Monday, October 04, 2021

Ý nghĩ và đích đến ! (Thoughts & Destiny )

 


Mấy tháng nay quê nhà dịch bệnh nặng nề. Chết chóc đói khổ nhiều nơi, nhất là ở SG. Phong toả, đóng chốt, rượt đuổi, bao vây ... SG không còn nữa những "con đường có lá me bay, chiều chiều ta lại cầm tay nhau về", mà thay vào đó là hình ảnh những cung đường lặng lẽ, lạnh lùng, người lạy nhau trên phố. Những đoàn người lũ lượt trốn đi trong đêm như hành trình thập tự chinh của người Do Thái. Mùng, mền, chiếu, gối và những ước mơ đổi đời được gói gọn sau những chiếc ba ga gầy guộc. Những em bé vẫn còn bồng bế trên tay chưa biết gì, và những đôi mắt tròn xoe ngơ ngác quấn khăn quàng đỏ, lở dở tương lai. Những người nghèo khó đùm bọc nhau, chia xẻ từng gói mì chai nước, giúp nhau từng đồng bạc đổ xăng về quê. Những giọt nước mắt đã nhỏ xuống ngậm ngùi và cái ngoái đầu nhìn lại. Những thân thể cuộn tròn bên lề đường chợp mắt ru con. Những bàn tay nhỏ bé bất lực chào nhau lần cuối, rồi quay nhanh dấu nỗi nghẹn ngào... Còn bao nhiêu cảnh tượng đáng thương nữa, nhìn những hình ảnh đó ai lại chẳng đau lòng ? 

Ở nước ngoài, những người con xa quê cũng đau lòng không kém. Nhiều người đau đáu hướng về quê nhà. Mấy ông bạn, ông anh bên Đức, bên Mỹ, bên Tây, thỉnh thoảng lại email, ai cũng mong dịch bệnh chóng qua, để về thăm lại quê nhà, ai còn ai mất. Nhiều người gởi cho nhau những bài thơ khúc nhac. Cũ có, mới có, chia xẻ nỗi buồn. Có những câu, những chữ, dường như đã qua đi lâu lắm rồi, giờ nghe lại, thấy buồn man mác !

Mẹ tôi em có gặp đâu không ?
Bao xác già nua ngập cánh đồng
Tôi cũng có thằng em bé nhỏ
Bao năm rồi xác trẻ trôi sông !
(Quang Dũng)

Tuần trước, ngồi xem lại mấy cuốn phim tài liệu của thời kỳ dịch cúm năm 1918 (Spanish Flu) và các giai đoạn phục hồi sau năm 1920. Rồi nghĩ đến cơn dịch của ngày hôm nay, có những điểm tương đồng mặc dù đã hơn 100 năm trôi qua. Bỗng nhớ đến Erich Maria Remarque. Nhớ "Bia mộ đen và bầy diều hâu gãy cánh" (The Black Obelisk), nhớ "Bản du ca cuối cùng của loài người không còn đất sống" (Flotsam)..... Rồi cả một thời sinh viên hoang dại trở về !

(Ngoài lề chút, cho đến nay mình vẫn cảm thấy may mắn được sinh ra trong buổi giao thời của đất nước. Để được thấy sự khác biệt giữa chế độ cũ và chế độ mới, để sống với những đổi thay của con người và xã hội, để được tận mắt chứng kiến những biến động cũng như bao sự kiện lịch sử quan trọng của thế giới và quê nhà. Trong đó, có cả cơn đại dịch Vũ Hán lần này. Tất nhiên một số người quan niệm khác, cho rằng đây là một thế hệ bất hạnh và đầy hệ luỵ khổ đau. Cũng có một số người cho rằng đây là một thời kỳ rực rỡ, hãnh tiến chưa từng có. Mình tôn trọng những quan niệm đó, riêng mình vẫn nghĩ rằng khi nhìn nhận vấn đề với một thái độ tích cực và công bằng sẽ giúp cho cái nhìn trung thực hơn).

Nhớ lại thời mình còn đi học, cả một đất nước khó khăn nghèo đói. Bên cạnh đó là những biến cố xã hội xảy ra liên tục và bất ngờ, nhiều người hoảng loạn, bối rối, và sợ hãi. Thời kỳ "quá độ", cơ chế bao cấp, chuyên chính vô sản, hợp tác xã, kinh tế mới, đi cải tạo, đánh tư sản, đánh địa chủ, đổi tiền, điều tra lý lịch, chiến tranh Tây Nam, chiến trường Tây Bắc .v.v... Cái gì cũng mới, cũng lạ, cũng lần đầu. Còn hạnh phúc hay đau khổ, hân hoan hay cay đắng, là tuỳ vào vị trí và hoàn cảnh của mỗi người. Nhưng đại đa số người miền Nam nói chung và người Sài gòn nói riêng, đã sống cam chịu và nhẫn nhịn, cố hy vọng và chờ đợi sự thay đổi ở ngày mai để làm động lực vượt qua những tháng ngày khốn khổ. Cũng có nhiều người chịu đựng không nỗi, đã liều chết ra đi, và hàng trăm ngàn người đã ngã xuống giữa rừng sâu hoặc vĩnh viễn nằm lại dưới lòng đại dương.

Rồi mấy chục năm trôi qua, cuộc sống đất nước có thay đổi chăng ? Chắc chắn là có. Quy luật vô thường của vũ trụ, tất cả mọi thứ đều sẽ phải thay đổi, không ai có thể làm ngược lại. Có những thứ thay đổi tốt hơn, cũng có thứ thay đổi xấu hơn. Ngày hôm nay phải khác ngày hôm qua. Ngày mai sẽ khác hơn ngày hôm nay. Đó là chuyện tất nhiên, nhưng khác thế nào mới là quan trọng. Rồi cho đến ngày hôm nay, cuộc sống của người dân có còn phải cam chịu và nhẫn nhịn nữa không ? Ai cũng có thể dễ dàng tự tìm ra câu trả lời cho chính bản thân mình !

Có nhiều người thường dùng yếu tố thời gian để so sánh sự đổi thay hoặc tiến bộ của một đất nước. Mình nghĩ là sự so sánh nào cũng khập khiễng, vì sự thay đổi luôn lệ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Quả nhiên là vậy. Chỉ cần 30 năm, một quốc gia thất trận, bị tàn phá như Nhật đã có thể vươn lên trở thành một đất nước có nền kinh tế hùng mạnh thứ hai trên thế giới thời bấy giờ. Chỉ cần 35 năm Singapore trở thành một đất nước có nền kinh tế phồn thịnh hàng đầu thế giới. Đài Loan, Hàn Quốc cũng vậy, không cần đến 30 năm đã trở thành cường quốc về kinh tế và dân trí trên thế giới. Nhưng chúng ta không thể đem Liên Xô, Triều Tiên hoặc Cuba mà so sánh với họ được. Những nước Đông Âu cho đến ngày nay vẫn còn vất vả để đuổi kịp các nước Tây Âu láng giềng của họ. Suy cho cùng, yếu tố quan trọng nhất cho sự thay đổi và phồn thịnh không phải là thời gian, càng không phải là thành tích chiến tranh, mà là ở tư duy, ở trong từng ý nghĩ của mỗi con người.

Thời đại hôm nay, các ngành tâm lý học hoặc xã hội đương đại, ai cũng biết đến nguyên tắc chung “Thoughts become actions. Actions become habits. Habits become character. Character becomes destiny”. Tạm dịch là: “Ý nghĩ dẫn đến hành động. Hành động dẫn đến thói quen. Thói quen dẫn đến tính cách. Tính cách dẫn đến vận mạng”. Cá nhân cũng thế mà đất nước cũng vậy. Điều này thì rõ ràng quá, lại dễ dàng chứng minh, nên cũng chẳng ai tranh cãi gì nhiều. Có chăng là nhiều người lâu lâu vẫn còn tranh cãi ai là tác giả câu này. Người thì cho là của Lão Tử, người thì cho là của Gandhi, người thì bảo là của bà Thatcher. Thực ra người nào có đọc hoặc nghiên cứu về Yogacara (tên khác là Yogachara, Vijnanavada, Vijnaptimatra, Consciousness Only, Duy thức ....) thì những điều này đã được nói đến từ hơn 2500 năm trước rồi. 

Xin mở ngoặc chút, một số người xưa nay vẫn thường ngộ nhận quy chụp nhiều quy luật tự nhiên là của đức Phật tạo ra, hoặc là sở hữu của đạo Phật. Ví dụ như vô thường, nhân quả, hoặc đạo lý đang nói đến ở đây. Thực ra Đức Phật không phải là đấng tạo hoá, Ngài cũng không phải là Thượng đế như theo quan niệm ở một số tôn giáo khác. Cho nên những gì trong kinh sách mà Ngài đã giảng dạy truyền lại đều là những quan sát thực tế, trãi nghiệm và thực chứng dưới con mắt trí tuệ (prajna, wisdom) của một đấng giác ngộ, chứ Ngài không tạo ra những quy luật đó, và càng không muốn tranh giành công lao, lập thành tích, hoặc đăng ký sở hữu trí tuệ bản quyền :-).

Nói thêm chút, đạo Phật vốn cho rằng mọi thứ trên cuộc đời này đều xuất phát từ ý nghĩ (thoughts). Không những chỉ là số phận, mà cái tôi, cái tớ, cái "bố mày", cái chủ tịch, cái giám đốc, cái cu li, cái nô lệ, cái tự chủ, cái có, cái không, cái hạnh phúc, cái khổ đau....v.v.. nôm na đều bắt nguồn từ sự tương tác của thân và ý (body & mind) với môi trường chung quanh mà tạo thành. Ai muốn tìm hiểu sâu hơn thì mình nghĩ nên đọc tài liệu nói về 8 thức (consciousness), và 5 uẩn (skhandas). Còn đối với dân thường sửa máy tính như mình, thì đơn giản coi "body" như là phần cứng (hardware), coi "mind” như là phần mềm (software). Cho nên anh nào muốn thay đổi tư duy, thì kiếm phần mềm khác bỏ vào chạy thử xem sao :-).

Tuy nhiên nói vậy chứ không dễ chút nào. Mỗi người mỗi cảnh, mỗi quốc gia mỗi cách. Rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới, hằng ngày nổ lực tìm kiếm và cổ vũ những tư duy sáng tạo, đề cao những lối suy nghĩ mới lạ. Bởi họ cho rằng đó là động lực chính để nâng cao giá trị đời sống con người, canh tân đất nước, cải tiến xã hội, thay đổi thế giới (changing the world). Những đứa trẻ đi học từ nhỏ đã được thầy cô, cha mẹ, khuyến khích nên suy nghĩ độc lập, tư duy rộng rãi, đa phương đa chiều, và luôn đeo đuổi giấc mơ "thay đổi thế giới". Thế nhưng bên cạnh đó, thì cũng còn một số quốc gia, giáo dục tư tưởng đi theo những khuôn mẫu nhất định, không dám phản biện lại hoặc đi theo lối khác. Thử hình dung nếu như sự đào tạo, tuyển chọn nhân sự, bao năm qua vẫn duy ý chí bằng một cách thức giống nhau, vẫn hồng hơn chuyên, vẫn hạt giống vẫn nguồn giống nhau, vẫn lựa chọn tư duy và cách nghĩ giống nhau, thì điều gì sẽ xảy ra? Tất nhiên là khó có thể mong đợi những đột phá về tư duy hoặc phương cách ứng xử khác biệt. Hãy nhìn vào hiện trạng thực tế của năng lực nhân sự ngày nay (nhất là qua đợt chống dịch vừa rồi) để có những nhận định cụ thể hơn. Thỉnh thoảng chắc cũng có những trường hợp ngoại lệ, nhưng đó là thiểu số rất ít.

Nhớ có lần ngồi nói chuyện với một người quen, anh ta nói mấy đứa nhân viên của anh bây giờ "phản động" lắm. Nghe nghiêm trọng quá, nhưng hỏi ra mới biết là mấy đứa trẻ có những tư duy mới mẻ, khác với lối suy nghĩ cổ xưa của các bậc trưởng bối. Mình góp ý với anh ta nên phân biệt được chữ "phản biện" và "phản động", không nên cứ nghe người ta nói bậy rồi nói theo, mà không hiểu được cái nghĩa của chữ "động" là gì. Rất nhiều trường hợp xưa nay vì không hiểu thấu vấn đề, hoặc thiển cận, hoặc sợ hãi mơ hồ, mà bóp chết nhiều tư tưởng và ý kiến cải cách có thể đem lại sự phồn thịnh cho quốc gia dân tộc. Ngày xưa thời phong kiến đã đành, ngày nay thời văn minh cũng không hiếm. Mình thì vốn nghĩ rằng một quốc gia có chính quyền, có quân đội, có quan to quan lớn, có luật pháp, sao lại sợ hãi một vài tư tưởng khác biệt ?  Chắc có lẽ chỉ là một vài cá nhân địa phương kém hiểu biết, hoặc chưa biết cách chấp nhận sự khác biệt, nên không xử dụng được cái hay cái mới của người khác thôi. Ngoài ra cũng có thể một số người ngộ nhận cho rằng phải có bằng này cấp nọ, hoặc con ông này cháu bà kia mới có khả năng suy nghĩ “đúng”. Buồn cười là những vị lãnh đạo quốc gia tên tuổi và thành công trên thế giới lâu nay, đại đa số chẳng có học vị cao, cũng chẳng ông nào có trình độ chính trị cao cấp trung cấp gì cả. Nhưng họ đều có điểm chung là suy nghĩ đúng và dám vì quốc gia hy sinh quyền lợi cá nhân !

Nói đến đây mình nhớ đến một câu chuyện thời Đức Phật còn tại thế. Hàng năm vào những mùa mưa lũ lớn, các tăng đoàn thường xin vào tá túc ở nhà dân vài ngày rồi đi tiếp. Lần đó, tăng đoàn xin trú chân tại một ngôi làng nhỏ. Sau khi tất cả mọi người sắp xếp được nơi trú ngụ, chỉ còn lại Ananda, đệ tử của đức Phật, và một ngôi nhà thổ của cô gái điếm trong làng. Mọi người trong đoàn đều cảm thấy bối rối và lo lắng, Ananda cũng vậy, bèn kéo nhau đến hỏi ý kiến đức Phật là có nên vào đó ở chăng ?

- Cô ta có mời ngươi vào ở không ? Đức Phật hỏi .

- Dạ có. Ananda trả lời .

- Vậy thì tại sao không ?

Nghe Đức Phật nói thế, cả tăng đoàn xôn xao, ồn ào thắc mắc tại sao đức Phật lại để cho đệ tử của Ngài, Ananda, vào nhà thổ ở dài ngày. Nhiều người cho rằng Ananda sẽ bị cô gái ấy (thế lực thù địch) dụ dỗ mất thôi. Nhưng Đức Phật từ tốn trả lời :

- “Ta đã khổ công tìm tòi học hỏi và thực chứng được con đường tu tập này. Ta cho rằng đây là phương pháp tối thượng để giúp các ngươi cùng chúng sanh tu tập, giác ngộ và thoát khỏi khổ đau. Nếu bây giờ cô gái đó có phương pháp còn hay hơn ta, có thể khiến Ananda bỏ pháp của ta mà đi theo cô ấy. Thì các ngươi cũng không nên theo ta nữa, mà nên đi theo cô ta. Bởi nếu các người thực sự là những người muốn tìm kiếm sự thật, cầu tiến, và luôn mong muốn đạt tới cảnh giới cao hơn của trí tuệ, thì hãy nên mạnh dạn đi theo những gì tốt đẹp hơn”.

Quả nhiên là vậy, xưa nay vẫn thế. Nếu ta đúng, ưu việt, thì ngại gì người bỏ ta đi. Còn nếu không, thì dẫu mọi cố gắng chiêu trò cũng gượng ép được bao lâu ? Mà nếu người không đủ khả năng phân biệt tốt xấu đúng sai, thì lo lắng có thay đổi được gì chăng ? Cả tăng đoàn lắng nghe theo Ngài, nhưng cũng còn nhiều bậc trí giả ấm ức, hậm hực. Một số người trong tăng đoàn vẫn không đồng ý để Ananda ở chung nhà với "thế lực thù địch", vì e sợ làm ảnh hưởng đến uy tín của họ, nên đã âm thầm theo dõi, để về báo cáo :-).

Khi đó, chiếc y của Ananda đã cũ, mỏng manh quá. Cô ấy may cho Ananada một tấm y mới bằng lụa quý, đắp lên người của Ngài. Mấy anh theo dõi nghĩ rằng "thôi rồi lượm ơi" !

Khi đó, mùa giá lạnh, cô ta nấu những chén cháo nóng dâng lên cho Ananda. Ngài Ananda ăn ngon lành, mấy anh theo dõi báo cáo "Ananda bị thế lực thù địch dụ dỗ rồi" !

Đêm đến, cô ta múa cho Ananda coi. Mấy anh theo dõi báo cáo "Ananda bị văn hoá đồi truỵ ảnh hưởng rồi" !

.... Và cứ thế, ngày nọ đến ngày kia, nhiều báo cáo “tối mật” đồn đãi trong tăng đoàn là Ananda đã bị thế lực thù địch âm mưu mua chuộc rồi. Cho đến cuối cùng, khi những ngày mưa gió qua đi, tăng đoàn tập trung lại để cùng với Đức Phật tiếp tục cuộc hành trình. Ananda cũng trở về với tăng đoàn, đi sau lưng Ngài là một vị ni sư mới, đó chính là cô gái điếm của "thế lực thù địch" :-).

Một câu chuyện đáng cho đời sau suy ngẫm, đặc biệt là những người luôn đặt sự nghi ngờ lên hàng đầu, và luôn quy chụp những gì khác biệt đối với cách nghĩ của bản thân. Mà cũng không phải chỉ có trong PG mới đề cập đến tầm quan trọng của tư duy và ý nghĩ (thoughts). Thực ra khi ngành tâm lý học bắt đầu hình thành và phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ 19, thiên hạ cũng đã tranh luận rất nhiều về những quan điểm này. Nhiều nhà tâm lý học đã lục lại những di sản quan trọng của Aristotle, Descartes, Jean-Jacques Rousseau ...để làm tiền đề cho các nghiên cứu thời bấy giờ. Một câu nói nổi tiếng của Descartes là "I Think Therefore I Am" cũng được nhắc đến thường xuyên, và mãi cho đến ngày hôm nay. Vào đầu thế kỷ 20, James Allen, có cho ra cuốn sách ngắn có tên là "As a Man Thinketh", nói đến sức mạnh thực sự về sự suy nghĩ của con người. Và nó đã nhanh chóng trở thành một tác phẩm đình đám thời bấy giờ. Tác phẩm có những điểm tương đồng rất hay giữa triết học hiện đại và PG cổ đại, đó là nghiệp lực, năng lượng, và hậu quả sinh ra bắt đầu từ trong ý niệm.

Lan man quá, giờ trở lại chuyện dịch bệnh ở quê nhà. Rất không may mắn, VN từ một đất nước tự hào về cách chống dịch giỏi nhất, nhưng chỉ một năm sau cũng với cách chống dịch đó, lại đưa đất nước VN, đặc biệt là SG, vào con đường bế tắc, rớt xuống cuối bảng xếp hạng của thế giới. Đại đa số các quan chức và giới hữu trách đã nổ lực hết sức của họ. Nhưng nổ lực nhất chưa hẳn là hiệu quả nhất. Nhiều sự hy sinh của các nhà hảo tâm, các bác sĩ, y tá, các lực lượng tuyến đầu đã làm rung động lòng người, nhưng kết quả thì cũng chỉ dừng lại ở mức độ nhất định. Và mãi cho đến hôm nay, cả nước vẫn còn loay hoay giữa phương cách vừa sống chung với dịch vừa phục hồi kinh tế. Tất nhiên, chưa bao giờ ngoại lệ, và còn hơn bao giờ hết, VN cần những suy nghĩ tỉnh táo và đúng đắn để cứu dân cứu nước trong giai đoạn khó khăn này. 

Thiết nghĩ lối mòn suy nghĩ thường không phải là cách nghĩ dẫn ta ra khỏi lối mòn. Rất cần những tư duy mới, ý nghĩ mới, để có được cách làm mới hơn, hiệu quả hơn. Rất mong dịch bệnh chóng qua, đời sống người dân và xã hội trở lại an bình. Cũng mong VN ngày càng mạnh dạn thay đổi, từ cách bầu bán tuyển chọn nhân sự cho đến cách điều hành nhất quán, quan tâm hơn đến những suy nghĩ độc lập có chính kiến, cũng như tôn trọng hơn những ý kiến đóng góp chân chính, để góp phần tạo dựng đời sống xã hội an vui hơn, đất nước giàu mạnh hơn. Và tất nhiên là mọi hành động dẫn đến sự thay đổi lớn lao nào cũng đều bắt đầu bằng một cách nghĩ mới !

PN


Friday, September 17, 2021

Phiếm: Câu chuyện hai mũi tên !


Trong sách nhà Phật, có câu chuyện "2 mũi tên" kể về thời Đức Phật còn tại thế. Một ngày kia, có người đến xin Ngài dạy dỗ cách nào để vượt qua nỗi đau khổ tuyệt vọng của anh ta, rồi kể lể ra nhiều tình tiết dông dài. Cuối cùng đức Phật giải thích cho anh ta rằng, sự đau khổ của con người giống như bị 2 mũi tên bắn vào cùng một chỗ. Mũi thứ nhất bắn vào tất nhiên là bị đau (pain), nhưng mũi thứ 2 càng làm cho đau đớn hơn, đó là khổ (suffering). Trong cuộc sống hàng ngày, thông thường chúng ta khó có thể tránh được mũi tên thứ nhất, vì nó tạo ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể liên quan đến nghiệp lực mà chúng ta đã tạo ra trong quá khứ. Ví dụ như bị mất đi người thân yêu, bị thất bại, mắc bịnh nan y, tuổi già, bị tai nạn, bị vu oan giá họa, bị covid ...v.v.. và chúng ta phải chịu đựng những nỗi đau đó. Còn mũi tên thứ 2, chính là những phản ứng (reaction) và thái độ của chúng ta đối với mũi tên thứ nhất, ví dụ như than thân trách phận, so sánh, tiếc nuối, phán xét, đổ thừa đổ lỗi, giận dữ, căm ghét, hận thù, hổ thẹn...v.v...Chính những điều này mới làm cho con người phiền não khổ lụy hơn. Mũi tên thứ nhất, thường là không tránh được vì chúng ta không hề làm chủ được nó, nhưng mũi tên thứ hai thì con người hoàn toàn có khả năng tránh được !

Câu chuyện này rất nổi tiếng và được nhắc đến rộng rãi lâu nay, đặc biệt là ở các nước Tây phương trong các lãnh vực trị liệu tâm lý (y khoa), therapy, hoặc giáo dục, văn hoá, nguyên tắc ứng xử, tư duy logic ..v.v... 

Tất nhiên khi nghe đến câu chuyện này thì ai cũng hiểu là đức Phật muốn nói đến cái "thọ", cái "tưởng", cái “hành”, cái "thức"…sự cảm nhận và trạng thái ứng xử xuất phát từ bên trong của mỗi con người trước những biến cố thay đổi chung quanh. Tuy nhiên, riêng đối với mình thì nhận thấy câu chuyện này cũng có thể được hiểu theo nghĩa đen đơn giản của nó, và là bài học đáng quý cho những vấn đề đất nước xã hội.

Như xưa nay nhìn lại bản thân, gia đình, và đất nước thì có biết bao nhiêu câu chuyện để nói, dài như những thước phim nhiều tập của quê nhà. Thực ra thì trong cuộc sống ai cũng có những kinh nghiệm bản thân, hạnh phúc hoặc khổ đau, dù ít hay nhiều, mắt thấy tai nghe những biến cố đã từng xảy ra chung quanh. Nên ai cũng có thể tự suy gẫm, "ôn cố tri tân", và tự rút ra kết luận cho riêng mình. Từ chuyện chiến tranh cho đến hậu chiến tranh. Từ chuyện "dùng người" cho đến "không dùng người". Từ chuyện thời bao cấp cho đến thời đổi mới. Từ chuyện nói và làm, từ chuyện hứa hẹn và thực hiện, từ chuyện lý thuyết đến thực hành, từ chuyện đày tớ đến ông chủ, từ chuyện "hồng" đến "chuyên" ..v.v.. Và mới đây nhất là chuyện chống dịch covid 19. Thực ra nói bao nhiêu cho hết, mà nói cũng bằng thừa, vì thời gian và thực tế đã quá dư đủ cho bất cứ ai để hiểu nhau và tin nhau (nếu có). Mình thì vốn không hề có ý đổ thừa đổ lỗi cho ai, vì đổ thừa đổ lỗi cũng là mũi tên thứ 2 :-). Tuy nhiên trong cuộc sống này, thiết nghĩ cho dù ở bất kỳ quốc gia nào, nếu như chúng ta không nhận ra được nguyên nhân của những sai phạm đã từng xảy ra trong quá khứ và hiện tại, thì nói gì cho đến tương lai? Đặc biệt là những sai phạm đó đều có cùng những tính chất giống nhau, nghịch lý giống nhau, và lập đi lập lại dai dẳng giống nhau. Cứ rút kinh nghiệm, cứ cảnh cáo, cứ kiểm điểm, cứ xin lỗi, cứ doạ nạt, cứ hình thức, rồi lại cứ tiếp diễn những quy trình sai phạm như cũ, thì khác nào bắn hàng trăm hàng ngàn mũi tên vào cũng một chỗ, chứ sá gì chỉ có 2 mũi tên !

Xin nói chút về chuyện chống dịch ở quê nhà. VN ta từ lúc tự hào chống dịch giỏi nhất thế giới đến lúc bị đánh giá xuống hàng thấp nhất, là cả một quá trình dài đầy nổ lực và kịch tính, làm sao kể hết. Ở đó, có biết bao nhiêu sự hy sinh cao quý của những nhân viên y tế, bác sĩ y tá, cán bộ công nhân viên tuyến đầu, đồng bào đồng hương trong và ngoài nước, đã tương trợ giúp đỡ nhau, ngày đêm cùng nhau đối đầu dịch bệnh. Nhiều người đã ngã xuống, đã hy sinh cả tính mạng, gia đình, tài sản, ước mơ, để góp sức cứu nguy giúp đỡ đồng bào đồng loại trong cơn khốn khó. Quả nhiên không thể nào tỏ bày đầy đủ hết được lòng biết ơn đối với sự hy sinh của họ. Xưa nay mỗi lúc trãi qua những biến cố to lớn như vậy, quốc gia nào cũng đều bộc lộ rõ nét điểm mạnh và yếu của đất nước họ, VN cũng không ngoại lệ. Điểm mạnh lớn nhất của đất nước VN là tình người, sự chia xẻ và đồng cảm của người dân với nhau, đặc biệt là những người đã từng có cùng hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói. Rất cảm động và trân quý !

Bên cạnh đó thì cũng phải hoan hô sự nhiệt tình đóng góp sức lực và tư duy “chống giặc” của chính quyền trong sự nghiệp chống dịch lần này. Nhiều vị chỉ trong một thời gian ngắn mà tiều tụy hẳn ra, không còn được dáng vẻ đầy đặn như xưa. Hôm trước có người bạn quen nói với mình là "chính quyền đã cố gắng hết mức". Mình cũng đồng ý như vậy, và rất trân trọng những sự cố gắng đó. Tuy nhiên trên thực tế thì nhiều khi dẫu "cố gắng hết mức" cũng chưa chắc đạt được kết quả mong muốn và hiệu quả cao nhất. Bởi lẽ cái "mức" của mỗi người khác nhau, vả lại còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan khách quan khác nhau nữa. Người Tây phương cũng quan niệm "work hard" khác với "work smart". Cho nên sự duy ý chí trong nhiều trường hợp rất cần thiết phải được thay đổi, cần mở lòng và khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm của những quốc gia đi trước, đặc biệt là những nước có kinh nghiệm khống chế dịch bệnh thành công. Đó cũng là một trong những cách làm hiệu quả. Nhớ trong Tạp chí Tuyên giáo VN từng trích câu nói của Lê Nin "Lòng nhiệt tình cộng với sự ngu dốt bằng sự phá hoại”. Tất nhiên thời nay không còn ai "ngu dốt" như thời ông ấy nữa rồi, nhưng có lẽ câu nói này cũng còn có một giá trị nhất định nào đó nên vẫn được nhắc lại chăng ?

Theo thiển ý của mình thì mỗi quốc gia đều có những phương cách ứng xử với dịch bệnh khác nhau tuỳ vào điều kiện của đất nước họ. Mỗi giai đoạn mỗi tình huống, đều có những thay đổi khác nhau để cho phù hợp. Tất nhiên có cách làm đúng thì cũng có cách làm sai, và kết quả cuối cùng bao giờ cũng là thước đo trung thực nhất cho những cách làm đó. Nhiều quốc gia phát triển trên thế giới, cũng từng có những sai phạm nghiêm trọng buổi ban đầu, nhưng họ nhanh chóng học hỏi kinh nghiệm và thay đổi để tốt hơn. Đâu ai tuyệt đối bao giờ, đặc biệt là trong lúc phải đối đầu với cơn đại dịch thế kỷ như lần này. Cho nên chưa hề thấy quốc gia nào lại duy ý chí, khư khư giữ lấy những cách làm đầy nghịch lý và sai trái trong thời gian dài mà không thay đổi, bởi hậu quả khó lường !

Nhiều người mỗi khi thấy những ứng xử lạ thường hoặc việc làm trái cách ở một số quốc gia, thường thắc mắc về năng lực  nhân sự của nước này nước kia. Mình thì quan niệm rằng ở đâu cũng có những người tài giỏi đức độ. Suy cho cùng cho dù sinh ra và lớn lên ở bất kỳ quốc gia nào, thì những giá trị chuẩn mực của xã hội như đạo đức, tư duy, kiến thức, và kinh nghiệm, đều luôn được tôn trọng. Tuy nhiên nếu như nguyên tắc tuyển chọn nhân sự ở quốc gia đó không tôn trọng những chuẩn mực chung, cũng không dựa vào bầu cử công khai của dân, mà chỉ bố trí sắp đặt dựa vào một vài tiêu chí “đặc biệt”, thì giá trị của tư duy, của khoa học, của kinh nghiệm, của chuyên môn, của sự cầu thị, của sự khiêm tốn....đều trở thành vô nghĩa. Tất nhiên mỗi người đều có một khả năng nhất định nào đó, nhưng trong công việc thì chắc chắn có người này phù hợp hơn người kia. Nhìn lại lịch sử dân tộc VN, thì xưa nay chưa bao giờ thiếu người tài giỏi và hiền đức, chỉ là cần phải có cách chọn lựa và bầu bán như thế nào cho công bằng hợp lý thôi !

Nhân nói đến chuyện người "người tài giỏi", mới tối qua đọc mấy bài báo nói về kế hoạch sắp tới của SG, sống chung với dịch và khôi phục kinh tế như thế nào. Mình thấy tên các vị chuyên gia quen quen, lục lại báo cũ ra coi, thì ra cũng là mấy vị cách đây mấy tháng đã phân tích và dự đóan "dịch ở SG sẽ nhẹ thôi, mấy con covid sẽ sớm khăn gói ra đi trong tháng 8". Thoáng nghĩ qua không biết thân nhân của hơn chục ngàn người chết và bạn bè anh em của họ, cũng như bao nhiêu người công nhân, nông dân, dân nghèo, lao động đường phố đang vất vưởng mong cầu sự sống mỗi ngày, có cảm nhận được dịch bệnh lần này là "nhẹ" không ? Mình thì nghĩ rằng đại dịch cúm Vũ Hán chính là “mũi tên thứ nhất” đã bắn vào đất nước VN, không thể tránh né được. Phần quan trọng còn lại là mũi tên thứ 2, đang nằm trong tay của con người VN, đặc biệt là giới lãnh đạo điều hành đất nước hôm nay. Cho nên hơn bao giờ hết, người dân cả nước ai ai cũng mong muốn được thấy “đúng người đúng việc” phen này !

Chợt nhớ đến câu chuyện tiếu lâm đã được nghe lâu rồi. Có anh VK áo vest về làng, phải đi qua một con sông. Ngồi trên ghe rãnh rỗi, đang thưởng thức trời mây non nước, bỗng hỏi anh chèo đò :

- Anh có biết gì về khoa học không ?

- Dạ thưa không. Người chèo đò ngạc nhiên trả lời.

- Vậy anh đã mất đi 30% cuộc đời. Thế anh có biết gì về âm nhạc nghệ thuật không ?

- Dạ cũng không ! 

- Vậy là anh lại đánh mất thêm 30% phần trăm nữa của cuộc đời. Chắc là anh biết qua chính trị thời sự chứ ?

- Dạ cũng không. Em chỉ biết chèo đò mỗi ngày.

- Vậy thì phí phạm quá. Coi như anh mất cả 90% cuộc đời rồi.

Lúc đó trời đang có cơn giông, sóng gió hơi lớn. Anh lái đò thật thà hỏi anh "trí thức" VK:

- Dạ thưa anh biết bơi không ?

- Không 

- Thế thì anh sắp mất hết cả cuộc đời rồi !

Đó là chuyện tiếu lâm, nhưng trong cuộc sống hàng ngày thì cũng không hiếm những câu chuyện khôi hài như thế. Dĩ nhiên kiến thức phải được xử dụng đúng lúc đúng nơi mới phát huy hết vai trò của nó. Nhưng ngay cả bên Tây bên Mỹ cũng không hiếm cảnh lấy râu ông kia cắm cằm bà nọ. Ví dụ như mấy đài tin tức cây nhà lá vườn, hết người, nhờ mấy ông ts gs chuyên môn kỹ thuật mà đi phân tích chuyện chính trị chính em, cũng là chuyện thường. Bên VN thì càng không hiếm trường hợp mời các ông nghè ngành nghề không liên quan ra làm cố vấn chuyên môn, cứ có danh xưng là được. Ví dụ như hành chánh, kinh tế, giáo dục, ra làm tư vấn chống dịch, rượt đuổi F0, F1. Mà cũng thật là bất công, khi đoán đúng thì hoan hô, đóan sai lại phê phán người ta "ếch nằm đáy giếng". Chắc gì là lỗi của họ, biết đâu chính sự tung hô quá trớn của đám đông đã làm cho nhiều người bị ảo giác đa năng ? Nhớ hồi còn nhỏ ở dưới quê, bạn bè tụi mình đi thả trâu, chăn vịt. Đứa nào cũng biết là cách rượt bắt vài con vịt lẻ bầy chạy lạc khác xa với chuyện rượt đuổi vài trăm con sổng chuồng chạy rông. Mà đó chỉ là chuyện nhỏ nhặt vịt gà, huống hồ chuyện đại sự dịch bệnh mạng người, đâu phải chuyện đùa !

Cũng là chuyện mới hôm qua, ngồi coi những tấm hình và clip ngắn mùa dịch SG mà ai đó đã đăng trên mạng. Nào là, cả xóm đem thau ra để trước nhà, nào là những bà mẹ bò lết chui qua những hàng rào tấm chắn với túi đồ ăn rách nát, nào là người mẹ ngồi canh con ngủ trong ống cống, nào là những người y tá bác sĩ lả người nằm bệt xuống sàn, nào là những đứa bé mồ côi ngơ ngác sụt sùi, nào là những đứa con quỳ lạy trên vỉa hè đưa tiễn người thân.... Thế rồi lại vô tình nhìn thấy cái cơ ngơi chôn cất của một vị cựu quan chức vừa mới qua đời ở VN. Thực ra, mình cũng thuộc loại may mắn đi qua nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới, nhưng chưa từng được thấy ở đất nước nào lại có những miếng đất chôn cất, hoặc lăng tẩm mồ mả của quan chức to lớn đến như thế. Bỗng nghĩ đến bao nhiêu người ngoài kia còn đang chờ đợi từng đồng trợ cấp, thuốc men, miếng sống mỗi ngày. Nghĩ đến nhiều vị quan chức dãi dầu đường xa vạn dặm "ngoại giao" từng mũi thuốc ngừa. Nghĩ đến còn bao nhiêu người dân vô tội sắp sửa ra đi ? … Chạnh lòng ! 

Rồi ngồi đó thẩn thờ cả lúc, mà cũng không biết mũi tên nào đã bắn trúng tim mình ? Thôi, chúc mọi người luôn may mắn và một cuối tuần bình an. Cầu mong dịch bệnh chóng qua, nước nhà sớm an lành.

PN 




Saturday, September 11, 2021

Phiếm: Con đường tơ lụa và chiếc chiếu rách của Ngài Huyền Trang !

 


Xưa nay nếu có ai hỏi mình nhân vật nào vĩ đại nhất của TQ, thì mình sẽ không chút đắn đo nói ngay rằng đó là Ngài Huyền Trang (Xuanzang). Quả nhiên đối với mình nhân vật lịch sử đáng kính nhất của TQ chẳng phải là Lưu Bang, Lý Thế Dân, Chu nguyên Chương, Hạng Võ, Tần Thuỷ Hoàng .....càng không phải là Mao Trạch đông, Đặng tiểu bình, mà là nhà sư Tam Tạng. Nhân hôm nay nhắc đến chuyện "con đường tơ lụa" của TQ, lại nghĩ đến Ngài. 

Trước hết phải nhắc sơ qua về con đường tơ lụa (Silk Road) để nhiều người tiện theo dõi. "Con đường tơ lụa" (Silk Road) của TQ đuợc cho rằng đã có từ thời nhà Hán, người TQ tạo ra như những con đường mòn để đem tơ lụa và các hàng hoá khác qua bán cho các nước, chủ yếu là Trung Đông và Châu Âu. Những con đường mòn này ngày càng được mở rộng và dài hơn. Từ sau thế kỷ 12,13 trở đi các nhà thám hiểu châu Âu cũng đã sử dụng Silk Road để trao đổi hàng hoá ngược lại với TQ. Rồi đến thời kỳ cận đại, khi các phương tiện giao thông phát triển mạnh mẽ thì vai trò của những con đường đó không còn quan trọng nữa. Thế nhưng trong những năm gần đây, thì nhà cầm quyền TQ lại rầm rộ đưa ra những chiến thuật và kế hoạch đầy tham vọng "một vành đai một con đường", với dụng ý thiết lập hệ thống thuỷ bộ bao trùm cả thế giới, dựa theo lý thuyết của con đường tơ lụa ngày xưa. Nhiều kế hoạch đã được triển khai như xây dựng tuyến xe lửa tốc hành kết nối đa quốc gia, ngang ngược cưỡng chiếm vùng biển của các nước nhỏ, thiết lập bẫy nợ ở các nước nghèo, vay mướn đặc khu kinh tế trên các trục lộ trọng điểm .... v.v.. Bởi vậy gần đây có nhiều thuyết âm mưu cho rằng TQ đã gây ra dịch bệnh covid tạo ra suy thoái kinh tế thế giới, rồi dùng "ngoại giao thuốc ngừa", "cây gậy và si-rô", hoặc "âm mưu ràng buộc" để khống chế các nước khác, thực hiện mưu đồ bá chủ. Tuy nhiên thuyết âm mưu thì vẫn chỉ là "thuyết" thôi, không nên tin hết cho đến khi có bằng chứng hẳn hoi. Và tất nhiên là để tìm được bằng chứng ở TQ thì cũng không đơn giản chút nào. Ví dụ như đợt dịch vừa qua, gần cả năm sau, đợi dọn dẹp xong hết, mới cho phái đoàn thế giới vô Vũ Hán, thì cho dù có mời mấy nhà ngoại cảm VN qua cũng phải đành chịu thua. Ráng đợi thôi :-) !

Trở lại câu chuyện của Ngài Huyền Trang. Thực ra, do ông Ngô Thừa Ân viết truyện Tây Du Ký quá hay, nên đã xây dựng nên một hình ảnh của nhà sư Tam Tạng hoàn toàn khác với thực tế. Viết truyện hay đến nỗi mà nhiều người cứ tin rằng Tây Du Ký là có thực. Nhớ mấy năm trước có ông quan chức gì ở Quảng Nam Đà Nẵng còn tưởng rằng núi Non Nước Ngũ Hành Sơn là chỗ Phật tổ nhốt Tề thiên năm xưa, nên kêu gọi đầu tư xây dựng du lịch về "vùng đất vàng" đó. Tất nhiên thực tế thì không phải vậy, cũng chẳng có vua Đường nào mà kêu ngự đệ đi thỉnh kinh rồi cho cái bát vàng và tấm y quý giá đem theo làm của. Cũng chẳng có ma nữ nào mà thèm thịt của nhà tu hành Tam tạng, và cũng chẳng có Tề thiên, Trư bát giới nào đi theo. Lại càng không có vụ Đường Tăng phải hối lộ cái bình bát bằng vàng nơi đất Phật để đổi lấy kinh Phật. Nhưng ngẫm lại thì đôi khi những sự hiểu lầm cũng có cái hay riêng của nó :-) .

Trên thực tế thì Ngài Huyền Trang cũng chỉ là con nhà lương dân bình thường ở TQ vào thời Tuỳ/Đường. Trước Ngài Huyền Trang cũng có nhiều bậc tu hành khác từng đi qua Ấn độ để học Phật, như nhà sư Pháp Hiển (Faxian) rất nổi tiếng. Nhưng khi Ngài Huyền Trang tu học, thì thấy trong kinh sách thời đó có nhiều mâu thuẩn nghịch lý, nên Ngài quyết chí ra đi học hỏi cứu nước cứu dân. (Cứu nước ở đây không phải là để đánh nhau, mà để đem kinh sách về dạy dỗ cho người dân hiểu đúng, tu đúng, chung sống hiền hoà hạnh phúc, tạo phúc cho đất nước dân tộc). Thời đó Đường thái Tông mới giành được nước từ nhà Tuỳ nên còn nhiều luật lệ cấm đoán, ngăn sông cấm chợ. Ngài Huyền Trang phải trốn đi vượt biên theo con đường tơ lụa để sang Ấn độ học Phật. Thời gian đi và về tốn hết 7,8 năm trên đường bộ giữa Ấn-Trung. Còn lại 10 năm ở trên đất Ấn, Ngài vừa học ngôn ngữ, vừa học đạo pháp, và sau đó đi dạy ở đại học PG Nalanda. Tính ra, ngài Huyền Trang chỉ cần 10 năm có thể học và hiểu thấu những ngôn ngữ tiếng Phạn (Pali, Sanskrit..) và những đạo lý kinh điển PG sâu sắc đến mức như vậy. Ngài có thể sáng lập ra Pháp Tướng tông, và sau đó khi trở về nước, dịch ra rất nhiều tạng kinh điển giá trị của PG Bắc tông, từ Đại Niết bàn cho tới Bát Nhã Ba La Mật, từ Duy Thức tông cho đến Tịnh độ đông ..v.v..Ngài thông hiểu cả 3 phần quan trọng nhất của kinh sách PG (Kinh tạng, Luật tạng, Luận Tạng), nên thiên hạ gọi ngài là Tam Tạng chứ không phải là do ăn được thịt Ngài thì trường sanh bất tử :-). Nhờ vậy mà còn có nhiều tạng kinh điển giá trị được lưu truyền cho nhân loại đến ngày hôm nay, trong đó có PG VN. Tất nhiên là để dịch giải được bao nhiêu kinh sách đó trong một thời gian hữu hạn thì cũng không thể tránh được những khó khăn và hạn chế nhất định.

Mà nói tới đây mình cũng cảm thấy hổ thẹn. Ngài chỉ có 10 năm mà làm ra bao nhiêu thành tựu vĩ đại cho thiên hạ. Còn kẻ phàm phu như mình ra nước ngoài đã mấy chục năm nay, tiếng Anh tiếng U còn chưa rành, chỉ quanh quẩn mấy chuyện cơm áo gạo tiền, mà cũng chưa xong. Hơn thua nhau cái đài cái xe, cái phone, chai rượu, món này món kia, ăn nhà hàng này ghé quán ăn nọ, so đo chuyện làm mướn làm thuê cho hãng này hãng khác, hết đời mình đến đời con ....lẩn quẩn. Ngồi nhậu chút, khoe tới khoe lui, uống nhiều uống ít, hơn thua chuyện tào lao, rồi cãi nhau chí choé. Chính trị, chính em thì cứ như những người mù sờ voi, sờ đưọc khúc đầu chê người khúc đuôi, cả ngày chính sự ra rả, mà không thay đổi được điều gì. Thậm chí có nhiều ông mình quen đã mấy chục năm nay mà sự nghiệp chửi vẫn còn chưa xong. Làm hết chức chủ tịch, qua đến chức hội trưởng, xuống chức hội phó, lớn tuổi trở lại chức hội viên, rồi ra đi trong nuối tiếc. Ước mơ "to tát" vẫn còn nguyên một gói chưa kịp mở ra. Đó là chuyện ngoài nước, còn trong nước thì cũng nhiều thứ lòng vòng hơn. Như hiện nay chuyện dịch bệnh thì đã mấy tháng nghĩ bàn đủ chiêu đủ kế, chống dịch như chống giặc, mà giặc thì còn chưa biết mặt mũi ra sao, người thân quen thì cứ chết rụng rơi mỗi ngày. Bằng này cấp nọ, chữ nghĩa một bụng, cũng chỉ để chê nhau, hơn thua là chính. Nói ra thì lắm người buồn. Bỗng nhớ đến mấy câu thơ của Lý Bạch ngày xưa mà nhà thơ Tản Đà đã dịch lại:

....
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan,
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.

Phỏng dịch:
...
Từ xưa bao kẻ chinh phu,
Đã ra đất chiến, về ru mấy người?
Buồn trông cảnh sắc bên trời,
Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà,
Lầu cao, đêm vắng, ai mà,
Đến nay than thở ắt là chưa nguôi !

Mà ngẫm nghĩ lại thì quả nhiên lịch sử cũng có nhiều chuyện thú vị. Lâu nay người TQ rất tự hào về vua Đường Thái Tông, khen nhà Đường thịnh, biết trọng nhân tài, thông hiểu đạo pháp. Nhưng mình nhớ là khi Ngài Tam tạng về lại TQ, ông vua Đường hỏi Ngài có muốn làm quan không, đem chức quan ra mà ban thưởng. Mình thì không nghĩ Đường Thái Tông thông hiểu đạo pháp khi xách chức quan ra chiêu mộ Ngài Huyền Trang. May là hồi đó chưa có quốc hội, chứ có dám cho Ngài Huyền Trang làm đại biểu quốc hội luôn rồi :-).

Trong truyện của Ngô Thừa Ân, thấy ông không chú trọng đến đường về của Ngài Huyền Trang. Đó cũng là thắc mắc của mình. Có lẽ NTA cho rằng khi Đường Tăng thỉnh được kinh sách là viên mãn rồi, mission accomplished. Hoặc là đoạn đường về không còn bị kiếp nạn nữa chăng ? 

Mình thì có suy nghĩ khác, cho rằng đoạn đường về mới là quan trọng. Nếu không thì cũng tương tự như ráng cho dữ vào, cực khổ để kiếm được cái bằng, rồi chỉ để được lên chức, để in cạc visit, để đi ăn giỗ hoặc họp lớp, giới thiệu chút rồi xong, thì quả nhiên uổng phí. Cũng như làm quan, chiêu này chiêu kia leo lên được chức này chức nọ rồi chỉ để ký giấy và đi họp thì cũng uổng. Bởi ăn thua là có làm gì được cho dân cho nước, mới là quan trọng. Tất nhiên là Ngài Huyền Trang đã không chọn con đường về dễ dàng như vậy. Ngài đã từ chối những ân huệ và sủng ái đoàn tuỳ tùng tiền hô hậu ủng của vua Harsha ban cho, mà chọn đi về bằng một "con đường tơ lụa" khác, để có cơ hội giảng giải những điều đã học được cho nhiều người khác biết, cũng như giúp khám phá ra những lối đi mới. Thời đó trên những con đường tơ lụa này, biết bao nhiêu thương nhân đã bỏ mạng, ra đi không có ngày về. Nên kinh nghiệm và kiến thức càng là những điều cần thiết. Và chắc chắn sự chọn lựa này của Ngài không thể sánh bàn với những chuyện phàm phu như áo gấm về làng, tiền bạc, chức sắc bổng lộc, danh xưng vô nghĩa, hoặc vài ngôi chùa to chùa lớn. Tuy nhiên, mình vẫn có chút thắc mắc là thời đó Ngài có nghĩ ra được những kẻ hậu bối có thể lạm dụng con đường đó để làm ra những chuyện xấu xa trong tương lai chăng ? Nói vậy thôi, chứ đương nhiên là sự vật vô tội, con đường vô tội, biển đảo vô tội, chỉ là do bị con người lợi dụng thôi !

Nói đến chuyện những ngày cuối đời của Ngài, Ngài Huyền Trang căn dặn người thân chung quanh gói ông trong chiếc chiếu nhỏ, rồi đem chôn chỗ nào xa xa, vắng vẻ, đừng để thiên hạ bị ô uế mùi hôi. Nhưng tất nhiên là mấy ông vua quan, và hàng ngàn Phật tử đạo hữu, đâu dễ gì để Ngài yên ổn và toại nguyện như vậy. Chắc hẳn cũng là cờ xí rình rang cho xứng tầm. Nhưng thực ra với những bậc trí huệ như Ngài Huyền Trang thì có lẽ chiếc chiếu rách hoặc nghi lễ quốc tang cũng giống nhau, bởi đó chỉ là công cụ chôn cất. Cái còn lại của Ngài chính là những kiến thức và phẩm hạnh cho nhân loại hôm nay và mai sau, còn nghi lễ quốc táng hay cư tang rình rang, thì thiên hạ này cũng đã quên đi từ lâu lắm rồi. Ngày nay bên Nalanda Ấn độ vẫn còn khu tưởng niệm của Ngài (Xuanzang Memorial Hall), nhưng không biết TQ có ngày nào để tưởng niệm Ngài không ? Một kẻ độc tài tham vọng như Mao Trạch Đông, từng đưa ra quốc sách giết chết 45 triệu người TQ trong thời kỳ Great Leap Forward (Đại nhảy vọt/Bước quá độ); buộc 2 triệu người tự sát và bị giết, 20 triệu người bị cuỡng bức bắt bớ, và hàng trăm triệu người đói khát trong cuộc Cách mạng Văn hoá (Cultural Revolution); lại có ngày tưởng niệm to lớn. Trong khi đó một người truyền bá tư tưởng hoà bình, dịch giải đạo pháp đem lại sự giải thoát, sự an lạc và hạnh phúc cho nhân loại như Ngài Huyền Trang, mà lại không có ngày để người dân TQ ghi nhớ, thì quả là nghịch lý !

PN





Friday, August 20, 2021

Tản mạn về "vô úy thí" !

 


Hôm trước viết bài tản mạn về từ thiện, mình có nhắc đến chữ "vô úy thí". Có vài bạn gởi email hỏi thêm, nhưng bận rộn rồi cũng chưa có dịp trả lời. Sáng nay đọc tin dịch bệnh ở quê nhà, thấy ngày càng căng thẳng, mình muốn viết thêm chút về đề tài này. 

Như trước đây mình có nói, rất nhiều kinh sách và kinh tụng của VN thường được phiên âm hoặc phiên dịch với những từ Hán Nôm, làm cho nhiều người khó hiểu, khó nhớ, nên dễ bỏ qua, đặc biệt là giới trẻ. Ví dụ như cụm từ "vô úy thí" này cũng vậy, mình tạm dịch ra tiếng Việt là "giúp cho người khác không sợ hãi". (Cũng xin nhắc lại đây là những tiêu chí thực hành trong lục ba la mật (six paramitas), hướng dẫn cho những người muốn tu tập, thực chứng bản thân, tìm đến sự giác ngộ. Ai muốn thực hành cũng được, không phân biệt phải là tín đồ PG. Còn nếu không thực hành, thì mọi lý thuyết lớn nhỏ, chùa to thầy giỏi, đều trở thành vô nghĩa).

Trong tiếng Anh, chữ "vô uý thí" được diễn nghĩa đơn giản là "giving protection from fear" hoặc là “the gift of fearlessness”. Nghĩa là sự bảo vệ hoặc giúp đỡ kẻ khác vượt qua nỗi sợ hãi. Đây là một trong những việc làm khó nhất của hạnh bố thí, hay nói cách khác là sự cho đi" (generosity). Mở ngoặc chút để nhắc lại PG quan niệm có 3 loại bố thí, đó là tài thí, pháp thí, và vô uý thí. Tài thí thông thường là đơn giản nhất, cho đi tài vật, cúng dường, ủy lạo ..v.v. Còn pháp thí và vô úy thí là những thực hành tương đối khó khăn hơn. Tất nhiên là để giúp đỡ được kẻ khác, trước tiên họ phải vượt qua được nỗi sợ hãi của chính bản thân và có những hành động thiết thực hoặc sự khuyên bảo, hướng dẫn kẻ khác hợp lý hợp tình. Chứ chỉ nói cho có lệ, mà bản thân cũng sợ hãi, lẫn trốn, thì càng làm tăng phần sợ hãi cho người cho mình. Ở đây mình chỉ muốn nói đến một phạm vi nhỏ của "vô úy thí" trong mùa dịch bệnh covid-19 tại quê nhà. 

Rõ ràng đây là lần đầu tiên VN và nhiều quốc gia khác trãi qua kiếp nạn dịch covid này. Đại đa số người dân ở khắp nơi, ai cũng bị rơi vào trạng thái hoang mang, lo âu, sợ hãi. Không biết chuyện gì sẽ xảy ra, tương lai của họ cùng gia đình sẽ ra sao trong những ngày sắp tới ? Người chết ngày càng nhiều, ngay cả tang lễ, thể xác của thân nhân cũng không biết đi về đâu. Nên chắc chắc là họ sợ !
Vậy ai sẽ là người trấn an được họ ? Và ai sẽ là người giúp đỡ người dân vượt qua những nỗi sợ hãi này ? 

Lâu nay bất kỳ xã hội nào, quốc gia nào, cũng đều nói là vì dân vì nước. Thực ra nói suông thì bao giờ cũng dễ, đặc biệt là lúc bình yên, trà dư tửu hậu. Duy chỉ có những lúc lâm nạn hiểm nguy như thế này thì con người mới hiểu nhau được nhiều hơn, họ mới nhận ra được thế nào là một chính phủ “do dân” và “vì dân”. Ngày xưa trong các cuộc chiến tranh trên thế giới cũng thế, người dân cũng chỉ hiểu được chính quyền sau khi cuộc chiến kết thúc. Vì đó là thời điểm thể hiện và chứng minh những lời hứa hẹn ! 

Sợ hãi thì có nhiều nguyên nhân, trước hết nói về chuyện tin tức. Có loại tin tức làm người ta an tâm, nhưng cũng có loại tin tức làm người ta sợ hãi. Năm ngoái ở Mỹ, thời gian cao điểm của dịch bệnh, ông Trump ngày nào cũng lên TV cùng với ban bệ chống dịch để cập nhật tin tức, và trấn an đồng bào. Trực tiếp thông báo những bước đi cũng như sự chuẩn bị kế tiếp. Lãnh đạo các quốc gia Canada, Anh, Pháp, Ấn ..... đều làm tương tự như vậy. Riêng ở Mỹ, thời gian đó cũng là thời gian cao điểm của cuộc tranh cử, nhưng ông Trump hầu như không bỏ sót một ngày nào. Tất nhiên không phải chỉ là ông Trump, mà bất kỳ một tổng thống tại vị nào khác, cũng đều sẽ làm như vậy. Vì chỉ có chính họ nhìn thẳng vào mắt người dân của họ, tuyên bố những điều có thực như trợ cấp đói nghèo, trợ cấp thất nghiệp, kế hoạch ngăn chận, phương án thuốc ngừa, bịnh bao nhiêu, chết bao nhiêu ..v.v... thì mới làm cho người dân yên tâm, bớt lo lắng sợ hãi. Mặc khác người dân cảm nhận được những người chủ quản quốc gia đang đồng hành và chia sẻ với họ, cho dù biết đó chỉ là những công thức chính trị. Người ta thường nói tin đồn gây ra hoang mang. Quả nhiên là đúng. Trong thời buổi cách ly chống dịch, ai cũng dựa vào cái phone, cái đài, cái TV, cái máy tính để biết tin tức phía ngoài. Nếu tin tức loạn xạ, nay nói này mai nói khác, không ai chịu trách nhiệm về những việc xảy ra, thì sự sợ hãi trong dân sẽ càng tăng thêm gấp bội !

Còn nói đến sự sợ hãi thì có nhiều thứ sợ. Sợ chết, sợ đói, sợ mất của, sợ bị lây, sợ lây cho người khác, sợ bị phạt, sợ bị giam, sợ bị chụp mũ, sợ nói thật, sợ liên lụy, sợ thuốc giả, sợ tin giả, sợ bị lừa ...v.v.. Có những thứ sợ mới nảy sinh trong mùa dịch bệnh, nhưng cũng có những thứ sợ đã ngấm sâu trong máu bao lâu nay. Có người thì biết mình đang sợ, biết mình đang ngậm miệng ăn tiền, nín thở qua sông. Nhưng cũng có người sợ mà không biết mình đang sợ vì đã quá quen thuôc, trở thành thuộc tính. Nên hôm trước có ông bạn kia nói chuyện với mình, nói về những điều anh sẽ làm cho người thân của anh ít lo sợ dịch bệnh hơn. Mình không dám có ý kiến, vì mỗi người có một góc nhìn khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, nỗi sợ hãi cũng khác nhau. 

Tuy nhiên theo thiển ý của mình thì phần đông con người chúng ta, niềm vui hay nỗi buồn, cũng như sự hạnh phúc hay sợ hãi, đều có nguyên nhân hoặc xuất phát từ những hoàn cảnh hay tình huống bên ngoài. Còn đối với các bậc thiện tri thức, cao tăng trí huệ, hoặc những người thông hiểu đạo pháp, thì ngược lại, mọi thứ đến từ bên trong, nên sự nhiễu loạn bên ngoài chắc sẽ không làm ảnh hưởng đến sự an nhiên tự tại của họ.

Bởi vậy nói đến sự sợ hãi của đa số người dân trong thời kỳ dịch bệnh hiện nay chỉ có chính phủ mới giúp họ xoa dịu được. Một khi người dân cảm thấy hoàn toàn bất lực, không biết ngày mai ra sao, không biết kế hoạch tương lai như thế nào, thì chẳng có nỗi lo lắng nào lớn hơn. Không tự chủ được tình huống và không lo lắng được cho sự an nguy của người thân và gia đình. Cái ăn cái ở cũng vượt ra ngoài tầm kiểm soát của họ, thì cho dù có tiền đống vàng bao cũng sợ, huống hồ chi là những người dân nghèo khổ, bữa đói bữa no, không nhà không cửa, tiến thoái lưỡng nan. Nói đến thì vừa thương vừa phục sự nhẫn nhịn, chịu đựng, của người dân SG nói riêng, dân VN nói chung.

Ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong thời kỳ dịch bệnh, chính quyền bằng mọi cách nổ lực xoa dịu tình huống căng thẳng và nỗi sợ hãi lo lắng cho người dân. Họ thẳng thắn công bố số liệu dịch bệnh hàng ngày, công bố phương án kế hoạch và những thay đổi lên xuống rất là cụ thể để người dân đối diện với sự thật, không đóan già đóan non. Họ chi tiền, trích ngân sách khẩn cấp, để trợ giúp người nghèo, người thất nghiệp, gia đình hoặc doanh nghiệp khó khăn. Họ ký luật bảo vệ những người dân không đủ điều kiện trả tiền nhà, tiền mướn, tiền điện, tiền nước, để khỏi bị đuổi ra đường. Họ xây dựng những chương trình phúc lợi địa phương để giúp đỡ những hoàn cảnh ngặt nghèo, trường hợp khẩn cấp. Họ thành thật với người dân trong các kế hoạch tiêm chủng và mức độ hiệu quả của thuốc men (Tất nhiên sẽ không bao giờ có một số liệu chính xác, nhưng ít nhất là số liệu tối ưu đủ để tạo được niềm tin với người dân). Họ đưa ra lộ trình với những kế hoạch cụ thể, tránh tình trạng mục tiêu khống, gây thêm hoang mang. Họ luôn đưa giới chuyên môn, khoa học để phân tích hiện trạng dịch bệnh và dự đoán số liệu, chứ không đưa quan chức chính trị hoặc giới chức tuyên truyền phát ngôn, gây hiểu lầm nguy hiểm...v.v... Bên cạnh đó là các tổ chức dân sự vận động quyên góp giúp đỡ, hổ trợ tinh thần lẫn nhau. Đó là những cách thức ứng xử thường thấy ở một số nước trong thời gian dịch bệnh vừa qua, rất đáng học hỏi. (Tất nhiên ở đâu cũng không tránh khỏi những mặt trái tiêu cực, thành phần bất lương lợi dụng phá rối, nhưng đó chỉ là số ít). Mình nghĩ mỗi đất nước có hoàn cảnh khác nhau, nhưng chắc chắn là chính phủ nào rồi cũng sẽ quan tâm và lo lắng cho người dân của họ như vậy thôi. VN vốn có ưu thế rất lớn vì gần năm rưỡi qua không có dịch bệnh nặng, nên có nhiều thời gian để chuẩn bị cơ sở y tế và thuốc men dự phòng. Nhưng không rõ các vị lãnh đạo VN đã xử dụng ưu thế đó như thế nào mà mấy chục ngàn người dân ở SG đã chết vội vã như vậy ?

Thời gian qua, bản thân mình cũng như bao người khác, lúc nào cũng tôn quý các lực lượng y tá, bác sĩ, y tế, nhân viên ngày đêm ở tuyến đầu chống dịch. Cũng rất quý trọng những nhà hảo tâm, từ thiện, các anh chị em giao hàng, nhân viên siêu thị bán hàng, cung ứng, vệ sinh ... đã không ngại nguy hiểm khó khăn, xông pha giúp người. Tuy nhiên bên cạnh đó, trong cơn nguy biến hiểm nghèo, nhiều người cũng không khỏi thất vọng vì sự vắng mặt của một số trí thức, quan chức, đại biểu, biểu tượng tinh hoa, đã từng thường xuyên đóng góp ý kiến xây dựng xã hội đất nước. Có nhiều vị từng tuyên bố ầm ỉ “ta không sợ dịch”, nhưng khi dịch đến thật thì lại bối rối vô cùng. Đó cũng là điều bất hạnh cho nước nhà, nhất là trong giai đoạn nguy biến như thế này. Cũng có thể họ còn phải bận rộn với những nhiệm vụ cấp bách hơn mà tổ quốc giao phó chăng ? Tất nhiên là nước nhà còn lắm việc quan trọng hơn chuyện đi khám điền thổ giữa mùa dịch bệnh :-)

Thực tế trong một cuộc chiến có tầm cỡ ảnh hưởng đến hàng ngàn sinh mạng vô tội, tai ương đổ xuống hàng vạn gia đình, liên quan đến sự tồn vong sống còn của nền kinh tế quốc dân, thì vai trò quyết định đúng đắn của nhà nước và chính quyền là vô cùng thiết yếu. Hơn bao giờ hết, nỗi sợ hãi lo lắng của người dân đang cần một sự trấn an, bảo vệ. Và đương nhiên là sự an ủi quan tâm khác với sự đe dọa gây khó. Đó cũng chính là hành động "vô úy thí" tối thiểu mà một chính phủ có thể làm được cho người dân của họ !

Bên cạnh đó, trong hoàn cảnh khốn đốn vượt ngoài tầm tay trong giai đoạn này, không hiếm những người mất phương hướng, tìm đến tôn giáo hoặc các chùa chiền, nhà thờ, nhà nguyện, để cầu an cầu phúc và thỏa nguyện nhu cầu tâm linh của họ. Xưa nay đức tin vẫn thường giúp đỡ con người vượt qua những thời khắc khó khăn nhất. Đức tin càng mạnh mẽ, khả năng chịu đựng càng cao, sự sợ hãi càng thu nhỏ lại. Tất nhiên có những đức tin chỉ mang tính giai đoạn, có những đức tin tồn tại lâu dài, và cũng có những đức tin phản bội lại sự thật. Cũng không hiếm những nơi lợi dụng đức tin sai lệch để dẫn dắt con người vào chỗ mê tín, ru ngủ sự tỉnh thức và khả năng phân tích vấn đề của họ. Đó cũng là chuyện thường thấy trong xã hội. Mình không muốn bàn sâu vào lãnh vực này !

Tuy nhiên, theo thiển ý của mình thì một người sợ hãi sẽ khó giúp được người khác không sợ hãi. Một người ham muốn nhiều quá thì khó có thể truyền đạt được ý nghĩa buông bỏ cho người khác. Một người bảo thủ, định kiến cố chấp thì khó có thể thực chứng được đạo lý “vô thường”. Một người đề cao "cái tôi, cái tớ" nhiều quá, thì cũng khó giảng giải được cái "vô ngã" cho kẻ khác. Một người sở hữu quá nhiều sổ đỏ, chức tước, chùa to, xe đẹp thì cũng khó thuyết giảng được cái "không" cái “có” trong kinh điển nhà Phật. Đơn giản là vậy. Nhưng chuyện đời cái gì cũng có thể thay đổi. Đâu có gì là bất biến !

Bỗng nhớ đến một câu chuyện nổi tiếng của thiền sư người Nhật, Suzuki Roshi, một trong những người đặt nền tảng Thiền học ở Mỹ vào những thập niên trước. Ông có người học trò theo học đạo khá lâu, một hôm chịu đựng hết nỗi, giữa thiền đường đông đúc, đứng lên hỏi : "Suzuki Roshi, I've been listening to your lectures for years, but I just don't understand. Could you just please put it in a nutshell? Can you reduce Buddhism to one phrase?" (Tạm dịch: Ngài Suzuki Roshi, tôi theo học đạo của Ngài nhiều năm rồi, nhưng tôi vẫn không hiểu. Ngài có thể nói thẳng vào trọng tâm vấn đề không ? Có thể tóm gọn đạo Phật trong một câu được không ? 

Ai nghe câu hỏi cũng cười. Ngài Roshi cũng cười và trả lời:

"Everything changes" (Tạm dịch: Mọi thứ đều thay đổi)

Quả nhiên là vậy. Mọi thứ đều thay đổi, và không ai có thể ngoại lệ. Dịch bệnh, tuổi tác, tài sản, gia đình, con cái, chức tước ....đều sẽ phải thay đổi, không thể cưỡng cầu. Mỗi con người cho dù tài giỏi hoặc vùng vẫy tới đâu, thì cũng chỉ có thể làm tốt nhất trong khả năng hiểu biết của họ, và cũng chỉ có thể tồn tại trong một giai đoạn nào đó. Mọi chuyện có thể không xấu như mình đang nghĩ, và luôn luôn thay đổi. Chính sự cưỡng cầu làm cho mọi chuyện rối ren hơn. Hiểu thấu được quy luật này, cuộc sống cũng sẽ nhẹ nhàng hơn, hy vọng mỗi ngày bớt sợ hãi hơn .... 

PN



Tuesday, August 03, 2021

Phiếm: Cổ Loa lông ngỗng !


Nhớ ngày xưa còn nhỏ, đọc sách lịch sử có hình, mê lắm. Thưở đó, chưa phân biệt được đâu là chính sử, dã sử, điển tích, thần thoại, hư cấu, truyền thuyết... Cứ thương ghét dựa vào thiện ác. Sách nói sao tin vậy, từ thời dựng nước, chuyện con Rồng cháu Tiên, Sơn tinh Thuỷ tinh, Trọng Thuỷ Mỵ Châu, Thánh Gióng ...cho đến thời giữ nước, dời đô Thăng Long, Kim Quy mượn kiếm, Lý Công Uẩn "sơn hà xã tắc" ...v.v.. Nói chung lịch sử nước ta kéo dài đến mấy ngàn năm, thì có biết bao nhiêu chuyện để kể, để tự hào. Có những câu chuyện chỉ mang tính hư cấu, truyền thuyết, nhưng lại dựa vào một số sử kiện trùng hợp, nên cũng dễ làm cho người ta hiểu lầm về tính hư thực của nó. Lâu nay, thỉnh thoảng cũng gặp một số trường hợp tranh cãi gây ra do ngộ nhận lịch sử. Một trong những câu chuyện gây hiểu lầm nhiều nhất đó là chuyện Trọng Thuỷ - Mỵ Châu.

Thực ra, cho đến ngày nay thì tài liệu lịch sử cũng nhiều, kỹ thuật kiểm tra niên đại và phương pháp đối chiếu dữ kiện cũng chính xác hơn, nên khả năng phân tích vấn đề cũng hợp lý hơn. Theo nhiều tài liệu đối chiếu và nghiên cứu của các nhà sử học thì hoàn toàn không có câu chuyện Trọng Thuỷ Mỵ Châu, và tất nhiên ông Triệu Đà là người chịu nhiều oan ức trong lịch sử. 

Thứ nhất, chẳng có ông Triệu Đà nào đánh Lạc Việt cả, mà vào thời điểm đó phải là nước Tần (TQ) đánh Lạc Việt mới đúng. Ông Triệu Đà là người Việt chính gốc, sinh ra ở đất Thái Bình chứ không hề ở Hà Bắc, Trung Quốc. Triệu Đà (Triệu Vũ Đế) cũng lấy vợ (hoàng hậu Trình Thị) và sinh con ở Đồng Xâm, Thái Bình. Đền thờ của ông ngày nay vẫn còn ở đó. Cho nên ông không thể nào là người Tàu dẫn quân Tần đánh Lạc Việt được.
Thứ hai, nhiều sử gia VN dựa vào sách sử của TQ (Tư Mã Thiên) quá nhiều, và tin tưởng tuyệt đối vào điều đó thì cũng có khi nhầm lẫn. Có nhiều sách ghi lại, tính theo niên kỷ thì ông Triệu Đà sống tới 121 tuổi. Đại loại như ngày xưa nhiều sách sử ghi là 18 ông vua Hùng chứ không phải 18 đời vua Hùng, thành ra ông nào cũng sống cũng thọ vài trăm năm. Bởi vậy, đọc lịch sử mà không cầu thị, thu thập và phân tích dữ kiện tài liệu một cách logic, thì chuyện cãi nhau dài dài cũng không có gì là lạ. Đặc biệt ông nào càng cho mình là cái rốn của vũ trụ, thì cãi càng dữ hơn :-). Cuối cùng, chuyện nõ thần là yếu tố thần thoại hư cấu thôi. Chứ nếu chuyện nõ thần có thực, mình nghĩ chắc các vị Thần linh đã cho VN một cái đem ra biển Đông bảo vệ ngư dân, và lấy lại Hoàng Sa, Trường Sa (một số đảo) bị TC cưỡng chiếm !

Thế nhưng câu chuyện Nõ thần và Trọng Thuỷ Mỵ Châu lại là một trong những giai thoại lịch sử mà mình yêu thích nhất. Mình nghĩ các vị tiền nhân đất Việt đã rất tâm huyết và trí tuệ khi để lại một di sản quý báu như vậy cho con cháu của họ. Quả nhiên là vậy. Có lẽ tổ tiên ta cũng chỉ mượn hình tượng của Trọng Thuỷ Mỵ Châu để dạy dỗ con cháu rằng kẻ thù thực sự của ta là chính mình. Kẻ thù lớn nhất đang ở đằng sau lưng, ngồi sẵn tự bao giờ, chứ tìm đâu xa :-).

Lâu nay chắc có nhiều người từng nghe qua câu nói "Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình". Nhiều sách vở cũng phân tích và giảng dạy về triết lý sống này, nên chắc cũng không lạ lẫm gì. Friedrich Nietzsche cũng nói "the worst enemy you can meet will always be yourself". (Tạm dịch: Kẻ thù lớn nhất mà anh gặp luôn chính là bản thân anh). Còn trong kinh điển PG thì cũng có quá nhiều câu chuyện và bài giảng về đề tài này, bởi đạo Phật quan niệm cái "Ngã" (cái tôi, cái tớ, cái tao, cái "bố mày", cái bản thân ...) luôn luôn tồn tại và là rào cản lớn nhất của mỗi con người trên con đường tìm đến sự tỉnh thức.

Nhìn lại trong cuộc sống, thì không ai có thể phủ nhận giá trị của câu nói trên được, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tuy nhiên chắc chắn là mỗi người sẽ có những cách hiểu khác nhau tuỳ theo khả năng nhận thức của họ. Một vị thiền sư có thể hiểu về câu nói đó khác hơn một nhà chính trị. Một nhà lãnh đạo có thể hiểu khác hơn một người nông dân. Một ông bác sĩ có thể hiểu khác với một kẻ giết người. Một nhà từ thiện có thể hiểu khác với một kẻ gian thương ... Nhưng chung cuộc thì có lẽ ai cũng dễ dàng nhận ra sự thất bại thường bắt đầu từ chính bản thân (ngoại trừ mấy ngài chuyên đổ thừa).

Nói cụ thể hơn, từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, từ chuyện thành bại cá nhân đến quốc gia đại sự, kẻ thù sau lưng (nội hàm bản thân) bao giờ cũng đóng một vai trò quan trọng. Một cá nhân mà kiêu ngạo ảo tưởng, tham lam quyền lực tất sẽ gây ra bao hệ lụy cho người chung quanh. Một gia đình mà anh em mâu thuẫn, tranh giành xào xáo, tất sẽ dẫn đến tán gia bại sản. Một hội đoàn mà cứ hơn thua, đâm thọc, tất sẽ èo uột rã đám. Một cộng đồng mà cứ ganh ghét đố kị, chia rẽ đấu đá, hám danh, vu khống chụp mũ, làm sao mạnh mẽ và được tôn trọng ? Một đất nước mà cứ hận thù chia cắt, giết chóc lừa đảo, phe nhóm lợi ích, tham nhũng kiêu binh, bảo thủ lạm quyền, thì làm sao hạnh phúc và phồn thịnh ? Lịch sử thế giới lâu nay những nước giàu có nhất, hạnh phúc nhất, đáng sống nhất đều là những nước không có nội chiến triền miên, dân chúng họ không thù hận nhau, không dối gạt nhau, không nghi kỵ nhau .... Tất nhiên với thời đại internet ngày nay, thì không khó khăn lắm cho bất kỳ ai muốn kiểm chứng sự thật và hiểu đúng những vấn đề này. 

Nhớ hồi nhỏ đọc truyện Trọng Thuỷ Mỵ Châu, rất thương cho 2 cha con An Dương Vương. Thương cả Trọng Thuỷ yếu đuối, vì phải nghe lời cha mà bán đứng cả bản thân và người yêu. Chỉ có ghét Triệu Đà, vì là kẻ gian ác, tài hèn sức mọn, lợi dụng ngay cả người thân yêu con ruột của ông. Đúng là hồi nhỏ quan niệm ghét thương, thiện ác chỉ đơn giản đến thế. Bây giờ thì lại thấy thương Triệu Đà, vì chính ổng phải chịu oan khuất nhiều nhất, để cho đời sau có một điển tích giá trị "nõ thần" như thế này. Mà sự oan ức của ông, sự hy sinh của các bậc tiền nhân, hoặc những bài học lịch sử của dân tộc chắc gì đã được đời sau ghi nhớ và thực hành. Đôi khi vì một ít quyền lợi cá nhân, nhiều người sẵn sàng đem cái "nõ thần" vô tiệm cầm đồ ngay, chứ cần gì đến một Trọng Thuỷ lường gạt Mỵ Châu !

Nhớ năm ngoái bầu cử Mỹ, mấy ông bạn quen nói chính sự chia rẽ ở quốc hội và mâu thuẫn các đảng phái của Hoa kỳ làm cho đất nước ngày càng suy yếu, kẻ thù dễ lấn lướt. Mình thì nghĩ ở đâu lại chả thế, chỉ là lúc nọ lúc kia, lúc thịnh lúc suy. Hoa Kỳ là nước dân chủ minh bạch, người dân còn thấy đảng phái quốc hội tranh chấp, chứ nhiều quốc gia khác họ cứ im lìm mà đấu đá, thì còn khủng khiếp hơn nhiều. Lãnh đạo tài ba, nhìn xa, trung thực thì đất nước phát triển, dân chúng được nhờ. Còn lãnh đạo yếu kém, tham quyền, dối gạt, thì đất nước suy đồi. Vậy thôi, kẻ thù đâu xa !

Mới hôm vừa rồi, ngồi coi tin tức dịch bệnh ở quê nhà. Vừa lo lắng, vừa thương cảm, lại vừa cảm thấy bất lực. Từ chuyện "cách ly tập trung", chuyện phân bổ thuốc ngừa, chuyện xét nghiệm, chuyện ngăn đường cấm chợ ...cho đến hình ảnh từng đoàn người lũ lượt về quê mệt mỏi, thiểu não. Những đứa bé còn bồng bế trên tay, những cụ già mếu máo, với hành trình trăm dặm trở về cố hương. Để rồi gặm nhấm nỗi buồn sợ hãi và bế tắc "tiến thoái lưỡng nan" ngay chính trên quê hương mình. Thực ra VN đã có quá nhiều thời gian để chuẩn bị mua sắm các phương tiện dụng cụ y tế, và đặt mua các loại thuốc ngừa, mua thuốc đặc trị antiviral, monoclonal antibodies…v.v. Ngoài ra nước nhà cũng quá dư đủ thời gian để học hỏi kinh nghiệm cách chống dịch từ các nước khác. Thế nhưng vì quá bận rộn với những tung hô vô cớ và sự ngạo nghễ thiếu hiểu biết, nên đã không có được những chuẩn bị cần thiết khi dịch bệnh bùng phát. Còn hậu quả ra sao thì hôm nay ai cũng thấy rồi !

Nhớ lại ngày xưa thời còn mê chuyện Tàu. Có những mẫu chuyện nhỏ còn đọng mãi cho đến ngày hôm nay. Một Lưu Bị bỏ qua sống chết, cùng dân đi bộ rút về Giang Lăng, nhất định không bỏ dân chúng, vì cho rằng muốn làm việc lớn phải lấy dân làm gốc. Một Khổng Minh tài trí hơn người, lại dùng cách quan sát đối phương thua trận để biết tài năng và trí tuệ của đối phương. Nhìn cách quân địch thua trận mà không "vỡ trận", thất bại mà không bát nháo, rút lui mà không sợ hãi, thì có thể đoán biết tướng địch là kẻ đại trí hay kẻ tiểu nhân. Nhưng đó là những chuyện ngày xưa lắm rồi, so với thế giới ngày nay chắc đã lạc hậu !

Gần đây hơn, thời mình còn là sinh viên, mê lắm những tác phẩm của Eric M. Remarque và Mikhail Sholokhov. Những cuốn sách cũ nát còn sót lại, lén lút chuyền tay nhau, đọc để biết những nỗi bất hạnh của đất nước và con người vào những thời kỳ biến động khó khăn, dịch bệnh. Những "Chiến Hữu", "Bia mộ đen và bầy diều hâu gãy cánh", "Sông Đông êm đềm", "Đất vỡ hoang", "Số phận một con người"  ..v.v.. nghiệt ngã và thực tế. Nghĩ đến vẫn còn như mới hôm qua !

Lan man quá rồi, từ đông sang tây. Nhưng cuộc sống vốn có những lúc cảm xúc như thế. Túm lại, mình nghĩ mọi chuyện rồi cũng sẽ qua đi, dịch bệnh cũng thế. Mọi việc rồi sẽ được thay thế bằng một điều gì đó mới hơn, tốt hơn hoặc xấu hơn, hoặc là một sự bình thường mới (new normal). Từ biến cố của bản thân hoặc gia đình, cho đến biến động của xã hội đất nước, đều có lúc phải trãi qua những giai đoạn rất khó khăn. Mỗi tình huống sẽ có những ứng xử khác nhau, nhưng cái triết lý "kẻ thù lớn nhất là chính mình" thì bao giờ cũng đúng. Những "rào cản tư duy" sẽ càng được thể hiện rõ nhất trong những lúc nguy biến, mà không ai có thể che dấu được. Mấy hôm trước đọc tin tức quê nhà, nghe câu "Diệt dịch cũng như diệt giặc". Tự nhiên, mình liên tuởng đến câu chuyện nỏ thần diệt giặc năm xưa. Ước gì ông thần ngày xưa lại cho VN quê ta một chiếc nõ thần chống dịch. 

Nghĩ đến mấy câu thơ của Tố Hữu:

Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu...

Chuyện cô du kích xóm Lai Vu
Rắn quấn bên chân vẫn bắn thù:
“Mỹ hại trăm nhà, lo diệt trước
Rắn, mình em chịu, có sao đâu ”

Giặc thời nay chắc khác giặc ngày xưa. Và cũng không hiểu chuyện Mỵ Châu Trọng Thủy lại có liên quan gì đến cô du kích không sợ rắn xóm Lai Vu. Tiếc là ông TH đã mất. Nếu không, mình sẽ xin ông đổi lại là "Dịch hại trăm nhà, lo diệt trước. Thiệt, mình em chịu, có sao đâu". Nhưng đó lại là một câu chuyện không có thực, chưa bao giờ xảy ra !

Thôi lan man chút, chúc mọi người bình an may mắn. Cầu mong dịch bệnh sớm kiểm soát được, và tất cả bà con đồng bào có được miếng ăn, chỗ ngủ an toàn.

PN




Saturday, July 24, 2021

Tản mạn về dịch thuật kinh sách

 


Nói đến chuyện dịch thuật, mình nghĩ một trong những lãnh vực khó nhất là dịch kinh sách. Tôn giáo nào cũng thế, cho nên ngày xưa nhiều nhà truyền giáo phải ráng học cho rành rẽ tiếng địa phương. Thậm chí nhiều vị còn góp phần tạo ra hoặc hoàn chỉnh một số ngôn ngữ để dễ dàng diễn giải hơn. Trong tiếng Anh có cụm từ "Lost in Translation" mang tính hài hước để nói đến sự sai lệch ý nghĩa trong dịch thuật, dịch gà ra cuốc. Nhưng đó chỉ là nói đến chuyện thông dịch, thông ngôn hàng ngày. Dịch kinh sách còn khó hơn nhiều, vì để dịch được sát nghĩa, người dịch phải hiểu đúng ý nghĩa bao hàm của từ ngừ đó. Nếu không rất dễ gây ra ngộ nhận, và dẫn đến nhiều hệ lụy phiền phức. Đó là còn chưa nói đến nhiều người vô tình hoặc cố ý lợi dụng sự lệch lạc trong dịch thuật, dẫn dắt bản thân họ và người khác vào con đường mê tín, dị đoan.

Ví dụ như câu kinh 6 âm trong PG (The Six syllables) "Om Mani Padme Hum", rất ngắn gọn và sâu sắc, tán dương khả năng tự tỉnh thức và tự giác ngộ của tất cả chúng sinh như đóa sen vượt lên từ chốn bùn dơ. Câu kinh còn mang hàm ý sâu sắc hơn là không nên tìm kiếm "ông Phật" ở bên ngoài, mà là từ “Phật tánh” sẵn có bên trong. (Mỗi chữ Om, Mani, Padme, Hum đều mang hàm ý sâu sắc khác nhau. Có rất nhiều tài liệu về câu kinh này từ nhiều ngôn ngữ khác nhau kể cả tiếng Việt trên mạng, nếu ai muốn tìm hiểu).

Thế nhưng phiên âm (chứ không phải phiên dịch) tới lui một hồi, sao lại thành ra câu tiếng Việt "Án ma ni bát rị hồng". Rồi một số ông thầy bùa, thầy chú, thầy cúng, thầy làng, bắt ma bắt hồn, oan gia trái chủ ...lại đem ra xử dụng với đầy màu sắc mê tín !

Giờ trở lại câu chuyện chữ "Bát Nhã" trong kinh sách nhà Phật. Lâu nay ai ở VN cũng ít nhiều nghe qua chữ này, đặc biệt là những người có đọc qua kinh sách PG hoặc có đi chùa chiền. Thỉnh thoảng mình còn thấy mấy ông làm thơ, viết truyện, và cả mấy ông "nhậu sĩ", đem "Bát Nhã" lên thớt của họ hoặc cho vào quán nhậu để mổ xẻ nữa, nên chắc chữ này thì cũng không lạ lẫm gì với nhiều người VN.

Thực ra chữ Bát Nhã có nguồn gốc từ tiếng Phạn, đó là chữ Prajna, được kết hợp bởi 2 chữ Pra- và -jna. Để giải thích chi tiết của 2 từ này thì hơi dài và trừu tượng. Các bạn có thể tìm hiểu thêm trên mạng nhé. Theo Wiki thì "Prajna" được nói đến như thế này (is used to refer to the highest and purest form of wisdom, intelligence and understanding. Prajna is the state of wisdom which is higher than the knowledge obtained by reasoning and inference). Nôm na là một trạng thái trí tuệ cao nhất bao gồm nhiều góc cạnh khác nhau, vượt qua các ngưỡng cửa của sự thông minh, hiểu biết, và kiến thức thông thường. Ví dụ như trí tuệ của một ông giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sư, na sa na séo, ha va ha viếc, chủ tịch, giám đốc, nhà phát minh ra đèn đom đóm, keo dính chuột..v.v.. đều là nhừng kiến thức chuyên môn, trí óc thông minh, kiến thức rộng rãi, nhưng đó không phải là trí tuệ "bát nhã". Bởi thế để dịch được chữ "Prajna" ra một ngôn ngữ khác cho đúng nghĩa thì quả là vô vàn khó khăn, mà có khi chẳng bao giờ diễn đạt cho trọn vẹn, thế nào cũng thiếu đầu thiếu đuôi. Thực tế là trong cuộc sống có những từ ngữ chỉ hiểu, “ngộ”, nhưng rất khó diễn đạt. Đặc biệt là trong các lãnh vực triết học, tôn giáo,  hoặc tâm linh. Cho nên các Ngài ngày xưa đã để nguyên chữ "Prajna" không dịch. Khi những tạng kinh này đến Trung quốc, cũng chỉ phiên âm ra tiếng địa phương na ná như “Pra-jna”, rồi qua đến Việt Nam thì trở thành “bát nhã" như ngày hôm nay.

Rồi cũng chính vì ý nghĩa bao la của chữ "bát nhã", mà lôi cuốn không biết bao nhiêu vị tu sĩ, triết gia, trí thức, nhân sĩ  ...vào cuộc, tìm tòi, mổ xẻ, phân tích ra nhiều tầng, nhiều lớp khác nhau. Cuối cùng có nhiều người bị lạc vô cái mê hồn trận chữ nghĩa đó, thành ra vô tình đi ngược lại với cái mục đích giải thoát mà họ đã tìm kiếm ban đầu. Tất nhiên cũng không hiếm những người hiểu biết và nhận ra được giá trị cốt lõi của cuộc sống và sự giác ngộ, nên lựa chọn con đường đi riêng cho họ. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người tuy nhận thức được vấn đề, nhưng lại bị những hệ lụy chằng chịt trong cuộc sống, những rào cản trói buộc của đời thường, nghiệp cơm áo gạo tiền quá nặng, hoặc tham vọng thành tựu quá lớn, mà không thoát ra nỗi. Rồi cuộc sống ngắn ngủi chóng qua đi, tháng ngày cứ quanh quẩn với những trách nhiệm và “thành tựu”, đầy rẫy những vướng mắc. Vướng vào hình thức thay vì nội dung, vướng vào lý thuyết suông thay vì thực hành, vướng vào ảo tưởng thay vì thực chứng, ráng kiếm thêm cho nặng chứ không phải bỏ đi cho nhẹ, ráng hiểu biết để hơn thua chứ không phải để nhẫn nhịn …v.v. Ham muốn (desires) và gắn bó (attachments) ngày càng nhiều, đời này chưa hết đã muốn lôi kéo đời khác. Cho nên cuối cùng là thuyền "bát nhã" của họ cứ quay vòng vòng trong bờ, hết xăng bao nhiêu lần rồi, mà vẫn còn chưa định hướng đi đuợc, chứ đừng nói tới chuyện bến bờ bên kia. Tất nhiên trong đám phàm phu đó có bản thân mình :-).

Và dĩ nhiên là mình không muốn bàn luận xa hơn về ý nghĩa và nội dung của chữ "Bát Nhã" trong phạm vi ngắn ngủi của bài viết này, mà chỉ muốn nói đến vấn đề dịch thuật kinh sách. Vì nếu không cẩn thận, đôi lúc sẽ làm mất đi cái ý nghĩa thâm diệu của chữ nghĩa, mà thậm chí còn dẫn đến những hiểm lầm đáng tiếc !

Ví dụ như bản kinh "Bát Nhã Ba La Mật Tâm kinh" ở VN. Theo mình, khi dịch cái tựa của kinh "Prajna-paramita Hrdaya Sutra" (The Heart Sutra of Perfect Wisdom) ra thành "Bát Nhã Ba La Mật Tâm kinh", mà không giải thích rõ ràng, là đã vô tình làm mất đi một số ý nghĩa vô cùng quan trọng của bản kinh ! 

(Còn tại sao như thế ? Trước hết xin nói rõ, đây chỉ là ý nghĩ cá nhân của mình. Tất nhiên đây là một vấn đề rất quan trọng, mà đã có biết bao nhiêu vị cao tăng tu sĩ VN, đức độ trí huệ cao cả, từng nghiên cứu dịch thuật trong bao nhiêu năm qua, nên mình không hề có ý dám xúc phạm hoặc phê phán.)

Trước hết nói sơ qua về ý nghĩa của kinh Bát Nhã Ba La Mật Tâm kinh. Là một trong những kinh căn bản và phổ thông nhất trong đạo Phật, thường dùng để đọc tụng. Nguyên gốc từ tiếng Phạn là "Prajna-paramita Hrdaya Sutra", dịch sang tiếng Anh là "The Heart Sutra of Perfect Wisdom". Gọi cho đơn giản là Tâm kinh. Kinh này ngắn, có khoảng chừng 260 chữ (bản ngắn tiếng TQ), hiện nay được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Có nhiều giả thiết khác nhau về nguồn gốc và thời điểm ra đời của Tâm Kinh, không đồng nhất. Và toàn bộ bản gốc của bộ kinh lớn Đại Bát Nhã (Maha Prajna Paramita) cũng đã bị quân Hồi giáo tiêu hủy khi họ đánh chiếm Đại học PG Nalanda Ấn độ vào thế kỷ 12.

Kinh Bát Nhã Ba La Mật Tâm kinh đọc tắt là Tâm kinh (The Heart Sutra), là tóm lược của bộ kinh Đại Bát Nhã Ba la Mật (Great Perfecton of Wisdom Sutra, tiếng Phạn gọi là Maha-prajna-paramita-sutra), gồm có 600 quyển. Tâm Kinh có nhiều bản dịch từ tiếng Phạn ra tiếng TQ. Trong đó bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập (402-412) và Ngài Huyền Trang (Tam Tạng) vào thế kỷ thứ 7 sau CN, là thông dụng nhất, được truyền qua VN và lưu hành cho đến ngày nay. Còn phiên bản tiếng Anh thì đến thế kỷ 19,  mới được Samuel Beal dịch ra. Ngày nay có rất nhiều sách vở tài liệu nói về Tâm Kinh của nhiều tác giả, nhiều tu sĩ khắp nơi trên thế giới . Tất nhiên là cũng không hiếm những tranh luận đối đáp gay gắt, bất đồng quan điểm, như bao vấn đề khác của tôn giáo và xã hội lâu nay. Có người đọc kinh sách để gom hết về một mối, rồi buông bỏ hết coi như không đọc chữ nào. Thì bên cạnh đó cũng có những người càng đọc, càng ôm, càng rối, càng lụy, sợi tóc chẻ làm năm làm bảy. Đọc để tranh luận hơn thua, đọc để trói chứ không phải để mở, đọc để chứng tỏ chứ không phải để thực hành, nên càng đọc càng nặng nề. Âu cũng là chuyện bình thường thôi. Như trong Tâm kinh có một câu rất nổi tiếng "Form is emptiness (śūnyatā), emptiness is form", mà nhiều nhà nghiên cứu, học giả phương Tây cũng thường nhắc đến. (Tạm dịch là: Sắc tức là không, không tức là sắc). Ai cũng nói được nhưng mấy ai thực chứng được điều này ?

Mở ngoặc chút, ngài Huyền Trang (Xuanzang), tức là ngài Đường Tăng Tam Tạng trong truyện hư cấu Tề thiên đại thánh của Ngô thừa Ân, đã tốn 3 năm đi bộ từ TQ qua Ấn độ để tìm học kinh Phật và thỉnh kinh đem về cho TQ. Rất nhiều người cũng đã từng đi như thế và bị chết trên đường vào thời kỳ đó. Tất nhiên là thực tế thì chẳng có Tề thiên, Trư bát giới .. nào đi theo cả, mà Ngài chỉ đi một mình. Sau khi đến nơi, ngài lưu lại Ấn độ 17 năm để học tiếng Phạn tiếng Ấn, rồi được vua Ấn độ mời làm "quốc sư" hiệu trưởng trường đại học Nalanda. Nhưng sau đó ngài xin hồi hương đem kinh sách về cho TQ. Về đến TQ, vua Đường cho lập khu dịch thuật rất lớn, tuyển dụng nhiều người phụ giúp Ngài. Với lực lượng hùng hậu như thế, mà phải tốn gần 5 năm sau, Ngài Huyền Trang mới dịch xong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Thế mà kinh Bát Nhã Ba la mật Tâm kinh, nói gọn là (Heart Sutra) tóm lược được ý nghĩa của bộ Đại Bát Nhã đó, thì cũng tưởng tượng ra ý nghĩa súc tích của Tâm Kinh đến mức độ nào. Tuy nhiên cho dù là thâm thuý và uy lực đến đâu, thì cũng không phải chỉ cần ngồi đó đọc tụng mà giác ngộ được !

Giờ trở lại nói về chuyện phiên âm dịch thuật cái tựa "Prajna paramita Hridaya Sutra" ra tiếng VN, vô tình làm mất đi một số ý nghĩa quan trọng. Khi phiên âm chữ Prajna thành ra "Bát Nhã", paramita phiên âm thành ra "Ba la mật” hoặc “ba la mật đa", Hrdaya (dịch ra thành"Tâm"), Sutra (dịch ra thành “Kinh"). Thì người VN đọc câu "Bát Nhã Ba la Mật tâm kinh" không có ý nghĩa gì đặc biệt, mà chỉ đơn giản là một cái tựa đề của 1 bài kinh, như bao nhiêu kinh sách khác, kinh Pháp Hoa, kinh Pháp Cú, kinh Hoa Nghiêm ...v.v..Thậm chí một số ít người nghe đến chữ ba-la-mật còn tưởng có liên quan gì đến mật tông mật pháp hoặc phương pháp bí mật nào đó. Điều này quả nhiên là không chính xác, và làm mất đi những ý nghĩa rất quan trọng của câu chữ "Prajna paramita Hridaya Sutra". Cũng tương tự như trường hợp đọc "Om mani padme hum" thành ra "Án ma ni bát rị hồng", không hiểu được hàm ý sâu sắc bên trong, mà chỉ mơ hồ hiểu được cái ý nghĩa “tâm linh” của nó !

1. Prajna (bát nhã) được ghép từ 2 chữ : Pra-jna ; Pra là Tối thượng và duy nhất, Jna là hiểu biết, là trí tuệ 

2. Paramita (sự hoàn hảo) được ghép lại từ Parama (the other shore, tức là bờ bên kia) , và Ita (that which has arrived tức là đến, sẽ đến, hoặc đã đến ...)

3. Hrdaya (là tâm, là chính yếu, trọng tâm, điểm chính), chứ không phải nghĩa đen của trái tim, nhịp đập trong cơ thể.

Có những vị cao tăng, thiện tri thức ngày xưa chỉ giảng giải câu "Prajna paramita Hrdaya Sutra" mà tốn tới hàng tháng, hàng năm mới nói hết ý nghĩa của nó. Trong khi đó chúng ta chỉ đọc lướt qua câu "Bát nhã ba-la-mật tâm kinh" như một cái tựa đề thì uổng phí quá.

Chỉ cần qua cái tựa đề, Tâm Kinh đã giải thích cho người ta thấy được cái ý nghĩa quan trọng tối thượng của trí huệ Bát Nhã trong việc tìm đến sự tỉnh thức & giác ngộ. Đó là phải tự mình học hiểu và thực chứng mới đi đến được bờ bên kia. Không nên chờ đợi ở bất cứ ai và cũng không ai có thể ban bố sự giác ngộ được cho mình. Những đạo lý vô thường, vô ngã, có, không, được, mất ....trong bản kinh là những diễn giải, chỉ ra cho con người hiểu thấu và thực hành để thực chứng, để đạt được trí huệ Bát Nhã, chứ không chỉ để đọc và cầu nguyện. Các vị Bồ Tát xưa nay cũng đã phải đi theo con đường đó mà tìm đến giác ngộ, chứ không hề có ngoại lệ hoặc phải nhờ đến thân thế, quen biết, hay lý lịch tốt :-).
Thực tế, thì cũng có rất nhiều người loay hoay nhầm nhẫn giữa các phương pháp tu tập, cũng như các loại trí tuệ và kiến thức thông thường trong cuộc sống với cái trí tuệ "bát nhã" được nhắc đến trong kinh sách. Nên xã hội vẫn thường xảy ra ngộ nhận về những giá trị có liên quan đến địa vị, bằng cấp, chức tước, giàu nghèo, sang hèn, hình thức (tu sĩ, trí thức..) ..v.v.. trong đời sống tâm linh, và trên con đường tìm kiếm những giải đáp cho bản thân của họ. Ví dụ: Một nhà khoa học sáng chế ra bom nguyên tử, ra vũ khí sinh học ...có thể rất thông minh, kiến thức chuyên môn tuyệt đỉnh, tuy nhiên đó không phải là loại trí tuệ Bát Nhã, mà có thể là một dạng u mê. Một nhà độc tài đi tới đâu người ta cũng vỗ tay, chào đón khóc lóc như điên dại, cũng có thể là một dang thông minh biết cách mị dân, trấn áp xã hội. Nhưng chắc chắn đó không phải là trí tuệ Bát Nhã mà trong Tâm kinh nói đến…(Cho nên cũng không nên mù quáng tin vào lý thuyết hoặc danh xưng của bất kỳ ai, cho dù họ có quyền lực, chức tước, hình thức, ông này bà nọ, hoặc chùa to chùa lớn, mà phải tự thực chứng đạo lý đó với chính bản thân. Đạo Phật không chủ trương “blind faith”, tức là tin một cách mù quáng, tin mà không hiểu. Đức Phật thời còn tại thế cũng đã dạy dỗ như vậy).

Bởi thế, mới có một Huệ Năng nhà nghèo, không biết chữ, chỉ cần một câu "Ưng vô sở trụ, sinh nhi kỳ tâm" mà trở nên tỉnh thức. Trong khi đó, một Thần Tú, tu sĩ, con nhà giòng dõi, kiến thức uyên bác, học sâu hiểu rộng, tên tuổi vang lừng, nhưng vẫn chưa đạt đến cái trí tuệ “bát nhã” của sự giác ngộ. Cho nên bài thơ rất hay của Ngài Thần Tú vẫn chưa "thấy” ra được cái "có" và cái "không" trong việc tu học. (Tất nhiên là còn nhiều yếu tố duyên nghiệp trong đây nữa. Câu chuyện này cũng nói đến khái niệm tiện ngộ và đốn ngộ trong PG).

Thân thị bồ đề thọ             
Tâm như minh cảnh đài     
Thời thời cần phất thức     
Vật sử nhạ trần ai.             

Tạm dịch:

Thân là cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để bụi trần bám.

Thôi, cuối tuần, tản mạn một chút về cái tựa đề của một bài kinh quen thuộc. Chỉ là ý kiến cá nhân, không có ý dám múa rìu qua mắt thợ. Tất nhiên thời này thông tin tin tức không thiếu, quý vị nào muốn kiểm chứng hoặc nghiên cứu sâu hơn đều có thể tìm đọc dễ dàng. Mình thì luôn quan niệm rằng, ai cũng có thể sai lầm, cho dù là người tài giỏi hoặc là tiền nhân đi trước. Mạnh dạn trao đổi trong khiêm tốn cũng là một đức hạnh của "kiến hoà đồng giải" vậy. Còn nếu cứ khư khư quan niệm "áo mặc không qua khỏi đầu", cái biết của mình là luôn luôn đúng, chủ nghĩa của mình là luôn luôn vô địch, thì có thể là đang đi ngược lại với đạo lý vô thường của vũ trụ. Và cũng coi chừng là đang đi ngược lại với cái đạo lý vô ngã, cái tánh không “emptiness" thâm diệu mà Bát Nhã Ba la Mật đa Tâm kinh (Prajna paramita Hrdaya Sutra) đang nói đến.

Chúc tất cả bình an mùa dịch bệnh !

PN 

p.s: Nếu quý vị nào nghe được tiếng Anh, mình trích dẫn đường link dưới đây của tu sĩ Guan Cheng bên Canada giảng về "Tâm Kinh". Vị này giảng tương đối đơn giản, dễ hiểu, dễ theo dõi đối với những người mới bắt đầu tìm tòi. Thực ra thời nay có rất nhiều chư vị tăng ni, cư sĩ trí thức nói về Tâm Kinh, hoặc thuyết giảng trên mạng. Quý vị nào rảnh rang muốn tìm hiểu, nên tìm kiếm những ai có cách diễn giải phù hợp với mình, thì sẽ dễ dàng theo dõi hơn .



Sunday, July 18, 2021

Vài ý nghĩ vụn … về dịch cúm Vũ hán

 (Chú Đại Bi, do Ani Choying Drolma trình bày)


Năm ngoái nước Mỹ dịch bệnh nặng về, anh em bạn bè bên VN quan tâm thăm hỏi, mình cảm ơn rất nhiều. Nay nghe tin VN, nhất là SG ngã bệnh, không biết làm gì hơn, mạn phép tóm tắt vài điều đã biết, hy vọng là hữu ích (mặc dù rất nhiều người đã biết rồi).

1. Covid có đáng ngại không ?

Có !
Tuy nhiên không phải tới mức ghê gớm như người ta đồn đoán. Thực tế, rất nhiều quốc gia khốn đốn là vì quá tải các cơ sở phương tiện tiếp nhận bệnh nhân như bệnh viện, khu cách ly, cấp cứu (ICU) …và thiếu thốn các công cụ y tế như máy trợ thở, giường bệnh, dịch truyền, oxy ..v.v.. Bên cạnh đó là sự bối rối, vụng về, thiếu kinh nghiệm trong các phương thức dự phòng, cung ứng, và cách ứng xử đối phó với dịch bệnh cỡ lớn như đại dịch lần này. Kể cả những quốc gia lớn như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Ấn ..... đều bị vướng mắc những sai lầm như thế trong giai đoạn đầu, dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng. Ví dụ như dịch bệnh kéo dài gần 2 năm, mà số lượng máy thở dự phòng cho cả nước với dân số gần trăm triệu dân chỉ dừng lại ở mức dưới 5 ngàn cái, thì quá nguy hiểm !

2. Phòng bị như thế nào ?

- Cho tới nay cách phòng bị hữu hiệu nhất vẫn là dựa vào từng cá nhân, và ý thức tự giác giữ gìn chung cho cộng đồng như giãn cách xã hội, cách ly, tuân thủ các quy cách phòng bị cá nhân, khẩu trang, bao tay .v.v. Thường xuyên tẩy rửa, rửa tay rửa mặt, tránh va chạm, tập thể dục thể thao, ăn uống điều độ, tránh hao tâm tổn lực, giữ gìn vệ sinh chung. Đừng ứng xử kiểu "điếc không sợ súng, hoặc anh hùng rơm" rồi đi lung tung, gây nhiễm cho người khác. Đặc biệt là giới trẻ, những người trẻ tuổi, sức khoẻ tốt, hệ miễn dịch tốt, bị nhiễm bệnh nhưng không biết, hoặc có thể lướt qua, hoặc không có triệu chứng, gọi là (asymptomatic). Tuy nhiên những người bị nhiễm bịnh không có dấu hiệu (asymptomatic) vẫn có thể lây lan cho người khác. Nên nếu chủ quan hoặc không hiểu biết để cẩn thận, thì thành phần này có thể trở thành lực lượng phát tán dịch mạnh nhất !

3. Bị nhiễm rồi thì sao ?

Bình tĩnh đối phó thôi. Không phải ai bị nhiễm bịnh covid thì cũng trở bịnh nặng, hoặc chết đi. Tỉ lệ tử vong rất thấp, dĩ nhiên là tuỳ thuộc vào các yếu tố khác của xã hội, trong đó có yếu tố phòng bị và chiến lược đối phó, ứng xử của chính quyền và sự hợp tác của người dân cũng rất là quan trọng. Ở nhiều nơi trên thế giới trong thời gian qua, có rất nhiều trường hợp tử vong không phải trực tiếp bởi covid-19 mà là những người có bệnh nền nặng hoặc các bệnh khác, nhưng đã không được chữa trị đúng mức, kịp thời, vì bị quá tải nguồn lực và nhân lực do dịch bệnh, cộng với tiêu chí ưu tiên dành cho các bịnh nhân covid, nên dẫn đến các biến chứng phức tạp.

- Thực tế thì có rất nhiều người bị nhiễm bịnh vẫn chữa trị tại nhà, ăn uống, nghĩ dưỡng, xài thuốc cảm cúm hạ sốt như tylenol, motrin, patadol, paracetamol.... rồi vài tuần sau đó bình phục hoàn toàn. Chỉ có những trường hợp bị trở bịnh nặng mới được chuyển vào bệnh viện để trợ giúp bằng các biện pháp hổ trợ nặng đô hơn như máy trợ thở, truyền dịch, kháng sinh, huyết tương ...v.v. Số lượng người tự chữa trị tại nhà và khỏi bịnh sau một thời gian ngắn là rất cao so với số lượng người trở bịnh nặng phải nhập viện. Tuy nhiên báo đài thì ít nói đến số liệu này, làm bà con không nắm bắt được thực trạng càng hoang mang, lo lắng.

- Các chuyên gia khuyên rằng nên cố gắng bình tĩnh, và ráng giữ tinh thần mạnh mẽ, đừng lo lắng thái quá trong trường hợp nhiễm bệnh. Ăn uống bình thường, uống nhiều nước, nghỉ ngơi nhiều, xử dụng các loại thuốc hạ sốt, hổ trợ cảm cúm sẵn có. Nếu có điều kiện, nên uống thêm nguồn vitamin trợ giúp. Hỏi thăm bác sĩ tư vấn những loại vitamin nào phù hợp với bản thân và cách ứng phó tại nhà. Đừng nghe theo lời mấy ông lang băm, thầy cúng, thầy đề, mê tín, cúng tế oan gia trái chủ, uống bùa chú bậy bạ .... mà bị mạng mất tật mang ! 

4. Thuốc men như thế nào ?

- Cho đến thời điểm hiện nay, thì thế giới vẫn chưa có thuốc nào trị bịnh cúm hiệu quả hoàn toàn. Đó là mới nói về những bệnh cảm cúm thông thường chứ chưa nói đến covid-19. Nhiều người lâu nay vẫn hiểu lầm nhừng thuốc như tylenol, motrin, aspirin, patadol ..... là "thuốc cảm cúm". Không phải vậy, đó chỉ là thuốc làm giảm nhẹ các triệu chứng của cảm cúm như nóng, sốt, ho hen, nhức mỏi thôi. Đây là một hiểu lầm rất thường gặp, nên nhiều người cứ nghĩ là thuốc "cảm cúm" có thể “giết” được con vi rút cúm. Ở Mỹ và nhiều nước khác, hàng năm thiên hạ vẫn phải đi chích ngừa cúm mùa, vì chưa có thuốc nào "giết" được nó cả. Có một số loại thuốc chuyên trị các bịnh do virus gây ra, gọi là "antiviral" như Tamiflu (oseltamivir phosphate), Relenza (zanamivir), Rapivab (peramivir), Xofluza (baloxavir marboxil) v.v... Các loại thuốc này bên Mỹ muốn mua phải có toa bác sĩ, thế nhưng đối với covid-19 thì những em này không xi nhê lắm. Từ lúc dịch cúm Vũ Hán (covid-19), có một số thuốc “antiviral” nổi bật lên như Remdesivir được dùng để trị bịnh theo cách truyền dịch. Bên cạnh đó cơ quan FDA cũng cho phép xử dụng một số thuốc antiviral khác trong những trường hợp khẩn cấp như loại Sotrovimab (monoclonal antibodies). Dưới đây là tên một số loại thuốc “antiviral” khác đang được các cơ quan chức năng như NIH, CDC, FDA theo dõi và thẩm định để điều trị cho những người bị nhiễm covid nặng. Ví dụ như Ivermectin, Nitazoxanide, Lopinavir, Hydroxychloroquine, Chloroquine, Azithromycin…v.v. Mình sẽ đính kèm đường link phía dưới cho bạn nào rành tiếng Anh theo dõi nhé. Vì các loại thông tin này thường xuyên được cập nhật trên các trang mạng của chính phủ như FDA hoặc NIH.

Bấm vào đây coi hướng dẫn điều trị COVID-19 của cơ quan y tế NIH Hoa Kỳ

(Cho đến nay thì những loại thuốc trên vẫn nằm trong danh sách để xử dụng khẩn cấp điều trị cho các bệnh nhân covid nhập viện. Tất nhiên về khoảng này các bạn trong ngành y dược chắc chắn sẽ biết nhiều hơn. Ở đây mình chỉ tóm tắt cho các bạn tham khảo thôi. Ai muốn biết sâu hơn, tốt nhất nên hỏi thăm bác sĩ của các bạn, thông tin sẽ được cập nhật hơn)

Hiện nay, có nhiều hãng thuốc tại Mỹ được sự ủng hộ của chính phủ, chạy đua nghiên cứu dạng thuốc viên uống, dành cho những ngừời mới bị covid-19, hoặc mức độ bịnh nhẹ đến bịnh vừa. Có vài loại dự kiến sẽ được ra đời vào cuối năm nay hoặc đầu năm sau. Ứng cử viên nặng ký nhất hiện nay là thuốc Molnupiravir của hãng Merck và Ridgeback Biotherapeutics. Hiện đang ở giai đoạn thử cuối cùng. Nếu thành công thì đó sẽ là loại thuốc uống “antiviral” đầu tiên trị được bịnh cúm Vũ Hán. Và chắc chắn là sau đó sẽ còn nhiều loại thuốc uống trị covid khác ra đời.

Xin lưu ý là thuốc antiviral khác với thuốc antibiotics (trụ sinh) nghen. Thuốc trụ sinh thì không trị được các bịnh gây ra bởi "viral infection" như cúm, ban trái, rubella, measles, rhinovirus, coronavirus (tổ tiên của covid-19), adenovirus ..v.v.  Mặc dù ra tiệm thuốc tây ở VN thì các vị cứ phán, cứ trụ sinh mà chơi tới bến. Kệ, trật gà thì cũng trúng chim. Xin lỗi mấy cô bạn dược sĩ nghen. Chỉ nói đến một số ít "cược sĩ" bán thuốc liều thôi :-) . 

- Còn nói đến thuốc ngừa (vaccin) cho dịch cúm Vũ Hán thì hiện nay trên thế giới cũng có nhiều loại. Công nghệ khác nhau, hiệu quả khác nhau, ảnh hưởng phụ cũng khác nhau. Cho nên cũng cần tìm hiểu trước khi chích, để không bị hoang mang vì các tin đồn thất thiệt. Đương nhiên là lâu nay ai cũng biết chích ngừa vaccin là phương pháp hiệu quả nhất dành cho tất cả các căn bịnh gây ra do "virus". Tuy nhiên tính hiệu quả của mỗi loại thuốc tiêm chủng và các ảnh hưởng phụ do nó gây ra, là những điều cần thiết phải biết vì không phải loại thuốc nào cũng giống nhau. Một số loại thuốc ngừa có hiệu quả rất thấp hoặc có những ảnh hưởng phụ phức tạp, nhưng do nhu cầu cấp thiết, nên vẫn được đem ra xử dụng. Trong khi đó có một số người đã được chích ngừa, chủ quan không bị mắc bệnh hoặc ỷ y tiếp xúc với nhiều người khác, nên có thể vô tình trở thành nguồn dịch lây lan.

Thứ tự hiệu quả của các loại thuốc ngừa hiện nay trên thế giới là Pfizer, Moderna, J&J, AstraZeneca, Sputnik, Sinovac ...v.v.. Tuy nhiên đây chỉ là đánh giá dựa trên số liệu thu thập được của một số cơ quan chuyên môn. Số liệu có tính tương đối của nó. Còn đối với thuốc ngừa của Nga (Sputnik) và Trung quốc (Sinovac) thì cũng như những vấn đề thường lệ khác của họ lâu nay, có thể sẽ không bao giờ có một số liệu minh bạch và chính xác được. Cho nên tuỳ vào cảm tính và vận may của đất nước vậy !

==> Có hai loại thuốc vaccin nữa sắp ra mắt, cần lưu ý:

* Novavax của Mỹ (mã số cổ phiếu là NVAX), rất tiềm năng, đang ở những bước cuối cùng để xuất xưởng trong quý tới.

* Thuốc thứ hai đặc biệt có tên gần giống Novavax của Mỹ, đó là Nano Covax của Vietnam. Hôm trước có đăng báo là sắp ra đời, tính hiệu quả trên 99%, và chi phí chỉ tốn $120,000 đồng VN cho một liều, tương đương với usd $5.2. Nghĩa là khi ra mắt sẽ trở thành loại thuốc chống covid hiệu quả nhất thế giới và rẻ nhất ! (Xin lỗi, thông tin này là mình đọc trên báo Vietnam News chính thống nghen. Hy vọng không phải nói cho vui kiểu kéo đám mây điện tử về VN)

- Cũng xin nhắc lại, chích ngừa xong không có nghĩa là sẽ không bị dịch và không lây lan cho người khác. Cho nên những người đã được chích ngừa vẫn cần phải giữ gìn, quan tâm dùm cho người chưa được chích ngừa. Nhiều người chích ngừa xong, vẫn có khả năng bị nhiễm bịnh, nhưng có thể không có triệu chứng rõ rệt, nên thường chủ quan, vô tình lây lan cho người khác. Nên biết thêm là những người đã chích ngừa thì vẫn có khả năng mắc bệnh nhưng thấp hơn, và nếu có mắc bịnh thì khả năng bịnh nặng, hoặc nguy hiểm đến tính mạng cũng thấp hơn. Còn các bác theo thuyết âm mưu hoặc theo quan điểm không chích ngừa covid, thì mình cũng rất tôn trọng, và không dám nói đến ở đây.

Tuy nhiên để đạt đến mức độ "miễn dịch cộng đồng" (Herd immunity) thì cần phải đạt đến một số lượng tiêm chủng nhất định. Nhiều người cho rằng cần khoảng 70% tổng dân số cộng đồng có tiêm chủng mới tạo ra được tình trạng miễn dịch công đồng. Nhưng đó cũng chỉ là lý thuyết thôi, không phải là tuyệt đối, đặc biệt trong các biến chủng sinh học phức tạp. Bên cạnh đó, ý thức con người, trình độ dân trí, cũng như điều kiện kinh tế xã hội của từng quốc gia, cũng là những biến số rất quan trọng trong việc dập tắt dịch bệnh. Cho nên không ai bảo đảm được điều gì. Hy vọng các loại thuốc ngừa kết hợp cùng với các loại thuốc uống đang nghiên cứu hiện nay, sẽ dẫn đến những kết quả khả quan hơn. Và cũng hy vọng qua kinh nghiệm lần đại dịch này, giúp cho giới khoa học đi gần hơn với những phương cách đối phó dịch bệnh phù hợp và hữu hiệu hơn trong tương lai. 

5. Truyền thông mùa dịch ?

- Đây là một vấn đề rất quan trọng trong mùa dịch bệnh, vì ai cũng hoang mang, lo lắng vì bối cảnh mới mẻ và tin tức loạn xạ. Đám tin vịt thừa cơ thả vịt câu view, rồi nhiều người đọc tin không kiểm chứng, không phân tích, cứ thế gởi ra, truyền tải, càng làm rối loạn xã hội, gây hoang mang cho bà con anh em bạn bè. Dạo trước bên Trung đông có kẻ còn sợ quá, uống cả thuốc rầy vào để diệt covid. Phải cảnh giác chứ nghe tin vịt, rồi uống cả lá ngón, thuốc sâu, ngọc linh, ngầu pín… trị bệnh thì không tốt chút nào !

- Thông thường ở các nước phát triển đều lập ra một ban chỉ đạo toàn quốc (tập trung và duy nhất, cập nhật tin tức hàng ngày). Mọi thông tin chính thống đều do ban này thông báo. Ban bệ đó sẽ bao gồm các vị lãnh đạo đứng đầu quốc gia và những vị đại diện các ngành chính liên quan mật thiết đến tình hình đất nước như là tài chánh, y tế, an ninh, lương thực, phòng bị, cứu hộ ...v.v... Bên Mỹ bên Châu Âu, thời kỳ cao điểm, tổng thống thủ tướng ngày nào cũng lên TV họp báo cùng với ban chỉ đạo chống dịch, cập nhật tin tức trong ngày và trực tiếp thông báo các kế hoạch cụ thể, để cho người dân không bị bối rối hoặc hiểu lầm.

Còn nếu không tuân theo nguyên tắc tập trung và duy nhất, mạnh ai nấy phán, hoặc chuyện gì cũng đợi ý kiến từ một vài người không chuyên môn, e rằng trống đánh xuôi kèn thổi ngược, khó đồng nhất, tạo điều kiện cho bọn xấu tung tin giả. Cũng dễ bị đám gian thương, tham quan lợi dụng cơ hội để trục lợi, hoặc làm phiền phức rối loạn lòng dân, thực giả khó phân. Ở đất nước nào thì vấn nạn này cũng có thể xảy ra !

- Nên lưu ý chính những người thừa hành chống dịch kém hiểu biết, hoặc các kế hoạch phân bổ và cách triển khai thực hiện không đồng bộ là những nguyên nhân góp phần làm nhiễu loạn trật tự xã hội. Cho nên có một phương án truyền thông hợp lý và đồng nhất trong thời kỳ đại dịch là tối quan trọng. 

6. Ăn uống gì, làm sao sống, tiền đâu ?

- Phần này thì hoàn toàn dựa vào chính phủ nước sở tại, mình không biết và cũng không dám ý kiến. Chỉ là rất quan tâm vì hoàn cảnh kinh tế đất nước VN khác với nhiều nước khác. Số lượng lao động hè phố, buôn gánh bán bưng, công nhân, nông dân nghèo ... lượng người dân kiếm sống từng bữa ở VN rất nhiều. Không biết nhà nước VN có phương cách nào giúp đỡ cho họ vượt qua kiếp nạn này không ?

(Mở ngoặc chút, trong đợt dịch bệnh vừa qua, chính phủ Mỹ sẵn sàng hổ trợ cho người dân của họ bằng mọi cách, không phải chỉ vì họ giàu có, mà là họ quan niệm rằng đó là những  kiếp nạn "không phải do người dân gây ra". Người dân đen là nạn nhân đáng thương của cơn dịch bệnh quái ác, mà nguyên nhân còn chưa biết là do con người cố ý hay do tự nhiên gây ra.)

Tóm lại, xin có vài ý kiến vụn dựa vào cái hiểu biết hạn hẹp của mình. Các bạn nào muốn có thông tin cập nhật hơn nên tham khảo với các bác sĩ dược sĩ chuyên môn nhé. Phần còn lại, chính yếu vẫn là do các bạn, tự tìm hiểm & ứng biến dựa vào hoàn cảnh của từng người. Mỗi người mỗi cảnh. Xin cầu chúc tất cả các bạn cùng gia đình nhiều may mắn, thân tâm an lạc. Mong kiếp nạn sớm qua đi và cuộc sống bình an sớm trở lại !

PN

Wednesday, June 30, 2021

Trở về trường cũ



Ngày ấy đã qua

thầy cô người già người mất

bạn bè biền biệt 

đứa ngược đứa xuôi

Long não cứ đến mùa thay lá

hàng phượng vĩ cỗi dần trên lối xưa 

vẫn cánh rụng rơi 

như tuổi thơ của một thời nuối tiếc


Anh trở lại,

dẫu chỉ là đứng đợi

một buổi nào 

của ngày ấy xa xưa

những vô lý của thời trai trẻ

chưa nắm tay đã mộng mị tơ hồng

môi mới khẽ đã chim lồng cá chậu


Anh trở lại,

chỉ bởi lòng tơ tưởng

nhớ một thời hoa bướm qua đi 

những ước mơ đội đá vá trời

những cổ tích của thời cơm gế củ

rưng rưng buồn chuyện kẻ ở người đi

"trèo lên cây bưởi hái hoa,

bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân"

nên u uẩn đời lưu lạc 

có nỗi buồn của người con gái 


Anh trở lại,

rồi một mình đứng lặng

giữa sân trường ngoài đám lá lao xao

tất cả đều xa lạ 

con đường hai buổi ngày xưa 

nay Từ Thức,

chân lạc loài từ những bước loanh quanh

khung cửa hẹp mái đầu xanh ngơ ngác

"Dạ, có nghe Mẹ kể chuyện ngày xưa

ngôi trường cháu cũng một thời như thế ...."


Hạt bụi vô tình 

rơi vào khoé mắt 

nhoè nhoẹt chân chim

lấm sân trường cũ

Anh trở lại, 

hay ngày xưa trở lại ?

thềm cũ ai ngồi 

vạt nắng miên man …


PN


Saturday, June 26, 2021

Thơ của bạn,


Năm đó, lần đầu tiên về quê họp mặt với bạn bè cùng khoá sau mấy chục năm ra trường. Thực ra trường to nhiều lớp, có rất nhiều người ngày xưa mình chưa bao giờ biết, hoặc chưa bao giờ gặp mặt, hoặc chỉ nghe tên. Mà dẫu ngày xưa có biết nhau thì mấy chục năm cũng nhìn không ra. (Mấy ông tập kết xa quê nhà thời gian ngắn hơn mình, mà năm 75 về còn nhận vợ con không ra, huống chi mình :-)). Nhưng về trường cũ rồi thì gặp ai cũng tay bắt mặt mừng, như đã thân nhau từ muôn kiếp nào ....

Có thằng bạn rủ về dưới Thu Xà nhậu đặc sản cá bống kho, mực cơm nướng, cá cồi hấp ... Trời mưa, ngồi bên hiên quán lá dột nước, nghe nó kể chuyện "ôn tập" cả đêm, vừa mày tao, vừa tiếng đệm, tiếng lóng, tiếng Đan Mạch ... nghe đã tai lâu ngày. Viết bài này tặng bạn bè năm đó. Năm nay, đúng mười năm sau, lẽ ra đến hẹn lại lên, nhưng dịch bệnh lây lan, thôi đành hẹn bạn bè khi hết dịch nhé :-).

PN

Thơ của bạn,


Có những bài thơ
không bắt đầu bằng chữ nghĩa
mà tiếng "mày, tao" bên vỉa hè xưa

Bao nhiêu năm,
trời mưa bỗng dột
rớt vô tình như một lời ru
Trong góc tối tao thu mình rất khẽ
chợt vỡ òa ngày rất trẻ đầu xanh

Ở nơi đó,
tao đã từng lỗi hẹn
Nợ tình ai ngày hôn lén bờ môi
Nay trở lại bâng khuâng chiều chửa tối
Giữa quê mình lạc lối chạy loanh quanh

Nên cứ rót,
tao không đành để cạn
say ngọt ngào,
con bống sạn nằm queo,
Ðêm sao đủ cho nửa đời ấp ủ
Thế là thơ, cần giấy bút làm chi ?

Hôm nay,
còn lại tiếng ve
không xác phượng đỏ, không tre đằng ngà 
Một mình ngồi ở phương xa
bỗng dưng lại nhớ
hôm qua
.... thơ mày !

PN (2011)