tất cả bằng hữu, anh em cùng gia đình thân tâm an lạc. Hy vọng mùa Xuân mới sẽ đem lại duyên lành và những niềm vui mới cho mọi người !



Sunday, January 06, 2019

Những lời hay đáng nhớ ....

Không lạ, không mới, nhưng bài nói chuyện của Đề đốc William McRaven vẫn đựơc đánh giá là những lời khuyên cần thiết và trung thực nhất cho giới trẻ chuẩn bị vào đời... Rất đáng nghe !





Wednesday, December 19, 2018

Monday, October 08, 2018

Nobel kinh tế

Nước Mỹ năm nay lại đoạt giải Nobel kinh tế. Lâu nay nước Mỹ vẫn thống trị về các giải Nobel, đặc biệt là Nobel kinh tế. Đọc những tóm tắt về thành tựu và công trình nghiên cứu của 2 ông William Nordhaus và Paul Romer, đáng kính nể. (Giáo sư Paul Romer là con của cựu thống đốc bang Colorado - Roy Romer).
Dĩ nhiên bên cạnh tài năng của hai ông giáo sư, ai cũng hiểu rằng môi trường sống, điều kiện học hành & làm việc, là những yếu tố chính quyết định thành tựu, chứ không phải là do người Mỹ thông minh siêu việt, hay thiên tài vĩ đại gì.

Hai người Mỹ cùng nhận Nobel kinh tế 2018

Vì sao người Mỹ thống trị Nobel kinh tế?

2018 Nobel in Economics Is Awarded to William Nordhaus and Paul Romer

Tuy nhiên, nhớ lại cái clip mình được coi trước đây của ông thầy này, mình nghĩ ban thẩm định giải Nobel kinh tế cần phải nghiêm túc kiểm điểm và rà soát lại :-).




Wednesday, October 03, 2018

Lại chuyện ông thẩm phán ...



Viết tiếp chuyện ông thẩm phán Brett Kavanaugh bị giới truyền thông và lưỡng đảng lôi ra những chuyện nhậu nhẹt say xỉn thời đại học. Thực ra thì người Mỹ không đến nỗi bảo thủ như thế, họ phân biệt được đâu là chuyện xưa đâu là chuyện nay. Nhưng chính trị bao giờ cũng có mặt trái bẩn thỉu của nó, quốc gia nào cũng vậy thôi, chỉ là ít hay nhiều. Khi có những mâu thuẩn xung đột, moi móc lại chuyện "không tốt" ngày xưa (không biết thật hư) là cách dễ nhất để hạ bệ uy tín người khác. Đôi khi lấy cả râu ông nọ cắm cằm bà kia. Âu cũng là chuyện thường, quê ta gặp hoài. Nhưng thời này thông tin đầy đủ, nên cũng ít người quan tâm đến tin đồn & những thủ thuật, tiểu xảo như thế. Vả lại cũng tuỳ vào nội dung của từng sự việc, thuộc về bản chất hay hiện tượng. Cái không tốt ngày xưa, nay có thể đã khác, vạn vật thay đổi cũng là chuyện thường tình. Cái mà giới chính trị quan tâm hơn là ông Kavanaugh có nói dối sau khi đã tuyên thệ (under oath) hay chăng ? Nghĩa là có biết, còn nhớ, nhưng không nói sự thực, dấu hẳn chuyện xưa. Một số người dân thì quan tâm tới thái độ nóng giận bộc lộ của ông khi trả lời chất vấn, bởi họ mong đợi một tính cách kiên nhẫn, trầm tĩnh, điềm đạm ở một vị thẩm phán tối cao. Nhưng suy cho cùng thì ông ta cũng là người thường, cho dù tài giỏi đến đâu cũng có giới hạn. Và những trò chơi truyền thông, chính trị, tâm lý, áp lực ... thì luôn luôn có những tác dụng nhất định của nó. Một trong những tác dụng trực tiếp là làm cho nhiều người rối mù, chẳng biết tin ai :-). Nhưng đã chọn ăn bún bò huế, thì phải chịu cay thôi. Chuyện thiên hạ bầu bán lâu nay cũng còn tuỳ thuộc vào não bộ của họ và nhiều yếu tố khác nữa. Có bầu bán công bằng đã là hạnh phúc lắm rồi, so với nhiều quốc gia khác chưa bầu đã bán, không có quyền chọn lựa, thì còn thê thảm hơn nhiều !

Nôm na là ở những xã hội dân chủ văn minh, người ta luôn đòi hỏi "chiếc áo phải làm nên ông thầy tu". Còn ở những xứ kém dân chủ văn minh, thì cứ khoác "chiếc áo" lên là muốn thiên hạ trọng, bắt người ta tin. Dĩ nhiên rồi cũng có kẻ tự nguyện tin, có người bắt buộc tin, có kẻ thấy thiên hạ tin mình cũng tin... Bên cạnh đó, cũng không hiếm người chỉ muốn an phận thủ thường ậm ừ cho qua, hoặc chẳng thèm quan tâm đến. Bởi thế, có nhiều "ông  thầy" ảo giác về giá trị "chiếc áo" mà mình đang mặc. Thậm chí ở một số nơi, người chết rồi còn sợ thiên hạ không khóc, có bao nhiêu giai thoại tốt lành đem ra rao bán nốt, ai tin được thì tin. Lâu rồi cũng quen !

Mình không phải là dân thích chính trị chính em, nên thường chỉ nhớ chuyện gì vui thôi. Như tổng thống Mỹ ông nào ghiền rượu là mình nhớ ...John Adams, Martin van Buren, Franklin Pierce, James Buchanan, Ulysses S. Grant, Grover Cleveland ...v.v. Ông nào thích chuyện em út, mình cũng nhớ, như Cleveland, Roosevelt, JFK, Bill Clinton ....chẳng hạn. Mà ở những đất nước dân chủ như Mỹ, thì những câu chuyện đó cũng bình thường. Tổng thống, chủ tịch, quan toà, lãnh đạo ... cũng là người, có ưu có khuyết, không ai bắt họ phải hoàn hảo như thánh. Quan trọng là họ đã có những đóng góp gì cho quê hương đất nước. Người dân tôn trọng những thành tựu và đóng góp của họ, nhưng cũng chả có ai bắt người khác học tập theo gương họ làm gì. Đời sống thực tế là vậy, mỗi người mỗi khác, càng cố tình thiêu dệt, càng thần tượng hoá, càng tốn công bảo vệ bào chữa, lại càng hài hước vấn đề mà thôi.

Thôi cũng mong mấy ông nghị bà nghị chốt sớm, để báo đài TV còn nói tin tức khác. (Sáng nay thấy có chuyển qua chuyện thuế khóa của T/T Trump rồi). Nhớ ông Voltaire có một câu rất nổi tiếng là "Judge a man by his questions rather than his answẹrs" (tạm dịch: hãy đánh giá một người bằng câu hỏi của họ thay vì câu trả lời". Mình đồng ý với câu này, nên lâu nay mỗi lần đi tới đâu mà nghe ông bà nào trả lời chung chung, na ná giống nhau, như ai viết sẵn tờ trình, cắm đầu cắm cổ mà đọc, là dẫu có hội họp gì quan trọng, cũng xin phép ra ngoài hút điếu thuốc ... :-) .


Thursday, September 27, 2018

Đi về đâu, mang được gì ?



“Tất cả lúa, đậu, tài sản, vàng bạc châu báu, tiền của, mọi vật sở hửu đều để lại hết khi người chủ của các thứ ấy chết đi. Người đó không mang theo được bất cứ thứ gì dù lúc còn sống người ấy ôm giữ từng giờ từng phút… Chỉ có cái đi theo người ấy lúc chết, đó là Thân, Khẩu, Ý và những gì người ấy đã làm lúc sống. Tất cả những thứ ấy đi theo để tạo Nghiệp báo cho đời sau mà thôi. Biết được vậy thì khi sống ta phải tạo việc lành, phải biết bố thí giúp người…”
(Tương Ưng Bộ Kinh)

Bà Dianne Perry, sinh trưởng tại Anh quốc (người mà sau này trở thành Nữ tu Phật giáo nổi tiếng thế giới, người đã trải qua 12 năm tu khổ hạnh nơi rặng tuyết sơn của Himalaya) lúc mới 12 tuổi đã có lần thấy một người vô gia cư chết bên gầm cầu. Cảnh sát lục lọi cái xách rách nát của người chết ấy chỉ thấy một cái bát một cái muống và vài đồng xu. Hôm đó trở về nhà, tuy nhỏ tuổi mà cô bé Diane Perry đã hỏi mẹ một câu đầy vẻ triết lý:

“Mẹ ơi! Tại sao người ta chết đi không đem theo được gì cả? Hôm qua con thấy một người chết bên gầm cầu, người ấy rất nghèo, chỉ có cái bát, cái muống và mấy đồng xu. Chỉ chừng ấy thôi mà khi chết người ấy vẫn để lại không mang theo sao?” Bà mẹ của Diane ngạc nhiên vì câu hỏi lạ lùng ấy và đã trả lời con: “Không con à! Khi chết không ai đem theo được bất cứ cái gì. Dù Vua chúa, người giàu sang hay kẻ nghèo hèn… một khi đã chết thì không đem theo của cải vật chất nào cả.”

Qua câu chuyện trên ta thấy rõ ràng trong thực tế có vô số người giàu có sống trên của cải nhưng khi họ chết đi, hai tay buông xuôi thì họ trở thành tay trắng vì không mang theo được dù một chút của cải vật chất nào. Sự kiện thực tế ấy từ lúc con người xuất hiện trên quả đất cho đến nay đều thấy rõ không ai chối cải. Ấy vậy mà từ xưa tới nay có biết bao người quyết chí làm giàu, lúc nào cũng mong tiền bạc đến với mình không dứt. Họ sống vì tiền, vui thú vì lo thu nhặt tiền bạc vào cho đầy túi nhưng không bao giờ chấm dứt được cái ham muốn ấy vì lòng tham quá mức. Đến khi xuôi tay thì tất cả tiền bạc của cải ấy đều để lại thế gian còn họ thì nằm dưới lòng đất lạnh.

Có biết bao nhà triệu phú, tỷ phú sống trên của cải, có người hằng chục tỷ mỹ kim, khi chết không mang theo được một cent nhỏ. Ngay khi đang làm giàu họ luôn luôn phải phấn đấu tranh giành, mưu lược để chống chọi lại với những gì bất lợi đến với mình. Do đó tâm hồn những người giàu có thường bất an hồi hộp, lo lắng mệt trí vì tính toán… không những thế họ thường keo kiệt không dám giúp đỡ ai vì sợ số tiền có được của mình hao hụt đi. Có người, ngay chính bản thân họ cũng không dám ăn tiêu huống hồ là nói đến chuyện giúp đỡ kẻ khác. Ngày nay cũng có hiều đại phú gia, nhiều người giàu có, tất cả đều bị như thế nhưng không ai chịu tìm hiểu xem mình


PHẢI LÀM GÌ LÚC ĐANG CÒN SỐNG TRÊN ĐỜI?

Vậy khi đang còn sống nên cõi đời nay thì ta nên làm gì?

Chúng ta có rất nhiều cách làm, nhiều cách hành động và suy nghĩ tốt lành nhưng vì quá bận rộn với cuộc sống đầy bon chen, đầy tham lam, đố kỵ mà ta không thực hiện được. Trước hết là cố gắng bỏ bớt dần “cái Ta” của mình đi. Vì cái Ta mà mình khổ, mà mình Tự ái, lo toan, ích kỷ, tự phụ, sân si, sầu hận. Cái Ta càng giảm thì tình thương bao la dễ nẩy nở. Tình thương đây không phải là tình thương đầy vị kỷ mà rộng rãi hơn, vị tha hơn. Đó là tình thương đồng loại thương người. Vì mỗi con người “đều là những kẻ đáng thương” – mà có khi còn đáng thương hơn mình nữa. Kinh Unanda có ghi câu “Ví dầu ai có đi khắp bốn phương trời cũng không thấy ai là kẻ đáng thương hơn mình. Ấy vậy là mình thương mình. Mình đã thương mình thì cũng đừng nên làm phiền người.” Ta không những không làm phiền người mà còn phải thương người nữa. Nhờ “tình thương” mà thân tâm con người được an lạc. Khi ta mang tình thương đến cho người khác thì chính là tự mình mang “hạnh phúc” đến cho chính mình.

Có thể lúc đầu vì “cái Ta” quá lớn nên ta không thể thực hiện và cảm nhận được điều đó vì khi cho, khi mang tình thương hổ trợ người khác ta thường hay nghĩ lại, hay tiếc rẽ, ân hận nên không cảm thấy được sự hạnh phúc vui sướng đến với mình.

CÓ PHẢI KHI CHẾT, KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC GÌ HAY KHÔNG?

Trở lại vấn đề Khi Chết không mang theo được gì, nhiều người đã nhận thức rõ điều ấy, và đó là một sự thật hiển nhiên mà từ cổ đại tới nay, mọi người trên quả đất đều thấy và biết.

Tuy nhiên, đối với Phật giáo thì Khi chết mỗi người đều có mang theo “cái” mà không ai thấy hay biết “cái” mang theo đó là “Cái Nghiệp” của chính họ. Cho đến nay, sự kiện gọi là Nghiệp quả hay Nghiệp báo vẫn còn gây nhiều thắc mắc khó hiểu mặc dù số lượng người tin vào Nghiệp (Karma) và nhất là tin vào vấn đề có sự tái sinh ở kiếp sau ngày càng gia tăng thấy rõ tại các nước Âu Mỹ.

NGHIỆP LÀ HẬU QUẢ CỦA KIẾP TRƯỚC?

Tái sinh vào kiếp sau tức là sau khi chết sẽ lại hóa sanh trở lại qua một kiếp đời khác.

Như vậy khi một người nào đó chết đi thì thật sự người đó không chết, vì chỉ cái thân xác tan rã mà thôi còn cái tinh anh vi diệu của người ấy (con ngươi, thường gọi là Hồn hay Linh hồn) lại chuyển qua một đời sống mới qua một thân xác mới. Sự luân chuyển từ kiếp nầy qua kiếp khác gọi là sự luân hồi. Mỗi giai đoạn sống trong sự chuyển hoá luân hồi ấy gọi là mỗi Kiếp. Mỗi Kiếp người đều phải chịu hậu quả của những hành động gây ra từ kiếp trước – tạo ra các nguyên nhân hay có thể gọi là cái nghiệp. Đó là luật Karma hay còn gọi là luật Quả Báo hoặc Nghiệp báo. Sự luân chuyển từ kiếp này qua kiếp khác gọi là Luân hồi.


NGƯỜI CHẾT CHỈ MANG THEO “CÁI NGHIỆP” CỦA HỌ ĐỂ TẠO QUẢ CHO KIẾP SAU…

Để hiểu rõ giai đoạn này, ta hãy bất đầu khi một người chết đi, họ trở thành bất động. Sở dĩ xác thân khi chết bất động vì thật ra nó chỉ là một khối vật chất bình thường trong tự nhiên mà thôi.

Nó như cái áo mặc, khi chết chính là lúc trút bỏ cái áo ấy. Khi sống, xác thân cử động được là nhờ có sự hổ trợ hợp đồng của các giác quan như thấy, nghe, nhận biết, ngửi, nếm, suy nghĩ tính toán… Khi chết, thân xác bất động thì các giác quan âý cũng mất luôn.

Tuy nhiên có 2 thể vật chất đặc biệt không bị mất đi, vẫn còn tồn tại. Hai thể này có tên gọi là Mạt Na Thức và A Lại Da Thức mà kinh Phật giáo gọi là hai thức. Hai thức này sẽ là cầu nối giữa cái xác thân đã chết vớì các xác Thân sanh trở lại của kiếp kế tiếp. Mạt Na Thức có nhiệm vụ sao chép lại bao quát về cá tánh, bản năng, năng khiếu, cảm xúc, sự hiểu biết và ký ức, hành vi cử chỉ lẫn tư tưởng của con người mà nó liên hệ lúc còn sống. Tất cả những ghi nhận, sao chép này từ Mạt Na Thức sẽ truyền hết cho A lại Da thức lưu trữ. Như vậy có thể hiểu A lại Da Thức như là một cái thư viện lưu trữ các tài liệu sách vở của một người lúc còn sống.

Tài liệu ấy bao gồm các đặc tính, bản năng, thói hư tật xấu và cả tánh tốt của người đó. Tuy nhiên tùy theo sự dồn nén tập trung tư tưởng, tình cảm nào đó quá nhiều như uất hận, căm thù, đau khổ, sợ hãi, nuối tiếc… thì những tư tưởng tình cảm ấy sẽ là đầu mối cho đời sống kế tiếp mang nặng tất cả những gì đã bị kích động dồn nén ấy. Do đó mà các vị chân tu thấy rõ điều đó đã căn dặn mọi người rằng; lúc sắp qua đời phải cố giữ tâm yên bình không nên nuối tiếc, đau buồn hay căm giận. Đặc biệt sự căm thù, lòng tức giận là mối nguy ghê sợ nhất nếu phát sinh lúc lâm chung thì lúc tái sanh sẽ rơi vào vòng đau khổ cùng cực. Đó cũng là lý do tại sao lúc người vừa mới chết, mọi người có mặt nên đọc kinh cầu nguyện, nhắc nhở tâm linh người chết nên sáng suốt, vui vẻ hầu tránh sự mê mờ u tối, lầm lạc khiến dễ sa vào chốn địa ngục.


NGƯỜI CHẾT CÓ CÒN BIẾT GÌ KHÔNG?

Đây là câu hỏi mà nhiều người đã thường đặt ra khi đứng trước xác thân một người vừa mới qua đời.
Nhiều người thắc mắc cho rằng một khi đã chết thì làm sao người chết nghe thấy, nhận biết những gì xung quanh nữa? như vậy tụng Kinh, đọc Kinh, nhắc nhở những điều tốt lành bên cạnh họ có ích gì nữa đâu? Phật Thích Ca bậc đã đắc đạo, giác ngộ, nên thấy biết hết những nguyên lý thâm sâu vi diệu trong vũ trụ. Theo Phật thì: khi một người chết thì cái xác thân của người đó trở nên bất động và không còn các tiếp nhận qua các giác quan liên hệ về thấy, nghe, ngửi, sờ, nhận thức nữa vì các giác quan ấy cũng không còn. Tuy nhiên nhờ hai thức còn lại là Mạt Na Thức và A Lại Da Thức mà người chết vẫn còn hiểu biết mặc dù tim đã ngừng đập, không còn thở, không còn cử động nữa mà thôi.


SỰ NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI CHẾT KÉO DÀI ĐƯỢC BAO LÂU?

Các kinh sách Phật giáo đều cho biết là thời gian ấy là 49 ngày. Một thời gian vô cùng quan trọng đối với người chết. Vì người ấy tuy đã chết rồi nhưng nhờ hai thức quan trọng là Mạt Na Thức và A Lại Da Thức còn tồn tại nên người chết vẫn còn hiểu biết rất rõ những sự việc chung quanh. Khi sắp chết, tim đập yếu dần, nhiệt lượng cơ thể giảm. Trong khi các giác quan bình thường sắp sửa biến mất thì hai thức Mạt Na và A Lại Da lại đảm trách công việc vào lúc này. Ta có thể nhận biết điều này khi thấy phần nhiều những người chết rất tỉnh táo vào giờ phút cuối cùng sắp từ giả cõi đời. Có người chuẩn bị tắm rửa sạch sẽ trước khi chết hay dặn dò vợ con điều này điều kia. Ây là do thức Mạt Na của người ấy phát động vào lúc người ấy sắp lìa đời. Thức Mạt Na là phần ghi nhận tất cả những gì liên quan tới cảm nghĩ, nhận thức hành động của người ấy nên thức này khi mở ra chẳng khác nào mở cuốn tự điển của cuộc đời nên không quên bất cứ điều gì trước đây dù xa xưa tới mấy. Cái nhớ, biết rõ ràng như thế nên trước khi lìa đời người chết nói năng rất tỉnh táo sáng suốt.

Trong khoảng thời gian 49 ngày, thức A Lợi Da trước đây im lìm khi người còn sống thì nay hoạt động Vì là nơi tích trữ các dữ kiện về tâm thức hành động bản năng, tư tưởng, tình cảm, ý muốn của người ấy lúc còn sống do Mạt Na Thức chuyển tới nên vào giai đoạn này, nếu vì lý do nào đó mà A Lợi Da Thức bị kích động mạnh bởi những tác động ảnh hưởng bên ngoài như sự kêu gào thãm thương, đau đớn của thân nhân người chết hay bản thân người sắp chết căm hờn, tức tối, oán thù thì những tác động âý sẽ khiến người chết không nguôi và ảnh hưởng tới cuộc đời kế tiếp khi tái sanh khó mà vào được hoàn cảnh thanh lành. Như vậy khi một người chết, ta nên nghĩ là người ấy chết về phần xác thân mà thôi còn một phần thuộc tâm linh vẫn còn ràng buộc với thân xác, chưa hẳn rời ra ngay nên người chết ấy chưa hẳn là đã chết một cách tuyệt đối. Tình trạng này có khi lâu đến mấy ngày. Trong thời gian đó phần cảm nhận mà người chết có được là nhờ thức gọi là Thần Thức. Chính Thần Thức này là do Mạt Na Thức và A Lại Da Thức kết hợp lại mà thành. Khi chết Mạt Na Thức và A Lại Da Thức liên kết nhau tạo nên một thân mới khác, nhưng thân mới này không có hình hài gọi là Thân Trung ấm. Mặc dầu Thân Trung ấm vô hình vô tướng nhưng lại có sự thông hiểu tinh tường hơn cả người sống.

Thân Trung ấm chính là cái thân chuẩn bị của tương lai khi xác thân cũ sẽ tan rã, hủy hoại.

Khi chuyển biến từ kiếp này qua kiếp khác, thức A Lại Da đóng vai trò quan trọng vì nó chứa đựng một năng lực vô song.


SỨC MẠNH CỦA NGHIỆP LỰC.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Gia Cát khi tìm hiểu về Thần Thức và Năng lực bảo vệ đã có những ghi nhận như sau: Khi con người trút hơi thở cuối cùng thì cơ thể vẫn còn có một nơi tập trung hơi nóng ấm, đó là Thần Thức. Thần Thức là tất cả những hành động của quá khứ tập trung lại tạo nên một sức mạnh vô hình, mầu nhiệm chuyển dẫn người chết lại đầu thai vào xác thân khác để chịu Quả Báo.


Sức mạnh đó là sức mạnh của Nghiệp lực. Cái mà nhiều người gọi là Hồn thật ra là Thần Thức chớ không gì khác. Thần thức lưu giữ tất cả mọi cá tính, bản năng, hành động, hoàn cảnh… của người đã chết đầy đủ, không thiếu sót (Chính vì lẽ đó mà không ai có thể che dấu những gì mình đã làm, vì Thần thức đã giữ bản sao của đời người đó từng chi tiết rồi) Vì thế cho nên dù người đó đã qua đời, thân xác đã tan rửa nhưng vẫn còn phần quan trọng là Thần thức là bản sao chép về đời người đó vẫn còn và tạo ra một năng lực gọi là Nghiệp lực. Nghiệp lực ấy sẽ chuyển dần người chết đầu thai vào một thân xác mới khác để chịu quả báo.


THẦN THỨC THOÁT KHỎI THÂN XÁC TỪ VỊ TRÍ NÀO?

Trong dân gian ta thường nghe nói: người chết thì Hồn ra khỏi xác. Chữ Hồn ấy chính là Thần Thức. Khi một người chết đi thì trong một thời gian nào đó mặc dầu người đó đã chết nhưng vẫn còn hiểu biết và sự hiểu biết ấy còn linh diệu hơn khi người đó còn sống. Âý là do sự hiện hữu và hoạt động của Thần Thức. Nhưng Thần Thức cũng sẽ rời khỏi xác thân sau một thời gian. Thần Thức sẽ thoát ra khỏi thân xác người chết ở những vị trí khác nhau tùy vào Nghiệp lực. Nếu nghiệp lực nặng nề thì Thần thức sẽ thoát ra từ phần dưới của cơ thể người chết như từ bàn chân từ bụng hay đầu gối. Nếu Nghiệp lực thanh cao tốt lành thì Thần thức sẽ thoát ra từ trán, mặt hay ngực.

Nhiều tài liệu Kinh điển cổ xưa cho hay rằng có thể quan sát sắc thái, tình trạng, cảm giác thể hiện nên gương mặt của người sắp chết mà suy đoán vị trí thoát ra của Thần Thức như sau: Khi thấy gương mặt người chết nhăn nhó, mặt xám đen, quằn quại thì biết ngay là Thần Thức thoát ra từ bàn chân. Nếu người sắp chết đòi ăn, đòi uống, tiếc nuối, than vãn, khổ sở, đau đớn thì Thần Thức chuyển từ bụng xuống đầu gối và thoát đi.

Nếu người chết bình tỉnh, sáng suốt, dặn dò người thân mọi điều và giả từ ra đi hay từ từ nhắm mất trong an bình tự tại thì Thần Thức sẽ thoát ra từ ngực hay trán hoặc mặt.


NGHIỆP CÓ NHIỀU LOẠI:

Nếu phân chia theo chi tiết thì có rất nhiều loại Nghiệp khác nhau.

Tuy nhiên để hiểu khái quát, chúng ta chỉ nên nhớ mấy loại Nghiệp chính sau đây:

1) Nghiệp hiện tại: Tạo ác và bị quả báo ngay trong đời. Ví dụ anh A giết người và mấy năm sau anh ta bị tai nạn qua đời.

2) Nghiệp đời sau: Do tạo nghiệp đời này và đời sau (kiếp sau) mới bị quả báo. Có khi đến mấy kiếp sau mới bị quả báo.

3) Nghiệp bất định: Quả báo đến không nhất định về thời gian có thể mau hay chậm.

4) Nghiệp tích lũy: Nhiều nghiệp quả từ nhiều đời tích tụ lại.

5) Tập quán nghiêp: Nghiệp tạo ra theo tập quán . Ví dụ người làm nghề giết mổ heo gà vịt hành nghề lâu thành tập quán không bỏ.

6) Nghiệp Cận tử: Nghiệp tạo ra vào lúc gần lâm chung. Ví dụ một người lúc gần chết dùng vũ khí giết người vì căm tức hay để trả thù.


NGUYÊN NHÂN HÀNH ĐỘNG PHÁT SINH MỨC ĐỘ NGHIỆP QUẢ.

Khi một người làm việc ác cùng với sự hăng say thích thú trong lúc hành động thì quả báo đến với họ gia tăng. Nhưng nếu một người làm điều ác theo lệnh cấp trên, bị bó buộc, bị sai khiến, thúc hối phải làm nhưng trong lòng không muốn, cảm thấy đau khổ xót xa vì biết là mình làm điều ác thì nghiệp quả vẫn tạo ra nhưng không lớn lao như người vừa mô tả trước. Vậy các nguyên nhân giữ vai trò quan trọng trong luật quả báo. Anh A làm điều ác, quả báo phản hồi về hành động ác ấy tùy vào nguyên nhân nào đã khiến anh ta hành động. Nguyên nhân ấy có thể do lòng gian ác hung bạo hận thù hay có thể là do bị bắt buộc nếu không làm thì anh ta phải chịu chết. Như thế nguyên nhân gây hành động tàn ác khác nhau nên hậu quả do quả báo đem lại khác nhau. Khi bàn về sự kiện này có người đã dựa vào lý luận để bào chữa cho hành động sai quấy của mình như người ăn trộm nghĩ rằng: Vì đói vì muốn cho vợ con hạnh phúc nên anh ta phải đi ăn trộm nên theo anh ta thì nguyên nhân ấy chắc sẽ không nhận quả báo quá nặng nề!

Nếu lý luận theo cách đó thì rõ ràng anh ta chưa hiểu thế nào là thiện tâm là đạo đức là quả báo.
Nếu cứ nghĩ sai lạc như thế thì kẻ giết người cũng sẽ bảo rằng: nếu tôi không giết người đó thì người đó sẽ tố cáo tôi – vì tôi sợ nên tôi phải giết thôi. Lý luận ấy cũng hồ đồ như có một kẻ sát nhân đã bảo: Tôi phải giết người ấy để lấy tiền bạc vì gia đình tôi đang túng thiếu !

Làm việc thiện không phải lớn lao mới tạo phước đức. Đôi khi việc nhỏ mà hành động với Tâm lành thì phước đức lại rất lớn lao. Nhiều người nói ta toàn chuyện phước thiện lớn lao ý nghĩ to lớn nhưng thực tế thì chẳng có gì cả.

Đã có biết bao người thường nói: “Cầu cho tôi được trúng số tôi sẽ xây mấy cảnh chùa nhà thờ! Tôi sẽ… Tôi sẽ… “Chuyện trúng số thì biết bao giờ mới trúng, nên chi cứ nói mà không thấy trong khi có người lở đường xin chút tiền mua cơm ăn lại không cho, nghe đồng bào bị bảo lụt đói lạnh không dám bỏ vài đồng đóng góp. Thực tế trước mắt không thực hiện, chỉ thực hiện ở đầu môi chót lưỡi mà thôi. Thế gian có vô số người như thế.

Theo các kinh sách và lời giảng của các bậc tu hành thì trong cuộc đời dù ta làm việc Thiện nhỏ nhoi tới mấy đi nữa thì đó cũng là gieo mầm phúc thiện.

Cứ mỗi ngày mỗi giờ mỗi phút ta suy nghĩ những điều tốt lành làm những việc hướng Thiện thì dù nhỏ tới mấy nhưng cứ một ít, một ít dồn chứa tích tụ lại và cuối cùng đời ta cũng sẽ tạo được phước lành nếu không có ngay trong đời này thì cũng sẽ ở đời sau.

Mình muốn được mọi người thương mến mình thì cách hay nhất là mình phải thương mến mọi người hay ít nhất là đừng ghét họ. Vậy cái nguyên nhân tạo nên mối thiện cảm tốt lành chính là Tình thương.
Do đó Kinh Phật có câu: “Đem yêu thương xóa bỏ hận thù”.

Theo thuyết luân hồi thì mọi thứ trên thế gian khi có sự gặp gỡ hội tụ liên kết nhau là do ở nhân duyên, nghiệp lực làm phát sinh.

Tại sao cô con gái nhà đó lại làm con dâu nhà tôi?

Tạo sao ông bà ấy lại là cha mẹ chồng của tôi?

Tại sao chúng tôi lại sống cạnh nhau?

Phải chăng là do có nghiệp báo luân hồi với nhau?

Phải chăng chúng ta có Nợ với nhau?

Như vậy, nếu có thì chúng tôi phải sống với nhau như thế nào cho tốt?

Thật ra còn vô số sự kiện mà từ đó phát sinh nghiệp quả chồng chất ngày càng lớn lao như tội lừa dối(lừa dối chồng vợ, con cái, bè bạn người khác hăm dọa như nặc danh hăm dọa bằng lời nói….), xúi giục (xúi người khác làm điều xấu, hại người), chế diểu (cười cợt khi thấy kẻ khác gặp điều không may), ganh ghét (thấy kẻ khác hơn mình thì sanh lòng tức giận), ích kỷ (chỉ muốn tốt lợi cho mình mà không muốn tốt hay lợi cho người), sang đoạt, (lấy nhà cửa của cải người), gạt gẩm, giả mạo, bày mưu tính kế (chuyên làm giấy tờ giả mạo, sản xuất giả mạo – hàng giả, chế thuốc giả mạo, pha chế thức ăn giả mạo bằng những chất có hại cho cơ thể người tiêu dùng, bày mưu tính kế lừa gạt người hay làm hại người..) ..vân vân .

Những sự kiện vừa kể đã thường xảy ra từ muôn nơi và muôn thuở. Tuy nhiên những người phạm vào các vấn đề trên hiếm người cảm nhận được rằng mình làm điều sai quấy để rồi ân hận hối lỗi mà bỏ qua. Trái lại rất nhiều người biết việc mình làm sai nhưng vẫn cho là không ác hại gì và cứ thế mà tiếp tục. Hậu quả là ác nghiệp tạo thành ngày càng chồng chất khiến tội lỗi ngày càng nặng nề thêm và dĩ nhiên họ phải nhận lãnh quả báo không may sớm hoặc muộn mà thôi. Muốn nghiệp báo đừng tạo thêm và giảm thiểu thì nhớ lời dạy của Phật: Ý nghĩ và hành động tốt lành (Thiện) thì nên nghĩ tới và tiến hành. Nếu việc Thiện đã tiến hành rồi thì nên phát triển việc thiện ấy ngày càng lớn thêm. Ý nghĩ và hành động xấu xa, tàn ác hung dữ thì nên diệt ngay trong ý nghĩ, không cho phát sinh. Nếu lỡ đã tiến hành thì nên ngừng lại và dứt bỏ không làm nữa.


NGUYÊN NHÂN NÀO KHIẾN TA PHẢI ĐAU KHỔ!!!

Con người sinh ra và sống trên cõi đời không ai là không khổ. Từ vua quan cho tới kẻ cùng dân, ai cũng đều có cái “Khổ” riêng cả. Cư sĩ T.Q. đã nêu một vài cái Khổ trong bài viết “Thân thể con người”: Cái chết là một cái Khổ trong 8 thứ Khổ của con người:

Khổ vì bị Sanh ta, Khổ vì bị Già, khổ vì bị Bệnh, Khổ vì bị Chết, Khổ vì bị gần với những thứ mình không ưa, Khổ vì bị xa với những thứ mình ưa thích, Khổ vì muốn mà không được, Khổ vì có quá nhiều sức khỏe và Ngũ ấm. Ngũ Ấm gồm năm thứ:

1) Sắc: chỉ cho các hình danh sắc tưởng.
2) Thọ: chỉ những cảm giác
3) Tưởng: chỉ những sự tưởng tượng, suy nghĩ
4) Hành: chỉ cho các hành động tạo tác
5) Thức: chỉ cho các cái biết của “Ý”

(Cư sĩ T.Q – thân thể con người – Báo Viên Giác – số 113, tháng 10-1999 Đức Quốc)

Còn có cái Khổ khác nữa do mỗi con người tự tạo ta đó chính là Các Tâm của mỗi người. Cái Tâm đó thường tham lam, thường mơ mộng, tưởng tượng những thứ không có thật mà cứ tưởng là có Thật.

Cái Tâm cũng là nguyên nhân tạo ta những hậu quả. Kinh Phật giáo thường cho rằng: “Mọi sự tại Tâm” đã nói lên điều đó.

Ngoài cái Tâm ta còn có Cái Thân. Cái Thân xác mà ta cho là sự “Của Ta” hay “chính là Ta” Vì cái Thân ấy mà Ta phải Khổ. Có Thân thì có ham muốn vì đó chỉ là các thân vật chất thật sư. Có ham muốn là có chiếm hữu, sinh ra ích kỷ chỉ muốn lợi cho thân mình mà không muốn cho ai được lợi cả. Như thế càng ham sống là càng gây ra nhiều nghiệp quả để rồi nhận lấy quả báo luân hồi đau khổ.

Nếu biết Các Xác Thân chỉ như các áo ta mặc thì sự khổ đau, bệnh hoạn chỉ như cái áo bị rách cũ mà thôi.
Cái xác thân ta đẹp đẽ hay xấu xí thì cũng như cái áo ấy màu sắc đẹp đẻ hoặc không được sáng sủa hấp dẫn. Khi chết chính là lúc cái áo ấy bị thay bỏ không mặc nữa và rồi ta sẽ mặc vào cái áo khác. Khi sống, ta cử động nhúc nhích, đi lại thì cái thân xác ta cử động, nói năng, nhận biết, cảm xúc nhưng thật ra các hổ trợ đó không phải phát xuất từ cái xác thân mà từ nhiều thứ như ý nghĩ, cảm giác, thấy nghe, nếm ngửi…vân…vân. bộc lộ qua tai, mắt, mũi, miệng, lưỡi…Khi chết những thứ đó đều mất đi. Vậy mà chúng ta, ai cũng nghĩ về Cái Thân Xác mình mang và cho đó là Chính Mình. Thật sự thì cái Thân xác ấy chỉ là những vật chất cơ bản tạo nên và sau một thời gian cũng quay về với cát bụi mà thôi. Để chứng minh cái Thân xác ấy có phải của Ta không thì ta hãy nhớ lại là Cái Thân ấy có hoàn toàn theo ý ta không? Ta thì luôn luôn muốn khỏe mạnh, nhưng xác thân muốn đau yếu, bệnh hoạn muốn chết khi nào là tùy ý nó. Ta không muốn uống nước nhưng cái xác thân lại Khát và ta phải chìu ý nó. Ta cố rán sức thức nhưng cái Xác Thân cứ muốn ngủ không theo ý ta. Có khi ta quyết nhịn ăn, nhưng cái Xác lại đòi ăn. Rõ ràng là cái Thân làm ta Khổ

Ngay cả Cái Tâm mà chúng ta nghĩ ngợi, phân tích, suy tính thiệt hơn ta cũng tưởng là “của Mình” luôn.. Nhưng cũng chính Cái Tâm làm mình khổ. Tạo sao Cái Tâm thật sự không phải là Ta?. Nếu Tâm là Ta thì chỉ có mỗi một thứ Tâm thôi, cớ sao lại hai thứ như Tâm Thiện và Tâm ác? Vậy đã là Cái Ta thì tại sao lại là hai được? Còn Cái Tâm làm cho ta đau Khổ thì thật quá nhiều. Ví dụ như khi Ta muốn điều gì tức là Tâm ta muốn nhưng đâu có phải muốn là đạt được. Ví dụ lúc ta có Thiện Tâm, ta muốn người bị bệnh được lành hay người nghèo có được tiền bạc, nhưng điều mình muốn hay Tâm mình muốn như thế đâu có phải hoàn toàn được như ý. Thế là ta Đau khổ vì không đạt ý nguyện. Đôi khi vì lòng ghen tức căm ghét một người nào đó nên ta muốn kẻ ấy phải bị khổ đau nhưng kẻ ấy vẫn bình yên an lành. Như thế là Tâm muốn mà không được cũng khiến ta đau khổ.

Vậy chính Cái Thân và Cái Tâm làm mình ham muốn, tự cao tự đại, tự ái phân biệt, ích kỷ, tham lam, ganh ghét, giận hờn. tức tối…Nghĩa là vì Cái Thân và Các Tâm mà càng ngày mình càng phát triển
Tham Sân Si, lòng thù hận nhiều lên nhất là khi mình cứ nghĩ là Cái Thân chính là của mình, Cái Tâm chính là mình. Chính vì sự nhầm lẫn mê mờ u tối trong nhận thức về cái xác thân và cái Tâm như thế nên hằng phút, hằng ngày, hằng giờ… mỗi người đều tự tạo cho mình biết bao hành động, ý nghĩ sai lầm tội lỗi khiến tạo ra biết bao nghiệp báo chồng chất không bao giờ vơi mà mình không biết??!…!…

(Xin cảm ơn tác giả bài Viết)
Nguồn: Thư viện Hoa Sen

Saturday, September 15, 2018

Hội, Họp phụ huynh ở Mỹ



Trước hết cũng nên biết là ở Mỹ, chương trình giáo dục chủ yếu dựa vào quyết định của chính quyền tiểu bang, quận hạt, chứ không phải là của chính phủ liên bang. Không có chương trình giáo dục chung cho cả nước, không sách giáo khoa chung, không có kỳ thi tốt nghiệp phổ thông chung, không cải cách chung ... Nên sẽ không ngạc nhiên lắm khi có ông bà VK này nói chỗ tui trường dạy như thế này, người khác lại nói con tui học như thế khác.

Nói đến chuyện hội, họp phụ huynh ở Mỹ, mình thấy họ làm việc hay và thực tế, đáng học hỏi. Nhưng dĩ nhiên là những nước như VN sẽ không dễ dàng học theo cái hay chỗ khác được, vì còn rất nhiều cơ chế chằng chịt. Vả lại cũng chưa chắc là chấp nhận thiên hạ ưu việt hơn mình. Ví dụ như muốn làm theo cách lập hội phụ huynh ở Mỹ thôi, thì cũng sẽ phức tạp lắm rồi. Lập hội đoàn sinh hoạt, thì cũng phải cần quy trình, đơn kệ, xét duyệt của bộ giáo dục cho phép thuận chủ trương, chính sách. Có khi còn phải lên cả bàn nghị sự quốc hội, trình tbt, thủ tướng chính phủ, chứ chẳng vừa. Nếu không, công an cho là vi phạm luật hội đoàn, tập trung trái phép, thế lực thù địch, cấm đoán. Báo chí lề phải lề trái sẽ nhảy vào, đứa nói đúng, đứa nói sai, đứa thổi phồng, đứa bóp méo, đứa nịnh đầm vu khống, đứa hù doạ vu vơ, đứa đâm thuê chém mướn, đứa tát nước theo mưa... rối cả lên. Mạng xã hội thì nhiều khi nghe chữ được chữ mất, không cần kiểm chứng phân tích, cứ thế mà like, mà phát tán, mà bàn đề, luận trạng, thánh phán. Không lâu, tất cả sa lầy mê hồn trận, người nghe chẳng biết đúng sai, đầu đuôi ở đâu. Dông dài nhưng đó vẫn là những chuyện thường có thể xảy ra !

Trở lại chuyện hội phụ huynh học sinh của các trường phổ thông ở Mỹ. Mỗi trường đều có hội PTA/PTO (Parent-Teacher Association/Organization), bao gồm phụ huynh và thầy cô giáo. Nhiều trường cấp 3 còn cho cả học sinh tham gia thành ra hội PTSA (parent-teacher-student association). Hội này sẽ là cầu nối liên lạc giữa gia đình và nhà trường, tổ chức các sự kiện lễ hội, hoạt động xã hội, thể thao, văn nghệ, hổ trợ cho sinh hoạt học đường. Phản ảnh ý kiến của cha mẹ và địa phương đến với nhà trường. Ngoài ra hội này cũng tổ chức tham gia vận động bán hàng, văn nghệ, kêu gọi đóng góp của phụ huynh, để gây quỹ điều hành và thực hiện tôn chỉ mục đích phục vụ học sinh và thầy cô giáo. Ở nhiều địa phương, các hội đoàn này rất mạnh, đã góp phần lớn trong công cuộc giáo dục và kết nối cộng đồng. Nếu phụ huynh nào có điều kiện thì tự nguyện tham gia điều hành, hoặc thiện nguyện đóng góp, không bắt buộc.

Còn họp phụ huynh là cơ hội để cha mẹ gặp mặt với thầy cô giáo dạy con mình, không nhất thiết có liên quan gì đến hội PTA/PTO. Năm nào cũng có, có khi năm gặp vài ba lần. Cũng không bắt buộc, cứ thông báo về nhà, cha mẹ nào quan tâm thì đi, không thì thôi. Nhiều phụ huynh con em mới nhập cư, trở ngại về ngôn ngữ, hoặc phải đi làm lụng nhiều, nên cũng ít tham gia. Mình có quen một số gia đình VN, chưa bao giờ đi họp hành phụ huynh, nhưng rồi "đời mình cũng qua". Nhiều trẻ tự biên tự diễn rồi cũng thành đạt, có khi còn trở lại dạy cho cha mẹ hiểu biết thêm về đời sống & văn hoá xứ người. Thời mới đến Mỹ, nhiều gia đình có con em bỏ học, kết bè kết nhóm, cả năm chưa biết, vì mãi vất vả kiếm sống mưu sinh, gởi tiền về quê nhà. Đến khi cảnh sát hoặc nhân viên xã hội đến nhà mới biết, rất đáng thương. Thực ra, những buổi họp phụ huynh này rất quan trọng, nếu mình muốn biết con cái được dạy dỗ như thế nào. Thầy cô thường sẽ trình bày những phương thức, nội dung chương trình, và cách dạy của họ. Cũng như cách cho điểm, cách thưởng phạt, cách liên lạc chặt chẽ giữa thầy cô và phụ huynh để hổ trợ con em học sinh trong năm. Đó cũng là dịp cho cha mẹ và thầy cô trao đổi những quan tâm cụ thể về từng cá nhân học sinh hoặc thắc mắc của phụ huynh. Đặc biệt là không "phong bì" nghen :-).

Phụ huynh xứ này có thể tham gia đóng góp ý kiến sửa đổi giáo trình và cách dạy. Dĩ nhiên là được sự đồng thuận từ thầy cô giáo hoăc hội đồng (board). Cũng có nhiều cha mẹ không đồng ý với các giáo trình, tài liệu hoặc phim ảnh mà thầy cô xử dụng trong dạy dỗ, thì có quyền phản đối và không cho con tham gia. Không đồng ý nữa, thì kiếm trường khác hoặc đem con về nhà tự dạy cũng được (homeschooling). Những chuyện như thế này thì khó mà thực thi được ở quê nhà. Nhiều người ở VN rất sợ làm "mất lòng" thầy cô giáo. Chuyện "nói không" với nạn tiêu cực thôi, mà bao đời bộ trưởng đã bó tay rồi. Nhiều bậc cha mẹ cứ đưa cái phong bì rồi giao trứng cho ác, mà không biết con mình sẽ học những gì, tròn vuông hay tam giác ! Ngay cả trường quốc tế ở VN cũng vậy. Không biết bây giờ có tiến bộ hơn chưa, chứ lúc trước nhiều trường cứ mướn giáo viên bừa bãi, nhất là những trường "quốc tế" trá hình. Cứ tây, cứ nước ngoài, xí xô xí xào, là mướn vào. Nhiều "thầy cô" chưa từng qua trường lớp sư phạm hoặc kinh nghiệm dạy dỗ nào. (Nên lưu ý là ngay cả những người tốt nghiệp sư phạm tại Mỹ cũng phải qua thời gian thực tập, phụ lớp, rồi mới được đứng lớp. Dạy lớp nhỏ càng khó hơn). Thế nhưng ít có phụ huynh nào dám lên tiếng sửa sai, hoặc ý kiến ý cò. Do vậy, cũng không hiếm lắm những câu chuyện chất lượng giáo dục dở khóc dở cười !

Mới hôm tuần rồi, mình đi họp phụ huynh cho con. Đứa con có ghi tên học lớp lịch sử "Lessons in Vietnam" (tạm dịch: Những bài học ở Việt Nam). Ông giáo thấy mình đầu đen, da vàng mũi tẹt, hỏi thăm có phải là người VN không ? Thế là cuối giờ họp, tha hồ rôm rả chuyện Việt Minh, Việt Cọng, Cọng Hoà, OSS, Tân Trào, Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Truman, Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon, Hiệp định Sơ Bộ 1946, Geneva 1954, Paris 1972 ....
Thấy ông thầy mê VN thế, mình nói - Thầy nên để dành tiền mà đi thực tế VN một chuyến. Dĩ nhiên bây giờ không còn những thứ của trước năm 1975 mà thầy đã từng đọc. Nhưng vẫn còn đó văn hoá nón lá(*), phở, cafe ...và những ngổn ngang mơ ước của một dân tộc. VN ngày nay đã có những ngôi tháp cao nhất, những cây bánh tét dài nhất, những tượng đài lớn nhất, những cáp treo dài nhất, và quan trọng nhất là như Bùi Giáng nói ....Dạ thưa xứ Huế bây giờ. Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương .... :-) .

(*) theo cựu BT Văn hoá HTA


Saturday, August 25, 2018

Vu Lan và tháng Cô hồn



Ngày mai rằm tháng 7. Người VN ta bao lâu nay vẫn quen thuộc với ngày lễ Vu Lan, với Kinh Vu Lan Bồn (Yulanpen Sutra) & câu chuyện bồ tát Mục Kiền Liên (Mulian/Moggallana) tìm cách cứu Mẹ. Tháng Bảy là mùa báo hiếu, nhưng cũng là tháng cô hồn, là mùa "xá tội vong nhân". Những chiếc lồng đèn trên sông, những vòng hoa tinh khiết, những đóa sen nguyên nụ, những bó hoa huệ hoa cúc tươi rói, đủ loại bánh trái, trầm hương, nhang đèn hoa quả ...đăng dâng như ngày hội lớn. Những bài hát, bài thơ về Mẹ về Cha, và những bông hoa đỏ hoa trắng được cài trên áo như một thông điệp nhắc nhở hàng năm về đấng sinh thành (lệ cài hoa này là do thầy Nhất Hạnh mới đem về VN vào những năm 60).

Thực ra, mãi cho đến ngày hôm nay, câu chuyện về nguồn gốc của ngày lễ Vu Lan vẫn còn là những dấu hỏi. Có những nghiên cứu không đồng nhất giữa PG Đại Thừa (Mahayana) và Tiểu Thừa (Theravada). Nhiều người cho rằng lễ Vu Lan bắt nguồn từ PG Đại Thừa, xuất hiện khoảng thời gian gần 800 năm sau thời Đức Phật tại thế. Theo Phật giáo Trung Hoa, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ là người dịch Vu Lan Bồn kinh (Yulanpen Sutra) đầu tiên vào đời Tây Tấn, khoảng thế kỷ thứ 3 sau CN. Đến đời sau, một bản dịch khác xuất hiện với tựa đề là "Phật Thuyết Báo Ân Phùng Bồn Kinh", nhưng không rõ người dịch. Mặc dù ở Ấn Độ, khi Đức Phật còn tại thế, con cháu của những người qua đời cũng đã thực hiện nghi lễ cúng dường Đức Phật và chư Tăng như kể trên, nhưng không rõ nét để chứng minh là điển tích Ngài Mục Kiền Liên và kinh Vu Lan bồn (Yulanpen Sutra hoặc Ullambana Sutra) tồn tại vào thời bấy giờ.

Một số học giả phương Tây từng nghiên cứu Phật giáo thì cho rằng câu chuyện bồ tát Mục Kiền Liên mang tính triết lý biểu tượng về ý nghĩa "cọng nghiệp" & sức mạnh của "bá tánh", chứ không hề mang ý nghĩa "cứu độ" và "thần thông". Bởi PG nguyên thể luôn chủ trương tự tu, tự sửa, tự diệt khổ, tự giác ngộ, và tự giải thoát cho chính mình.

Sau khi Vu Lan Bồn du nhập vào Trung Hoa, Lương Vũ Đế là vị vua đầu tiên xuất gia và cũng là người đầu tiên cúng Vu Lan Bồn vào năm 538. Sau đó lễ này được truyền khắp Trung Hoa rồi truyền qua Việt Nam. Theo Đại Việt sử Ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, lễ Vu Lan bồn du nhập vào nước ta rất sớm. Năm 1072, vua Lý Nhân Tông đã từng thiết trai đàn cầu siêu cho cha mẹ. Thế rồi, qua thời gian, Vu Lan bồn dần dần trở thành đại lễ cho đến ngày nay.

Còn những người nghiên cứu PG Tiểu thừa (Theravada) lại nói về Vu Lan có liên quan đến những câu chuyện giáo lý của Đức Phật và đệ tử của Ngài khi giải thích về vong hồn, tái sinh ..vv. Từ đó những câu chuyện về cứu rỗi, đầu thai, vong hồn, ma qủy, xá tội vong nhân (Petavatthu) được lưu truyền ở nhiều nước châu Á như Cambodia, Lào, Thái Lan, Sri Lanka, Singapore, Mã Lai .... Những câu chuyện này không liên quan đến chuyện của Ngài Mục Kiền Liên. Do vậy, hàng năm những nước này cũng có tổ chức ngày Lễ Cô Hồn (Hungry Ghost Festival/Ghost Festival) nhưng không mang ý nghĩa mùa báo hiếu như ở VN.

Cho dù thế nào chăng nữa, thì Kinh Vu Lan Bồn và câu chuyện báo hiếu của Bồ Tát Mục Kiền Liên là một câu chuyện kinh điển PG, một bài học rất đáng trân trọng, và một tục lệ văn hoá đáng được truyền tụng và duy trì trong cuộc sống.

Người VN ta lâu nay theo truyền thống kết hợp cả hai lễ hội vào chung tháng 7, mùa lễ Vu Lan báo hiếu và tháng cô hồn. Rằm tháng 7 thì chùa chiền nào cũng lễ lộc đầy đủ, nghi lễ đàng hoàng. Cúng thí, cầu siêu, cầu an, phóng sanh, hoan hỉ cúng dường rầm rộ. Tháng 7 AL cũng là tháng cuối mùa An Cư Tự Tứ của chư Tăng PG, nên càng đông đủ tăng ni tề tựu về chùa. Nhiều chùa bây giờ còn sáng tạo hơn xưa, tháng Bảy tổ chức văn nghệ, hát hò, nhảy múa, tân nhạc cổ nhạc. Có chùa còn mời Thầy về tổ chức giảng pháp, pháp thoại, ăn chay tụng niệm, hành hương tu tập ...v.v.

Chuyện đi chùa cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên, để thể hiện hiếu nghĩa, tỏ lòng biết ơn, báo hiếu cha mẹ, thì quá rõ ràng và đáng qúy rồi. Nhưng còn chuyện cúng thí, cúng cô hồn, ngưng buôn bán, đình công ăn việc làm, kiêng cử, sợ xui, sợ phạm ...thì mình không hiểu lắm. Nhiều lúc về quê đi chùa, đi cúng, thấy có nhiều mâu thuẩn rất lạ. Nhưng nghĩ lại đó cũng là một nét văn hoá đặc thù và đức tin của con người. Đâu dám nói là ai đúng ai sai ?

Nhiều người cúng cô hồn chết nhưng sợ cô hồn sống, cô hồn chết chưa hưởng thì cô hồn sống đã thỉnh rồi. Nhiều người suốt năm suốt tháng cầu nguyện người thân siêu thoát, nhẹ nhàng, về cõi niết bàn. Nhưng tháng 7 đến thì lo mua đồ mua đạc cúng đốt  gởi xuống âm phủ. Nhiều người hồi sống không lo nỗi cho cha mẹ người thân, nhưng khi người chết rồi, lại rộng rãi hẳn ra. Xe hơi, nhà lầu, điện thoại Vertu, karaoke, chân dài, osin, rượu ngoại, đô la .... không ngại mà đốt. Thử nghĩ lúc trên dương gian đã vất vả kiếm tìm chân dài chân ngắn, xe hơi nhà lầu, vật chất hơn thua... bây giờ xuống dưới chắc gì họ lại muốn mang nặng gánh gồng đeo đẻo trên vai. Sức đâu nữa mà chân dài chân ngắn, bia ôm, karaoke. Nhiều người một mặt lo sợ người thân ở dưới không đủ khả năng tậu đủ cơm no áo mặc, nên cúng đốt hậu hĩnh. Mặc khác lại nghĩ họ quyền năng, xin phù hộ giúp đỡ trúng số, thắng độ, ăn nên làm ra. Nhiều người cứ mỗi năm đốt xe đời mới, điện thoại xịn, TV tủ lạnh, áo quần túi xách hàng hiệu ... làm người thân ở dưới phải lo đi học thêm công nghệ, cách xử dụng. Nhiều người đốt cả sách tiếng Anh, tiếng Tây, passport, visa, cho người nhà đi xuất ngoại. Không chừng có ông còn đốt cả sách chính trị cao cấp, kinh tế chính trị Mác Lê cho người nhà ở dưới học làm quan, bồi dưỡng nghiệp vụ, chứ chẳng đùa. Còn tiền thì đủ loại từ tiền âm phủ, đến tiền đồng, tiền đô, euro ... Xuống dưới không có nhà bank, hối đoái bất ổn, lại phải mua vàng mà cất, muốn đi đâu cũng không yên lòng. Phóng sanh làm phước thì có khi con chim con cá bắt đi thả lại cả chục lần, khờ khờ khạo khạo, bay không muốn nỗi, bơi đi lờ đờ. Hàng ngàn kiểu cúng, kiểu đốt, kiểu khấn vái, kiểu hoá vàng ... nhưng đó cũng là những tấm lòng. Mỗi người có cách nghĩ riêng và đức tin riêng của mình, bất khả xâm phạm. Thực ra có khi cúng kiến hoành tráng, mâm cao cổ đầy, rình rang hàng xóm, liền chị liền em như thế, thì cũng không ai biết người chết có được "hưởng" không, nhưng chắc chắn người sống sẽ cảm thấy thoải mái & an lòng hơn. Mà lý lẽ cuối cùng của việc cúng dường, làm thiện, rồi cũng quy về ý nghĩa đó.

Mình cũng thường đi chùa vào mùa Vu Lan. Nhìn thiên hạ chen chân, khói nhang nghi ngút, lễ vật cao đầy. Ăn bữa cơm chay, nghe bài nhạc đạo, đọc thời kinh tụng, nhớ về ông bà cha mẹ, cũng thấy lòng nhẹ nhàng thanh thản hơn. Thỉnh thoảng có nghĩ đến ông Cát Nhu ngoài quê mình. Thời đó, ai cũng biết ông này. Người thấp lùn nhỏ bé, nghèo đói, chân ống cao ống thấp, rách trước rách sau, đi xin ăn về nuôi Mẹ. Trẻ con chọc ghẹo ông, người lớn cười nhạo ông, có đứa còn ném đá vào người ông rồi chạy. Nhưng dường như cái quan trọng nhất đối với ông là nuôi Mẹ, ngoài ra chả có gì ý nghĩa. Bao nhiêu năm tháng, nắng mưa bão lụt không quản, cực khổ không ngại, mặc cho thiên hạ chê bai, chửi mắng chế nhạo, có đồ ăn là để dành đem về cho Mẹ. Sau khi Mẹ ông chết đi, ít ai còn gặp ông ấy nữa. Có người nói sau khi chôn cất mẹ, ông đã bỏ đi xa. Cũng có người nói ông ngồi bên mồ của mẹ khóc riết rồi chết (lúc đó chỉ nghe đồn vậy, không ai kiểm chứng). Mình cứ thắc mắc Vu Lan ông đã cúng gì cho Mẹ ?



Tuesday, August 07, 2018

Tuệ Sỹ trên ngõ về im lặng - Tâm Nhiên

Tuệ Sỹ trên ngõ về im lặng
Tâm Nhiên




Giữa thiên đường rong chơi lêu lổng
Cõi vĩnh hằng mờ nhạt rong rêu
Ta đi xuống quậy trần hoàn nổi sóng
Đốt mặt trời vô hạn cô liêu

Thơ Tuệ Sỹ hào sảng, hùng tâm tráng khí , nổi bật lên như một hiện tượng độc đáo, gây bao nguồn cảm hứng cho những tâm hồn ưa thích thiền học, thi ca và phiêu lãng.
“Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực Tây phương.” * Bùi Giáng đã nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không đề :

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng ?
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn

Trừ thi sĩ Bùi Giáng ra, khi nói về Tuệ Sỹ thì có lẽ không ai đủ tư cách, thẩm quyền bằng triết gia Phạm Công Thiện : “Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những hoàn cảnh khác nhau thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên, một cách vô công dụng hạnh từ đời sống thường nhật và tinh thần diệu nhập của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là thiền sư với tất cả đắn đo thận trọng, với tất cả ý nghĩa cao đẹp và như thực của một danh xưng xung thiên chí.”
Như vậy, chúng ta có thể gọi Tuệ Sỹ là một thiền sư thi sĩ với ý nghĩa trọn vẹn, tốt đẹp nhất của danh từ.
Giống như Tuệ Trung Thượng Sỹ thời Trần thuở xa xưa, Tuệ Sỹ bây giờ cũng là một thiền sư thi sĩ đích thực. Điều đó chứng tỏ qua những tác phẩm thâm viễn, uyên áo, nhất là thể hiện qua phong cách sống đạm bạc, đơn sơ giản dị mà rất nghệ sĩ phiêu bồng, thong dong phóng khoáng, khai mở thông lộ tự do cho con người, biết mỉm cười vô úy, “uy vũ bất năng khuất” trên tinh thần Đại bi tâm trầm hậu giữa muôn chiều diệu dụng với đời sống thực tại cái đang là.
Năm 1973, Tuệ Sỹ vừa đúng 30 tuổi, viết Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng, một tác phẩm thâm thúy tuyệt trù, trữ tình lai láng, tràn đầy chất nhạc và thơ, mở ra con đường phong quang sáng tạo, ngạt ngào hương vị thi ca hòa chan cả trời thơ đất mộng không cùng : “Đạt đến cõi thượng thừa của Thơ như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo, cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đọa thân tâm mà không thành. Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông. Cho nên không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo đây là chân diện mục của nó…
Thơ phát ra từ những khổ lụy và những nguyện ước khơi vơi của cuộc tồn sinh, từ độ đó, Thơ đi vào những thảm họa hoành sinh của lịch sử. Từ buổi bình minh, Thơ vang vọng những lời tình tự thiết tha, từ tiếng chim thư cưu nơi cồn cát đến những đêm dài trằn trọc... Thơ dấn bước đi vào cuộc lữ…
Thơ phát ra từ cuộc lữ đọa đày rồi trở lại đọa đày cuộc lữ. Cuộc lữ là trường thể nghiệm lịch sử tồn sinh thảm họa của Thơ và Thơ mở rộng những phương trời lữ thứ. Quê hương nguyên thủy chỉ là những âm vang của lịch sử, vang dội ngân dài trong những phương trời viễn mộng. Cho nên đất của Thơ là đất trích, là những vùng đày ải, đường của Thơ là quán trọ, là những bước đường ngược gió. Mặn nồng nơi đất trích, lân la nơi quán trọ, cuộc thể nghiệm dây dưa với hằng triệu vấn vương và cũng là cuộc thể nghiệm cho khước từ tuyệt đối… Bởi cách điệu trầm trọng như thế, nên Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm.” **
Tuệ Sỹ nói về cõi thơ Tô Đông Pha mà vô hình chung cũng dường như nói về cõi thơ của chính mình. Thật vậy, cõi thơ Tuệ Sỹ bước đi bi tráng giữa dòng sử lịch kinh hoàng của thời hiện đại. Đơn sơ mà kỳ vĩ, bi ai mà hùng tráng, im lặng mà sấm sét,tĩnh toạ mà phiêu bồng, đó là cõi thơ trầm thống, khốc quỷ kinh thần của Tuệ Sỹ, một thi sĩ thượng thừa, một tài hoa đủ điệu, một tâm hồn cô liêu cùng tuyệt với hồn thơ thâm viễn, uyên mặc u ẩn, ngân dài trên giai điệu trầm tư lãng đãng :

Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về

Để cho trời thơ phiêu phưỡng, bước đi lồng lộng, độc hành ca giữa đỉnh cao và hố thẳm, làm kẻ rong chơi từ thuở hồng hoang hỗn độn, phiêu hốt tang bồng, rong rêu, lêu lổng trong cuộc mộng trần sa :

Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
Treo gót hài trên mái tóc vào thu
Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá
Rủ mi dài trên bến cỏ sương khô
Vì lêu lổng mười năm trời nói mộng
Ôm tình già quên bẵng tuổi hoàng hôn
Một sớm nọ nghe chim buồn đổi giọng
Người thấy ta xô dạt bóng thiên thần
Đất đỏ thắm nên lòng người hớn hở
Đá chưa mòn sao lòng dạ trơ vơ
Thành phố nọ bởi sương mù nắng quái
Nên mười năm quên bẵng mộng giang hồ

Cuộc rong chơi phiêu bạt, lãng tử giang hồ vô tận đến nỗi quên bẵng hết những chuyện mộng mị chiêm bao, hồn thi nhân chuếnh choáng, xuất thần lâng lâng rồi chợt bỗng hóa thân thành cánh chim én mùa xuân bay qua dòng sông chiều tàn hoang vắng hay làm cánh bướm chao nghiêng, tung lượn xôn xao giữa mưa nắng phong trần :

Một con én một đoạn đường lay lất
Một đêm dài nghe thác đổ trên cao
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao
Bóng ma gọi tên người mỗi sáng
Từng ngày qua từng tiếng vu vơ
Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về trên cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa ?
Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng
Người vẫn đi như nước chảy xa nguồn
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng
Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm

Ngàn năm rồi mà sao vẫn còn mãi lạc loài hỡi mây trắng hoằng viễn miên du ? Nhà thơ chợt lặng thầm trầm tư thắc mắc, chẳng biết chiếc lá vàng úa rụng xa mùa kia sẽ về đâu giữa phong ba, bão loạn ? Nhưng rồi bỗng thấy “năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” nên cứ để mặc nhiên cho dòng thơ trôi chảy qua nghìn bến bờ xa lạ nhòa nhạt hoang vu tận cuối bãi mịt mù. Thi nhân chạnh lòng trắc ẩn trong ngậm ngùi, khắc khoải, xót xa cho bao kiếp người phải hốt hoảng, kinh hoàng vượt trùng dương để tìm kế sinh tồn. Cưu mang nung nấu một nỗi niềm tâm sự mênh mông, không biết bày tỏ cùng ai nên chẳng biết nói gì hơn là để cho tiếng lòng ngân lên cung bậc sầu thương vô hạn trước những lượn sóng cuồng phong chìm nổi giữa sinh tử ba đào :

Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi ! Mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình nước lạnh sao ?
Một bước đường xa xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi
Cho hết đêm hè trông bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phìm dương cầm hay máu xanh

Hình ảnh máu màu xanh bầm tím rơi xuống như mưa mù thảm đạm thật khiếp đảm làm sao, gợi ra bao cảnh xiêu hồn lạc vía ở địa ngục âm u mù tăm tối. Ơi chao ! Địa ngục đó chẳng phải ở dưới lòng đất sâu kín kia mà lại ở ngay trên mặt đất trần gian này mới đâu đớn, rợn người khủng khiếp chứ ! Từ khi chứng kiến biết bao oan khiên, nghiệt ngã, biết bao khổ lụy đọa đày diễn ra một cách khốc liệt, tàn bạo, vô nhân đạo, vô lương tâm trên khắp mọi miền thế giới đó, nhà thơ nhạy cảm của chúng ta đã thấm thía một nỗi buồn vạn cổ sầu trong vô lượng xót thương :

Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc bước
Cố quên mình là thân phận thần tiên

Cốt cách, phong vận của thi nhân vốn là ở cõi tự do tiêu sái, tiêu dao, bay bổng chất ngất một trời thần tiên huy hoàng tráng lệ. Thế mà cũng đành phải cố quên đi tất cả, vì ma quỷ A tu la tham sân si đã hiện hình như người, dùng bạo lực thâm độc, dốc hết tốc độ tham tàn, sân hận, si mê giáng xuống những tai ương thảm họa, trong cơn điên đảo loạn cuồng. Buồn quá phải không, buồn chết lặng quặn lòng đau tê tái giữa chập chùng bóng tối u mê :

Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế
Một kiếp người ray rứt bụi tro bay
Tôi ngồi mãi giữa tha ma mộ địa
Lạnh trăng tà lụa trắng trải rừng cây
Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỷ
Quỷ run run hôn mãi lóng xương gầy
Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã
Để hồn tan theo đốm lửa ma trơi
Khi tâm tư chưa là gỗ mục
Lòng đất đen còn giọt máu xanh ngời

Một khi đối diện với quỷ ma giữa ban ngày thì hầu hết chúng ta đều hãi hùng khiếp sợ, nhưng ở đây, kỳ lạ thay, nhà thơ vẫn hào hùng vô uý, khi biết mình đang giáp mặt với thập tử nhất sinh. Một mình lẫm liệt hiên ngang bất khuất, dấn bước lên đường dưới gầm trời bão loạn cuồng si. Đi về đâu hỡi Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, hỡi Tăng Triệu, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, hỡi Tô Đông Pha, Lý Hạ, Vương Duy, hỡi Duy Ma Cật, Thiện Tài, Thắng Man, hỡi Suzuki, Nietzsche, Heidegger…giữa điêu tàn tan hoang trên mặt đất ? Rồi lặng hồn lắng nghe đồng vọng vang lên những lời kinh Hoa Nghiêm hùng tráng :

Trang phục bằng khôi giáp Nhẫn kiên cố
Thanh gươm Trí trong cánh tay Đại bi
Nguyện đấng Đại Hùng dũng mãnh hướng dẫn con
Trực diện chiến đấu với ma quân

Với cánh tay Đại bi cầm thanh gươm Đại trí, thi nhân còn mặc thêm áo giáp Vô sanh pháp nhẫn nữa thì cũng thừa sức dấn mình vào địa ngục trần gian, trực diện đương đầu với đảo điên, chuyển hóa ma vương, quỷ sứ đang quờ quạng, loạn cuồng trong bóng tối vô minh. Cuộc thế trận sinh tử kinh hồn, một lần tận tường giáp mặt là một lần thấu triệt lẽ vô thường huyễn ảo quá đỗi mong manh trong cõi người ta và cũng chính từ đó, thi nhân mới phát Bồ đề tâm, phát đại nguyện thượng thừa, gánh vác lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của nhân gian như chính lời Tuệ Sỹ nhắc nhở rạt rào : “Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng, không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ đề tâm, đó là ý chí kiên cường, bất khuất của một con người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc bởi tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta. “Vui sướng gì, thích thú gì giữa ngọn lửa tam độc không ngừng thiêu đốt ? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm bó đuốc ?” Không có tâm nguyện đó, không có ý chí đó, Bồ tát đạo chỉ là một con đường xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường và Phật thừa không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày.” *** Thi nhân thấy như vậy bằng đôi mắt sâu thẳm rực lửa tam muội của chính mình nên vẫn thường vô vi tùy duyên nhẹ bước vào ra giữa ta bà đây đó :

Đây khúc nhạc đưa hồn lên máu đỏ
Bước luân hồi chen chúc cọng lau xanh
Xô đẩy mãi sóng vàng không bến đỗ
Trời lênh đênh ma quỷ rắc tro tàn
Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói
Ép thời gian thành rượu máu trong xanh
Rượu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi
Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị
Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy
Đổi hình hài con mắt vẫn đầy sao

Từ vô thủy đến vô chung, cuộc luân hồi khởi sự từ đâu chẳng biết, chỉ hay rằng từ lúc nghe đồng vọng những trận gió phù trần tận chốn miền thiên thu vi vu thổi tới giữa vạn đại miên trường :

Đá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
Nghìn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương
Đan sa rã mộng phi thường
Đào tiên trụi lá bên đường tử sinh

Sinh tử là một việc trọng đại như thi nhân đã có lần nói tới trong lời tựa Vô môn quan của thiền sư Vô Môn, do Trần Tuấn Mẫn dịch : “Nơi đây, sa mạc vẫn cứ thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của hư vô. Lẽ sống và lẽ chết cứ mãi bập bềnh trên hư ảo. Tâm hồn miệt mài nóng cháy, nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hãi hùng của hư vô và huỷ diệt.” Hư vô đã trở thành một thứ chủ nghĩa đang huỷ diệt mặt đất một cách trầm trọng đau thương, gây bao tang tóc não phiền, khiến thi sĩ nghe ra nghèn nghẹn tận đáy hồn :

Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào
Khuya còn lạnh sương mù và gió lốc
Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao
Bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc
Một lần đi là vĩnh viễn con tàu
Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng
Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu
Giọt máu nào phiêu lưu, lạc nẻo xa nguồn trôi tan tác, lao đao trong nỗi hao mòn tàn tạ, trong cơn gió lốc kinh hồn rờn lạnh buốt xương da ? Đi là đi mất, đi biền biệt, biến tan như sợi khói mỏng manh giữa bầu trời gió lộng, không bao giờ trở lại nữa, nhưng vừa đi vừa ngoái nhìn để lắng nghe những tiếng gào kêu thống thiết của nhân gian, của thập loại chúng sinh đang quằn quại rên siết trong bao đổ nát đoạn trường, dâu bể tan hoang đầy thảm hoạ tồn sinh bức bách rợn ngần :

Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận
Lời ai ru trào máu lệ bi thương ?
Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương
Ai tóc trắng sững sờ trên tuyết lãnh
Bước chập chờn heo hút giữa chiều sương
Viên đá nhỏ mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu vết hoang đường ?

Hoang đường nào còn in trên dấu vết lênh đênh ? Tên tuổi nào cô liêu đến bạc trắng cả mái đầu ? Sầu thế kỷ điêu linh nào cứ ngân dài mãi trong não nề thê thiết :

Tang thương một dải tóc huyền
Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu
Gởi thân gió cuốn xa mù
Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng
Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng
Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều
Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu
Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu

Cô liêu, cô đơn, cô độc, cô lữ là bước đi kỳ cùng của người thi sĩ dị thường. Bước đi chênh vênh, khập khễnh bên này cát bụi phù du, bên này bờ Thị Ngạn Am xao xác cọng lau gầy sậy yếu lặng phất phơ. Thở cùng hương trái đắng và hương nắng buồn trong mắt biếc nhiều diệu vợi uyên tư :

Gà xao xác gọi hồn ta từ quá khứ
Về nơi đây cùng khốn với điêu linh
Hương trái đắng mùa thu buồn bụi đỏ
Ôi ngọt ngào đâu mái tóc em xinh
Từng tiếng lẻ loi buồn thống thiết
Nghe rộn ràng từ vết lở con tim
Từ nơi đó ta ghi lời vĩnh biệt
Nắng buồn ơi là đôi mắt ân tình
Còi xa vắng giữa trưa nào lạc lõng
Môi em hồng ta ước một vì sao
Trưa dài lắm nhưng lòng tay bé bỏng
Để vươn dài trên vầng trán em cao

Em ở đây chính là hình ảnh cuộc đời. Cuộc đời nếu nhìn từ chân đế, vốn là tuyệt trần Chơn mỹ, vốn là Vô sinh bất diệt, vốn là Niết bàn, Tịnh độ như thị như nhiên. Biết được điều đó, cho nên lòng thi nhân tự bao giờ vẫn vô cùng khoan dung rộng lượng, thương yêu nhân loại trong vô ngôn lặng lẽ, trong tận cùng dung nhiếp âm thầm, chia sẻ với muôn loài vạn vật trần ai :
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói
Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Như trùng dương ngưng tụ ánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt ngàn sao

Vô biên vô lượng thương yêu con người tha thiết mà không bao giờ nói mình yêu thương gì hết cả, đó mới chính là thương yêu đích thực nhất. Phải chăng chỉ có những tấm lòng Bồ tát mới có thứ tình yêu vô điều kiện, vô phân biệt như vậy ? Một tình yêu rộng rãi Đại bi tâm nhập diệu, kết tinh thành bản tình ca mà thi sĩ thường lắng nghe từ hun hút biển ngàn, sông núi giữa trời đất mênh mang :

Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn
Triều Đông hải vẫn thì thầm cát trắng
Chuyện tình người và nhịp thở Trường Sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Đông phương

Bản tình ca vô tận ấy, thi nhân vẫn nghe hoài rung ngân bất tuyệt trên những dặm dài long đong lữ thứ ở dọc đường quán trọ bơ vơ, bên làng mạc, thôn ấp đìu hiu, cạnh ven rừng sơn dã hay quanh triền sông thị trấn tiêu điều hoặc trên ghềnh suối truông ngàn hoang vắng tịch liêu giữa những chiều sương khói chơi vơi bềnh bồng trống trải :

Em trải áo trên hoa rừng man dại
Để hoa rừng nước cuộn biết yêu nhau
Nhưng nước cuộn xóa đời ta trên bãi
Để hoa rừng phong nhụy với ngàn lau
Em xỏa tóc cho cây khô sầu mộng
Để cây khô mạch suối khóc thương nhau
Ta cúi xuống trên nụ cười chín mọng
Cũng mơ màng như phố thị nhớ rừng sâu
Ta chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại
Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy
Ôi hạnh phúc chợt thấy mình nhỏ bé
Chép tình yêu trên trang giấy thơ ngây
Ta cúi xuống trên chân người bụi đỏ
Để nhìn sâu trong vết tích hoang đường
Ta sống lại trên môi cười rạng rỡ
Để nhìn sâu trong ngọn nên tàn canh

Bằng ánh mắt từ tâm thâm cảm, nhà thơ bi tráng của chúng ta nhìn sâu vào lòng đời với nụ cười bao dung rạng rỡ. Thở cùng điệu hát bản tình ca nhã nhạc vang lừng trên núi rừng cô tịch hay giữa ngày hội lễ rộn ràng dưới phố thị xôn xao, nhà thơ đều im ắng lắng nghe trong từng khoảnh khắc lặng trầm, cảm nhận sâu xa vì biết chỉ là chiêm bao huyễn mộng trong khói bụi chập chờn :

Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bát ngát
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao
Em là nàng thơ, là hình ảnh cuộc sống. Cuộc sống nếu nhìn từ tục đế thì đầy những thăng trầm, điêu linh khổ lụy từ nghìn xưa đến ngày nay. Khổ đế là sự thật thứ nhất mà Đức Phật đã chỉ bày cách đây gần ba nghìn năm rồi. Giống như đại văn hào Hermann Hesse phát biểu : “Dù có bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng vậy, cũng hết lòng thương yêu con người, dù kiếp người có tàn xiêu hiu hắt :
Ai biết mình tóc trắng
Vì yêu ngọn lửa tàn
Rừng khuya bên bếp lửa
Ngồi đợi gió sang canh
Một hình một bóng cô đơn ngồi trên tuyệt đỉnh núi lạnh xanh rờn, sẵn sàng chờ đợi một điều gì có thể xảy đến, đôi mắt thi nhân cúi nhìn xuống cuộc đời đang chìm trong bóng tối mù sa mà cảm thương một nỗi u buồn xót xa sầu khôn tả :

Ta không buồn còn ai buồn hơn nữa
Người không đi sông núi có buồn đi
Tia nắng mỏng soi mòn khung cửa
Để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi
Ta lên bờ nắng vỗ bờ róc rách
Gió ở đâu mà sông núi thì thầm
Kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát
Ráng chiều xa ai thấy mộ sương dầm ?
Ráng chiều xa bảng lảng bóng hoàng hôn nhân loại đang phủ trùm vàng vọt xuống khắp vùng sông núi Đông phương. Cho dẫu đường đời giăng bẫy đầy hầm hố cách ngăn, khó khăn trắc trở gì gì đi nữa, thi nhân vẫn nhận diện, tỉnh thức trước những sự kiện đang diễn biến, vì đã bừng ngộ thấy : “Ngay trong phiền não tức là Bồ đề, ngay trong những nguy hiểm đáng sợ hãi của sinh tử cũng chính là Niết bàn an ổn. Sợi dây bị tưởng lầm là con rắn, nhưng không phải hủy diệt sợi dây để diệt trừ ảo giác gây nên sợ hãi. Ngoài những gì vô thường được thấy, được kinh nghiệm bằng chính mắt, tai, mũi, lưỡi này, không tồn tại một thế giới chân thường, đại lạc hay đại ngã nào khác. Đó chính là thực tại Nhất nguyên tuyệt đối.” ****

Phải chăng, đó là cái thấy bằng Trí tuệ siêu việt ? Một khi nhà thơ có cái nhìn tuệ giác đó rồi thì những sầu khúc thê lương kéo dài trong đợi chờ não nuột suốt mười lăm năm trường đọa đày viễn mộng như lời thơ tiên tri trước cuồng phong bão tố mịt mùng cũng chẳng hề dao động mà vẫn như như tự tại vô ngại :
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối nỗi gì tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa bàn tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai như ánh chớp mây chiều

Chút thân bé bỏng dù bị tù ngục lưu đày vì sự ngộ nhận của thế lực vô minh, nhưng ngay trong dầu sôi lửa bỏng, trong đêm dài sinh tử đó, thi nhân đã nhập thần, đại thiền định, thấu thị tất cả vạn pháp “như sương mai như ánh chớp mây chiều” làm vỡ bùng rơi rụng bóng tối để rực ngời lên ánh phong quang, hiển lộ vô ngần thần lực vô vi. Một câu thơ khiến bay dậy âm vang sấm sét, mặc như lôi từ trong kinh Kim Cang làm phấn chấn bất khả tư nghì :

Tất cả pháp hữu vi
Như huyễn mộng bọt nước
Như ánh chớp sương mai
Thường quán tưởng như thị

Trùng trùng vạn pháp muôn loài vạn vật núi sông, rừng biển, thiên nhiên vũ trụ và con người đều như mộng như huyễn , như bọt nước như sương mai…Phải thường xuyên thấy rõ ràng như thế. Tuệ Sỹ cũng nhiều lần nói : “Tất cả giáo pháp của Phật đều hướng đến diệt trừ tự ngã. Tôi đang tồn tại, đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một ảo ảnh. Đau khổ là một sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta ảo ảnh được bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định hình bằng vọng tưởng thành thân thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến núi sông này là của ta, tài sản này là của ta, ta là tài sản này, sông núi này là của ta, ta là sông núi này. Cho nên, khi tán gia bại sản, khi sông núi sụp đổ, cái ta vọng tưởng cũng sụp đổ thì có kẻ trầm mình xuống sông hoặc treo cổ trên cành. Vì thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực, người nghe có thể kinh hoàng như nghe sét đánh ngang tai. Tiếng sét đó là từ Kim Cang Bát Nhã. Duy có điều, mọi người đều mù, chỉ thấy bóng tối, mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng vo ve. Làm sao có thể thấy cái ta chỉ là ảo ảnh ? Làm sao nghe được tiếng sấm từ kinh Kim Cang ? Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, kinh Kim Cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi và chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.”

Khi thi nhân lãnh hội, quán chiếu sâu xa, thấy tất cả vạn pháp như ảo ảnh, mộng huyễn như vậy thì hoát nhiên hiển lộ, bừng sáng lên một phương trời Tánh Không lồng lộng nên hết thảy mọi khổ nạn điêu linh trầm thống đều chuyển hóa thành lửa tịch mịch, tự nhiên đốt cháy hết những kinh hoàng khủng khiếp của địa ngục trần gian và sầu khúc thê lương trở thành “Bản tình ca vô tận của Đông phương” hay biến thành Những điệp khúc cho dương cầm thâm thúy dưới ngàn trăng sao xao xuyến lặng bồi hồi :

Nỗi nhớ đó khát khao luồn sợi tóc
Vòng tay ôm cuộn khói bâng khuâng
Uống chưa cạn chén trà sương móc
Trên đài cao em ngự mấy tầng
Lên cao mãi đường mây khép chặt
Để xoi mòn ảo tượng thiên chân
Ồ, nguyệt quế !Trắng mờ đôi mắt
Ồ, sao Em ? Sao ấn mãi cung đàn ?
Giai điệu cổ thoáng buồn u uất
Xưa yêu Em xao động trăng ngàn

Từ xưa đến nay vẫn điệp khúc cung đàn trường ca Đại bi tâm trầm lặng ngân rung trên cung bậc Bất nhị giữa cõi người ta vô thủy vô chung. Chúng ta hãy lắng nghe, thưởng thức những giai điệu tài hoa của nhạc sĩ tế nhị cảm giao hòa :
Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt
Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng
Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc
Cánh chim bạt ngàn từ quãng Vô biên
Từ đó ta trở về Thiên giới
Một màu xanh mù tỏa Vô biên
Bóng sao đêm dài vời vợi
Thật hay hư chiều nhỏ ưu phiền
Chiều như thế cung trầm khắc khoải
Rát đầu tay nốt nhạc triền miên
Ôm dấu lặng nhịp đàn đứt vội
Anh ở đâu khói lụa ngoài hiên ?
Ngoài hiên chiều phất phới bay qua những vệt nắng nhạt nhòa phôi pha trong bóng tà huy thấp thoáng lan dần nhẹ tỏa xuống mềm mại những sợi khói mênh mang :
Nắng lụa đỏ phủ tường rêu xám bạc
Lá cây xanh nghiêng xuống mắt mơ màng
Người có biết mặt trời kia sẽ tắt ?
Ta yêu người từ vết rạn thời gian
Thời gian và không gian trộn lẫn hòa quyện tan vào trong cùng một tấu khúc rung cảm, bồng tênh lênh láng, dạt dào du dương, vi vu vi vút nguồn cảm xúc khôn dò của người em thi ca quá tuyệt diệu trong tự tình khúc rung động chan hòa :
Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca
Tay em rung trên những phím lụa ngà
Thôi huyễn tượng xô người theo cát bụi
Vùng đất đỏ bàn chân ai bối rối
Đạp cung đàn sương ứa đọng vành môi
Đường xanh xanh phơn phớt nụ ai cười
Như tơ liễu ngại ngùng lay nắng nhạt
Lời tiễn biệt nói gì sau tiếng hát
Hỏi phương nào cho nguyện ước Trường Sơn
Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn
Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt
Mờ phố thị những chiều hôn suối tóc
Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa
Tiếng đàn miên man réo rắt lặng hồn dưới bàn tay phấn chấn thân yêu, dìu dặt vọng vang bàng hoàng qua những điệp khúc cho dương cầm thâm tình thấm thiết mãi ngân nga từ cõi mộng không lời, hỡi vầng trăng gầy tịch nhiên soi chiếu trong vườn sương khuya mờ ảo lung linh ngời lấp lánh long lanh :
Nhà đạo nguyên không khách
Quanh năm bạn ánh đèn
Thẹn tình trăng liếc trộm
Bẽn lẽn núp sau rèm
Yêu nhau từ vạn kiếp
Nhìn nhau một thoáng qua
Nhà đạo nguyên không nói
Trăng buồn trăng đi xa
Chao ơi ! Yêu thương nhau đã từ muôn triệu kiếp rồi, hỡi vầng trăng thanh thoát vàng hoa mộng như nàng thơ gầy yểu điệu, lặng lẽ chia phôi. Thôi buồn làm chi nữa phải không ? Thôi cứ thản nhiên để cho hồn thơ dệt phím nhạc ngàn đời những tơ đàn diệu âm trầm bổng ngát xanh huyền :
Tóc em bay trong sương chiều khói biếc
Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng
Tình hay mộng khi Trường Sơn xa hút
Đến bây giờ mây trắng gởi tin sang
Hồn tôi đi trong rừng lang thang
Cọng lời ru từ ánh trăng tàn
Mắt em nhỏ ngại ngùng song cửa
Nghe tình ca trên giọt sương tan
Gót chân em nắng vàng xưa viễn phố
Những ngón hồng ngơ ngác giữa đường chim
Ôi ta nhớ như đêm dài thượng cổ
Sợi tóc mềm lơi nhịp hát trong tim
Trong tim hồn rộn ràng bao nhịp hát hoang sơ từ thượng cổ vọng về, nghe như điệu hát Trang Tử Tiêu dao du, bên bờ sông xa mù Dương Tử, hay như lời thơ ngâm nga của Milarepa trên tuyệt đỉnh ngàn cao Hy Mã Lạp Sơn chập chờn sương khói tỏa thiên thu hoặc như khúc hát nghêu ngao Phóng cuồng ca của Tuệ Trung Thượng Sỹ, trong cơn xuất thần nhập diệu, đại hòa điệu chơi cùng nhật nguyệt, thiên địa tuần hoàn.
Thế là, bát ngát bồng tênh trên ngõ về im lặng, tiếng thơ trầm hùng Tuệ Sỹ như ánh trăng huyền nguyên thủy, chiếu diệu xuyên qua ngút ngàn bóng tối vô minh làm bừng hiện rực ngời lên trên cung bậc ngôn ngữ thi ca đầy sáng tạo và sáng tạo tân kỳ như Tuệ Sỹ từ thuở thanh xuân đã nghe tận thần hồn : “Ngôn ngữ không còn là một hình ảnh héo hắt của Thực tại sai biệt và sai biệt. Nó không đi chơi vơi trên Thực tại mà đóng vai trò truyền thông như tiếng gọi từ trên một đỉnh trời Tuyệt đối vô tri, từ trên một đỉnh núi ngàn đời bất khả xâm phạm, luôn luôn thách đố bước tiến của con người. Nó đánh mất đi cái cụ thể nghèo nàn trong tầm mắt thường nghiệm của phàm phu để dẫn đến một chân trời rực rỡ của sáng tạo.” *****
Con đường mây trắng thênh thang sáng tạo đã vượt qua những mộng tàn năm tháng cũ, dù vẫn cỏn chút dư hương của một thời đọa đày viễn mộng u sầu :
Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ
Chiều chơ vơ chiều dạt mấy hồn tôi
Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi
Vén thanh sắc đổ mù khơi về đối diện
Cuộc ân tình lơi lả vội chia phôi
Trăng nằm xuống duỗi dài hai bến hẹn
Một dòng sông vồn vã động chân trời
Ơi chao ! Đã chia phôi, từ biệt cuộc ân tình nhân thế từ dạo đó, kể từ ngày như Nguyễn Du xa xưa từng chứng kiến giữa trần ai : “Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng đi về theo thể điệu phiêu nhiên, quy hồi Vĩnh cửu với nụ cười sâu lắng tự tri :
Khói ơi ! Bay thấp xuống đi
Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
Ta đi trong cõi Vĩnh hằng
Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa
Vĩnh hằng chẳng ở đâu xa mà ngay trong từng sát na hiện tại, ở đây và bây giờ, ngay trong tiếng ve sầu hay từng nhịp thở nhẹ nhàng giữa lòng phố bụi lao xao :
Ve mùa hạ chợt về thành phố
Khóm cây già che nắng hoang lương
Đám bụi trắng cuốn lên đầu ngõ
Trên phím đàn lặng lẽ tan hương
Tiếng ve dội lăn tăn nốt nhỏ
Khóc mùa hè mà khô cả đại dương
Ngôn ngữ thi ca thường chứa nhiều ẩn dụ, tượng trưng hàm súc như vậy, chúng ta tha hồ suy diễn, lãnh hội, cảm nhận theo đủ cách điệu riêng tư của mình thôi. Đọc thơ Tuệ Sỹ là lang thang bước dạo chơi vào một thế giới diêu mang kỳ ảo vô vàn :
Một ngày chơi vơi đỉnh thác
Nghe bồn chồn tiếng gọi hư không
Giai điệu nhỏ dồn lên đôi mắt
Mặt hồ im ánh nước chập chờn
Mặt hồ im tảng màu man mác
Ảnh tượng mờ một chút sương trong
Quãng im lặng thời gian nặng hạt
Tôi nghe đời trong tấu khúc Thiên hoang
Tấu khúc Thiên hoang vang rền, đồng vọng trong tận đáy lòng Không tánh vô biên, khiến cho thi nhân tự mình thưởng thức hương vị cô liêu của cuộc sống. diệu thường :
Tự tâm tự cảnh tự thành chương
Tự đối bi hoan diệc tự thưởng
( Cô độc cảnh tâm thơ tự xuất
Tự ngắm buồn vui tự thưởng thức )
Thế thì, tuyệt cùng ẩn ngữ thi ca Tuệ Sỹ là gì ? Làm sao chỉ ra được, khi ngôn ngữ cứ lấp lánh ẩn hiện trong ánh sáng phát ra từ tâm cảm thâm trầm ? Có ai nắm giữ được những tiếng dương cầm âm thanh thánh thót, phiêu diêu, dịu dàng vang ngân bất tận từ giữa lòng bàn tay của người nghệ sĩ tài hoa ?
Đã rời khỏi Thị Ngạn Am ở Sài Gòn gần 2 năm nay rồi, bây giờ Tuệ Sỹ sống lang thang đúng nghĩa lang thang, hoàn toàn rỗng rang vô sự. Vô sự là thong dong tự do tự tại giữa đang là, không còn chạy theo nắm bắt bất cứ một cái gì nữa cả, dù đó là Phật, là Tổ như thiền sư Lâm Tế nói : “Con người vô sự là người đã dừng lại, không còn dính mắc vào một lý thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết. Con người vô sự có tự do, có khả năng sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ một cái gì có thể kéo đi, kể cả lý tưởng độ sinh cứu đời. Bởi vì lý tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể bắt mình chạy đi tìm cầu, bỏ mất giây phút hiện tại, bỏ mất cái tâm sáng chói và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn là nguồn gốc của tất cả chư Phật.” Lẫn vào cát bụi phù du “hòa kỳ quang đồng kỳ trần” Tuệ Sỹ giống như thiền sư thi sĩ Nhật Bản Basho xuống núi, phiêu bồng thõng tay vào chợ làm thơ và làm thơ giữa ngày tháng lưu linh cùng sương khói bồng bềnh.

Trên ngõ về im lặng, lúc thì tiêu dao với mây trắng trên núi rừng Madagoui huyền ảo, lúc thì lên đồi Phương Bối ở vùng Đại Lão, Bảo Lộc uống trà với nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, bồng tênh xuôi về phố hoa Đà Lạt, ghé bên cầu sông nước Đại Ninh cùng những ẩn sĩ tâm tình, rồi thênh thang xuống miền biển khơi Vạn Giã, Nha Trang muôn trùng bát ngát…Hát khúc vô thanh siêu thoát làm hồi phục những tiêu điều, hiu hắt dọc khắp ven đường thi sĩ đi qua.

Hòa trong nhịp bước vân du, người viết chợt bỗng nghe văng vẳng lời nói của Phạm Công Thiện, một người bạn thâm tình chí cốt của Tuệ Sỹ : “ Một con người vừa là thi sĩ vừa là thiền sư, vừa là nhà hành động nhập thế với tinh thần vô công dụng hạnh của bậc Bồ tát. Hành động tích cực, mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng, vì không tham vọng, ích kỷ mù quáng, cho nên nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham sân si của thế tục, cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí tuệ Bát nhã cùng với lòng Đại bi thơ mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng, dẫn đường soi sáng Thể mệnh của Sử tính quê hương…

Anh không thể cảm thơ người ta thì anh hãy im lặng, còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những kẻ phê bình thơ mà chỉ nên có những người ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không có ai làm thầy ai cả.”
Bắt chước Phạm Công Thiện, người viết cũng muốn ca ngợi tán thán Tuệ Sỹ, một thiền sư thi sĩ vĩ đại, một trái tim Kim Cang bất hoại vô úy nhưng ngợi ca làm chi nữa, khi mà tiếng thơ của thi nhân đã làm chấn động rung chuyển cả thế giới hoàn cầu và lan tỏa lạ thường ra khắp vũ trụ mười phương rồi. Thôi thì chỉ xin kính tặng một bài thơ bình dị :

Những phương trời viễn mộng đi
Thi ca tư tưởng bước kỳ ảo qua
Đọa đày một thuở ta bà
Nỗi đau rực cháy thấy ra tột cùng
Ôi ! Giấc mơ Trường Sơn rung
Rúng hồn tim máu chợt bùng vỡ mơ
Kinh thiên động địa sững sờ
Đâu chân diện mục của thơ với thiền ?
Mặc như lôi ngồi tịch nhiên
Nghe ban sơ vọng ngân huyền diệu âm
Những điệp khúc cho dương cầm
Từ vô tận ý vang thâm thiết niềm

_____________________________

* Bùi Giáng. Đi vào cõi thơ. Nhà xuất bản Ca Dao, Sài Gòn 1969
** Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng. Tái bản lần thứ ba. Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn 2008
*** Tuệ Sỹ. Thắng Man giảng luận. Nhà xuất bản Phương Đông, 2012
**** Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy Ma Cật. Nhà xuất bản Phương Đông, 2007
***** Tuệ Sỹ. Triết học về Tánh Không. Nhà xuất bản An Tiêm. Sài Gòn 1970

Thơ Tuệ Sỹ, trích trong 2 thi phẩm :
Giấc mơ Trường Sơn. Nhà xuất bản An Tiêm, Paris 2002
Những điệp khúc cho dương cầm. Nhà xuất bản Phương Đông 2009
__._,_.___

..