Sunday, August 26, 2018

R.I.P Senator John McCain !




Thượng nghị sĩ John McCain vừa qua đời hôm qua ở tuổi 81. Người dân Mỹ và chính khách trên thế giới đều tỏ lòng thương tiếc. Chính trị gia cả 2 bên đảng phái của Mỹ đều ngưỡng mộ, tôn kính, và tiếc nuối. Ông được ca tụng về lòng yêu nước, sự khẳng khái cương trực, anh hùng, và những ứng xử cao thượng công bằng trong công việc cũng như đời thường.

Đối với ông, quyền lợi quốc gia là trên hết. Từ lúc là một phi công hải quân, phục vụ quân ngũ, bị bắt bớ giam cầm ở Hà Nội, cho đến thời gian dài làm thượng nghị sĩ, phục vụ người dân và đất nước của mình. Ông luôn là tiếng nói mạnh mẽ hàng đầu, cũng như lập trường chính trị rõ nét trong chính phủ. Cho nên có những lúc ông đi ngược lại quyền lợi cũng như ý kiến chung của đảng phái của mình. John McCain từng làm TNS qua nhiều đời tổng thống, rất rạch ròi trong việc bảo vệ quyền lợi quốc gia và tiếng nói đảng phải. Ông từng bảo vệ T/T Obama cho dù là đảng đối lập, và cũng từng phê phán T/T Trump dẫu cùng là đảng Cọng Hoà. Công bằng và cứng rắn, cho dù có xảy ra những xung đột lớn trong công việc.  

John McCain là một tấm gương cho cách ứng xử công bằng trong việc phục vụ người dân và phục vụ quốc gia của mình. Đặt quyền lợi quốc gia trên hết. Riêng ảnh hưởng về phía VN, ông cũng là một trong những người Mỹ được nhắc đến và kính trọng nhất. Thân thiện, cởi mở và cao thượng với cựu thù (là người tích cực vận động cho quan hệ Mỹ-Việt). Nhìn nhận chuyện xưa một cách ung dung và trắng đen rõ rệt (câu chuyện Trúc Bạch, tượng đài, và quà biếu của VN). Công bằng với đồng minh và quá khứ (chương trình H.O với cựu quân nhân VN Cọng Hoà). 

Là người VN, mình luôn cảm ơn những đóng góp của ông trong việc hàn gắn chiến tranh và giải quyết mâu thuẩn, thúc đẩy sự tiến bộ của đất nước VN. Ông là biểu tượng của sự chiến đấu mạnh mẽ, cống hiến nhiệt tình, công bằng và can đảm nhìn nhận quá khứ. Là công dân Mỹ, mình thương tiếc sự cống hiến của một chính khách giàu lòng yêu nước, trọng dân, luôn luôn đặt quyền lợi đất nước lên hàng đầu !

Rất mong đất nước VN có được những chính khách như John McCain.

Thành kính & vĩnh biệt !





Saturday, August 25, 2018

Bông hồng cài áo - Khánh Ly


Vu Lan và tháng Cô hồn



Ngày mai rằm tháng 7. Người VN ta bao lâu nay vẫn quen thuộc với ngày lễ Vu Lan, với Kinh Vu Lan Bồn (Yulanpen Sutra) & câu chuyện bồ tát Mục Kiền Liên (Mulian/Moggallana) tìm cách cứu Mẹ. Tháng Bảy là mùa báo hiếu, nhưng cũng là tháng cô hồn, là mùa "xá tội vong nhân". Những chiếc lồng đèn trên sông, những vòng hoa tinh khiết, những đóa sen nguyên nụ, những bó hoa huệ hoa cúc tươi rói, đủ loại bánh trái, trầm hương, nhang đèn hoa quả ...đăng dâng như ngày hội lớn. Những bài hát, bài thơ về Mẹ về Cha, và những bông hoa đỏ hoa trắng được cài trên áo như một thông điệp nhắc nhở hàng năm về đấng sinh thành (lệ cài hoa này là do thầy Nhất Hạnh mới đem về VN vào những năm 60).

Thực ra, mãi cho đến ngày hôm nay, câu chuyện về nguồn gốc của ngày lễ Vu Lan vẫn còn là những dấu hỏi. Có những nghiên cứu không đồng nhất giữa PG Đại Thừa (Mahayana) và Tiểu Thừa (Theravada). Nhiều người cho rằng lễ Vu Lan bắt nguồn từ PG Đại Thừa, xuất hiện khoảng thời gian gần 800 năm sau thời Đức Phật tại thế. Theo Phật giáo Trung Hoa, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ là người dịch Vu Lan Bồn kinh (Yulanpen Sutra) đầu tiên vào đời Tây Tấn, khoảng thế kỷ thứ 3 sau CN. Đến đời sau, một bản dịch khác xuất hiện với tựa đề là "Phật Thuyết Báo Ân Phùng Bồn Kinh", nhưng không rõ người dịch. Mặc dù ở Ấn Độ, khi Đức Phật còn tại thế, con cháu của những người qua đời cũng đã thực hiện nghi lễ cúng dường Đức Phật và chư Tăng như kể trên, nhưng không rõ nét để chứng minh là điển tích Ngài Mục Kiền Liên và kinh Vu Lan bồn (Yulanpen Sutra hoặc Ullambana Sutra) tồn tại vào thời bấy giờ.

Một số học giả phương Tây từng nghiên cứu Phật giáo thì cho rằng câu chuyện bồ tát Mục Kiền Liên mang tính triết lý biểu tượng về ý nghĩa "cọng nghiệp" & sức mạnh của "bá tánh", chứ không hề mang ý nghĩa "cứu độ" và "thần thông". Bởi PG nguyên thể luôn chủ trương tự tu, tự sửa, tự diệt khổ, tự giác ngộ, và tự giải thoát cho chính mình.

Sau khi Vu Lan Bồn du nhập vào Trung Hoa, Lương Vũ Đế là vị vua đầu tiên xuất gia và cũng là người đầu tiên cúng Vu Lan Bồn vào năm 538. Sau đó lễ này được truyền khắp Trung Hoa rồi truyền qua Việt Nam. Theo Đại Việt sử Ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, lễ Vu Lan bồn du nhập vào nước ta rất sớm. Năm 1072, vua Lý Nhân Tông đã từng thiết trai đàn cầu siêu cho cha mẹ. Thế rồi, qua thời gian, Vu Lan bồn dần dần trở thành đại lễ cho đến ngày nay.

Còn những người nghiên cứu PG Tiểu thừa (Theravada) lại nói về Vu Lan có liên quan đến những câu chuyện giáo lý của Đức Phật và đệ tử của Ngài khi giải thích về vong hồn, tái sinh ..vv. Từ đó những câu chuyện về cứu rỗi, đầu thai, vong hồn, ma qủy, xá tội vong nhân (Petavatthu) được lưu truyền ở nhiều nước châu Á như Cambodia, Lào, Thái Lan, Sri Lanka, Singapore, Mã Lai .... Những câu chuyện này không liên quan đến chuyện của Ngài Mục Kiền Liên. Do vậy, hàng năm những nước này cũng có tổ chức ngày Lễ Cô Hồn (Hungry Ghost Festival/Ghost Festival) nhưng không mang ý nghĩa mùa báo hiếu như ở VN.

Cho dù thế nào chăng nữa, thì Kinh Vu Lan Bồn và câu chuyện báo hiếu của Bồ Tát Mục Kiền Liên là một câu chuyện kinh điển PG, một bài học rất đáng trân trọng, và một tục lệ văn hoá đáng được truyền tụng và duy trì trong cuộc sống.

Người VN ta lâu nay theo truyền thống kết hợp cả hai lễ hội vào chung tháng 7, mùa lễ Vu Lan báo hiếu và tháng cô hồn. Rằm tháng 7 thì chùa chiền nào cũng lễ lộc đầy đủ, nghi lễ đàng hoàng. Cúng thí, cầu siêu, cầu an, phóng sanh, hoan hỉ cúng dường rầm rộ. Tháng 7 AL cũng là tháng cuối mùa An Cư Tự Tứ của chư Tăng PG, nên càng đông đủ tăng ni tề tựu về chùa. Nhiều chùa bây giờ còn sáng tạo hơn xưa, tháng Bảy tổ chức văn nghệ, hát hò, nhảy múa, tân nhạc cổ nhạc. Có chùa còn mời Thầy về tổ chức giảng pháp, pháp thoại, ăn chay tụng niệm, hành hương tu tập ...v.v.

Chuyện đi chùa cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên, để thể hiện hiếu nghĩa, tỏ lòng biết ơn, báo hiếu cha mẹ, thì quá rõ ràng và đáng qúy rồi. Nhưng còn chuyện cúng thí, cúng cô hồn, ngưng buôn bán, đình công ăn việc làm, kiêng cử, sợ xui, sợ phạm ...thì mình không hiểu lắm. Nhiều lúc về quê đi chùa, đi cúng, thấy có nhiều mâu thuẩn rất lạ. Nhưng nghĩ lại đó cũng là một nét văn hoá đặc thù và đức tin của con người. Đâu dám nói là ai đúng ai sai ?

Nhiều người cúng cô hồn chết nhưng sợ cô hồn sống, cô hồn chết chưa hưởng thì cô hồn sống đã thỉnh rồi. Nhiều người suốt năm suốt tháng cầu nguyện người thân siêu thoát, nhẹ nhàng, về cõi niết bàn. Nhưng tháng 7 đến thì lo mua đồ mua đạc cúng đốt  gởi xuống âm phủ. Nhiều người hồi sống không lo nỗi cho cha mẹ người thân, nhưng khi người chết rồi, lại rộng rãi hẳn ra. Xe hơi, nhà lầu, điện thoại Vertu, karaoke, chân dài, osin, rượu ngoại, đô la .... không ngại mà đốt. Thử nghĩ lúc trên dương gian đã vất vả kiếm tìm chân dài chân ngắn, xe hơi nhà lầu, vật chất hơn thua... bây giờ xuống dưới chắc gì họ lại muốn mang nặng gánh gồng đeo đẻo trên vai. Sức đâu nữa mà chân dài chân ngắn, bia ôm, karaoke. Nhiều người một mặt lo sợ người thân ở dưới không đủ khả năng tậu đủ cơm no áo mặc, nên cúng đốt hậu hĩnh. Mặc khác lại nghĩ họ quyền năng, xin phù hộ giúp đỡ trúng số, thắng độ, ăn nên làm ra. Nhiều người cứ mỗi năm đốt xe đời mới, điện thoại xịn, TV tủ lạnh, áo quần túi xách hàng hiệu ... làm người thân ở dưới phải lo đi học thêm công nghệ, cách xử dụng. Nhiều người đốt cả sách tiếng Anh, tiếng Tây, passport, visa, cho người nhà đi xuất ngoại. Không chừng có ông còn đốt cả sách chính trị cao cấp, kinh tế chính trị Mác Lê cho người nhà ở dưới học làm quan, bồi dưỡng nghiệp vụ, chứ chẳng đùa. Còn tiền thì đủ loại từ tiền âm phủ, đến tiền đồng, tiền đô, euro ... Xuống dưới không có nhà bank, hối đoái bất ổn, lại phải mua vàng mà cất, muốn đi đâu cũng không yên lòng. Phóng sanh làm phước thì có khi con chim con cá bắt đi thả lại cả chục lần, khờ khờ khạo khạo, bay không muốn nỗi, bơi đi lờ đờ. Hàng ngàn kiểu cúng, kiểu đốt, kiểu khấn vái, kiểu hoá vàng ... nhưng đó cũng là những tấm lòng. Mỗi người có cách nghĩ riêng và đức tin riêng của mình, bất khả xâm phạm. Thực ra có khi cúng kiến hoành tráng, mâm cao cổ đầy, rình rang hàng xóm, liền chị liền em như thế, thì cũng không ai biết người chết có được "hưởng" không, nhưng chắc chắn người sống sẽ cảm thấy thoải mái & an lòng hơn. Mà lý lẽ cuối cùng của việc cúng dường, làm thiện, rồi cũng quy về ý nghĩa đó.

Mình cũng thường đi chùa vào mùa Vu Lan. Nhìn thiên hạ chen chân, khói nhang nghi ngút, lễ vật cao đầy. Ăn bữa cơm chay, nghe bài nhạc đạo, đọc thời kinh tụng, nhớ về ông bà cha mẹ, cũng thấy lòng nhẹ nhàng thanh thản hơn. Thỉnh thoảng có nghĩ đến ông Cát Nhu ngoài quê mình. Thời đó, ai cũng biết ông này. Người thấp lùn nhỏ bé, nghèo đói, chân ống cao ống thấp, rách trước rách sau, đi xin ăn về nuôi Mẹ. Trẻ con chọc ghẹo ông, người lớn cười nhạo ông, có đứa còn ném đá vào người ông rồi chạy. Nhưng dường như cái quan trọng nhất đối với ông là nuôi Mẹ, ngoài ra chả có gì ý nghĩa. Bao nhiêu năm tháng, nắng mưa bão lụt không quản, cực khổ không ngại, mặc cho thiên hạ chê bai, chửi mắng chế nhạo, có đồ ăn là để dành đem về cho Mẹ. Sau khi Mẹ ông chết đi, ít ai còn gặp ông ấy nữa. Có người nói sau khi chôn cất mẹ, ông đã bỏ đi xa. Cũng có người nói ông ngồi bên mồ của mẹ khóc riết rồi chết (lúc đó chỉ nghe đồn vậy, không ai kiểm chứng). Mình cứ thắc mắc Vu Lan ông đã cúng gì cho Mẹ ?



Tuesday, August 21, 2018

Phiếm: Đào Cốc Lục Tiên



Dĩ nhiên là lâu nay trong giới mê kiếm hiệp không ai phủ nhận tài năng và kiến thức của Kim Dung. Xuất thân từ giòng họ Tra nổi tiếng học hành khoa bảng, nhưng kiến thức về đời sống thực tế của Kim Dung quả nhiên vượt xa ngoài tầm của giới mọt sách, thường chỉ biết ôm mớ lý thuyết suông, tôn thờ bằng giấy, thánh phán cả đời !

Kim Dung hiểu biết rành rẽ từ trà, rượu, hoa, phụ nữ, đàn nhạc, âm ngữ, món ăn... cho đến thiên văn, địa lý, quân sự, chính trị, thâm cung bí sử, triều đình, thái giám, phi tần, tâm lý xã hội, thiện ác, chánh tà, tham vọng, cuồng tín, hội đoàn, đảng phái, giả quân tử, thuần tiểu nhân ....rồi cả thiền học, Phật, Đạo, Nho....v.v. Dĩ nhiên trong các bộ sách của ông, thỉnh thoảng cũng có những điểm không chặt chẽ và bất hợp lý, có lúc tính cách nhân vật xây dựng mâu thuẩn, thâm chí hơi sơ sài. Nhưng đời mấy ai vẹn toàn ?
Nhìn chung ông là một hiện tượng văn học nổi bật của TQ trong thế kỷ 20. Người TQ rất tự hào về ông. Nhiều trường có cả khoa Kim Dung Học. Còn phim ảnh thì biết bao nhiêu sản phẩm đã được xây dựng từ những tiểu thuyết của ông. Nhiều bộ phim được lập đi lập lại, hết dàn diễn viên này đến dàn diễn viên khác. Hết hãng phim này đến hãng phim khác, cùng một câu chuyện, hết bộ "hậu" này đến bộ "tân" khác, nhiều lúc đến nhàm chán.

Còn VN ta, thì khỏi nói rồi. Trước 75 đọc truyện chưởng, tiểu thuyết kiếm hiệp, thoải mái. Báo đài ra hàng tuần, sách có tiền thì mua, không tiền thì thuê. Sau 75, tiểu thuyết kiếm hiệp thuộc loại "văn hoá đồi trụy", đốt hết. Cuốn nào còn sót lại, chui nhủi lén lút chuyền tay nhau trong giới đọc sách. Mãi cho đến sau cuối thập niên 80 đầu 90, nưóc nhà qua cơn bĩ cực bao cấp, thì phim bộ Hồng Kông TQ lại tràn lan, rả rích khắp nơi. Nhiều người VN thuộc lòng vanh vách từng nhân vật chính của Kim Dung. Có người thuộc sử Tàu còn hơn cả sử Việt. Hết bộ này đến bộ kia, nói đụng đến thì như nước trôi qua cầu, hoa rụng ven sông, thao thao bất tuyệt....

Phi Tuyết Liên Thiên Xạ Bạch Lộc
Tiếu Thư Thần Hiệp Ỷ Bích Uyên

Người Việt ở hải ngoại cũng thế, từ cuối thập niên 70 mãi cho đến bây giờ, cứ buồn buồn lại mở ra coi. Băng gốc, băng trộm, sao đi chép lại, dịch, lồng tiếng, Bắc Trung Nam, ngọng nghịu, cải lương, giả tiếng, giả giọng, đủ cả. Thời này nhờ có internet, mạng xã hội, you tube ... sự truyền tải càng mãnh liệt hơn. Nhưng cũng phải nói nhờ nó mà đời sống của bao nhiêu người VN xa xứ đỡ phần cô quạnh nơi đất khách quê người. Nhiều đứa trẻ cũng nhờ vậy mà duy trì được chút vốn liếng tiếng Việt. Nghe riết rồi quen :-).

Ở VN, sách truyện của Kim Dung đã vượt xa các tác giả khác như Cổ Long, Ngoạ Long Sinh, Độc cô Hồng, Mộ Dung Mỹ, Gia cát Thanh Vân .v.v.. để đi vào lòng các cao thủ tại gia, ngày ngày rượu trà luận kiếm. Truyện của ông không phải chỉ thịnh hành trong giới bình dân, mà giới trí thức học giả cũng say mê đắm đuối. Nhiều người còn bị ảo tưởng nghĩ rằng mình là những cao thủ võ lâm thứ thiệt, nên ứng xử chuyện gì trong đời sống cũng có chút Kim Dung trong đó. Kể sao cho hết những kẻ từng mê Lệnh Hồ Xung, Tiêu Phong, Đoàn Dự, Quách Tĩnh, Dương Quá, Trương Vô Kỵ, Vi Tiểu Bảo, Triệu Minh, Hoàng Dung, Tiểu Long Nữ, Vương Ngữ Yên .... Nhưng cũng may là lâu nay chưa từng nghe ai tự thiến để trở thành Lâm Bình Chi, Nhạc Bất Quần, Đông Phương Bất Bại :-).
Từ nhà tù cho đến ký túc xá sinh viên. Từ bàn nhậu vỉa hè cho đến tiệc tùng sang trọng. Từ người tự xưng "giang hồ hiệp nghĩa" đến kẻ ảo vọng "luận kiếm Hoa Sơn". Từ lao động, xe ôm, xích lô cho đến giới học sinh sinh viên, giáo sư, bác sĩ, quan chức, lính tráng, bộ đội, thanh niên xung phong, lao công đào binh ... Từ xấu cho đến tốt, từ thực cho tới ảo, từ trẻ cho đến già, đều thấp thoáng ẩn hiện sắc thái của Kim Dung. Ghê thật !

Nói về dịch Kim Dung thì không ai qua nỗi Hàn Giang Nhạn rồi. Một dịch giả tài hoa, đã làm say đắm không biết bao nhiêu người Việt. Ông đã từng dịch không biết bao nhiêu kỳ tích may mắn, thoát hiểm ly kỳ ngoạn mục, hang động thung lũng, núi cao vực thẳm, huyền thoại kỳ bí, huyền diệu cơ duyên... Nhưng rồi nghe nói ông lại bị chết vì một tai nạn lãng xẹt ngoài đời. Oan nghiệp !
Còn nói đến thầy bàn Kim Dung thì vô số. Bàn đúng, bàn sai, bàn loạn, bàn tiếu, bàn Mao Tôn Cương chí dị, thánh đề, thánh ngóng, thánh phán, thánh liều... nhiều như lá rụng mùa thu.

Giờ mới nói về chuyện mấy đại ca Đào cốc Lục Tiên. Trong truyện Kim Dung thỉnh thoảng xây dựng những nhân vật ngây thơ, thật thà, khùng khùng, điên điên, rất đời thường như Châu Bá Thông, Quách Tĩnh, Nam Hải Ngạc Thần, Khúc Cô ....v.v... Nhưng Đào Cốc Lục Tiên thì khác, cả bọn khùng tập thể. Nửa khùng, nửa điên, không biết là lục "tiên" hay lục "ma", nhưng mỗi người đều có cái "tài" riêng và sự cao ngạo của mình. Điểm chung lớn nhất là cả 6 người đều nghĩ mình giỏi, tưởng mình là "tiên" thật. Không cần biết kết quả đúng hay sai, cứ thế mà mần, phá cũng không biết mình phá, hồn nhiên mà tự hào. Nội cái chuyện cứu Lệnh Hồ Xung cũng làm bao nhiêu người xem dở khóc dở cười :-).

Nhớ ông bà ta xưa có câu "Tam ngu thành hiền". Dẫu biết rằng có nghĩa bóng nghĩa đen, nhưng mình vẫn thường đùa là nếu 3 người ngồi lại mà có thể "thành hiền", thì không thể nào gọi họ là "tam ngu" được. Tỉ như Đào Cốc Lục Tiên, làm sao thành hiền nỗi :-) ?
Mà đúng vậy, lâu nay thiên hạ thiếu gì người tài giỏi thông minh. Nhưng kêu ba người tài giỏi ngồi lại với nhau, chắc gì đã "thành hiền" được ? Không có ý vơ đũa cả nắm, vì đồng bào VN ta vốn thường thương yêu nhau. Nhưng cũng không hiếm những vùng miền thích so đo hơn thua, chia rẽ bè phái, cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Có những địa phương luôn tự hào là nhiều người tài giỏi, học cao hiểu rộng, nhưng bao nhiêu năm trôi qua, xứ sở họ vẫn nghèo nàn lạc hậu. Ngay cả khi phải đi xa để tha phương cầu thực, hoặc ra nước ngoài tị nạn sinh sống, làm nghề sinh kế, thì họ cũng khó có thể hoà thuận với nhau. Vẫn đố kỵ nhau, vẫn hơn thua nhau, vẫn co cãi nhau, vẫn cạnh tranh không lành mạnh, vẫn chụp mũ nhau, chia đàn xẻ nghé, phe này nhóm nọ. Năm người mười ý, ông này chửi ông kia, hội này nói xấu hội nọ, ai cũng cho mình là chính nghĩa, ta đúng người sai. Rồi kéo nhau ra toà kiện cáo, tội nói xấu, vu khống nhau .v.v... Tất nhiên đó chỉ là thiểu số, nhưng lắm khi lại gây ra ảnh hưởng lớn đến lòng tin cũng như những suy nghĩ tích cực của nhiều đồng bào, đồng hương khác.
Lâu nay cả trong nước và ngoài nước, cũng không hiếm những người độc quyền yêu nước theo kiểu riêng của mình, rồi dựng chuyện chụp mũ, hoặc phê phán, bài xích những ai có quan điểm và ứng xử khác họ. Người có lòng cũng không hiếm, kẻ có tài cũng đầy rẫy, nhưng hết năm kia đến tháng nọ vẫn lòng vòng bấy nhiêu chuyện. Tự vỗ về nhau, tự hù doạ nhau, tự làm khó nhau, rồi vẫn không thay đổi được điều gì, ngoài việc chỉ để an ủi nỗi niềm "thất phu hữu trách". Mấy chục năm qua, nhiều địa phương ở hải ngoại, có những cộng đồng VN vẫn chưa thuận nỗi lấy một cái hội đồng hương bé tí. Hơn thua nhau, co cãi, mạ lỵ nhau chưa hết, huống hồ chi mong chuyện "tam ngu thành hiền". Còn trong nước thì cũng nhan nhản chuyện lợi ích nhóm, phân biệt vùng miền, lý lịch nhân thân, "cận huyết quyền lợi", giây mơ rễ má, ông này lên thì kéo ông kia, ông kia chết thì con cháu họ hàng lại lên thay.... Và cứ thế mà "hồng hơn chuyên". Rồi lâu lâu lại bắt, lai khui, lại đốt lò ... :-)

Dĩ nhiên là Kim Dung xây dựng tính cách Đào Cốc Lục Tiên không tới nỗi tệ vậy. Tuy Đào Cốc Lục Tiên khó thành công trong bất cứ chuyện gì, nhưng họ vẫn sống hoà thuận nhau với cái dở điên dở khùng của họ. Tuy họ không lắng nghe nhau, tự làm theo ý mình, mỗi người mỗi ý, nhưng không hề chà đạp và đố kỵ nhau, vẫn thương yêu nhau.

Sở dĩ hôm nay bỗng dưng lan man về câu chuyện Đào Cốc Lục tiên, là bởi hôm qua có người hỏi mình - "Nghĩ sao về việc tài lực dư đủ, hô hào rềnh rang, tiền hô hậu ủng, thiên thời địa lợi, mà sao có quá nhiều dự án công trình phạm lỗi. Cứ vài hôm củi chụm vô lò ?".
Một thắc mắc mà chắc chắn đã có nhiều người từng trăn trở, từng tự hỏi và từng tự trả lời. Có những nguyên nhân cứ như điệp khúc "biết rồi nói mãi", vài hôm vài bữa lại nghe trên báo trên đài, từ tham nhũng, hối lộ, thông đồng, lợi ích nhóm, cho đến cửa quyền, thân thế, bằng giả, kém năng lực .v.v.. cũng là những chuyện không mới mẻ gì. Tất nhiên ông bạn kia không xa lạ gì với những nguyên nhân quen thuộc đó, nên mình nghĩ ông muốn nói đến một khía cạnh khác. Nhưng suy nghĩ hoài không biết trả lời sao cho trọn vẹn đầy đủ, mình nói anh ấy về kiếm Đào Cốc Lục Tiên mà đọc :-).
Lâu nay mình vốn quan niệm rằng con người cho dù có tài ba đến đâu, thì khả năng của họ cũng chỉ đạt đến một giới hạn nào đó. Mỗi người cũng chỉ có thể hiểu biết khiêm tốn trong một phạm vi nhỏ bé nhất định. Cho nên để thành công thì chắc chắn con người cần phải biết hòa thuận và hợp tác được với nhau. Một cộng đồng thích kỳ thị, chia rẽ, phân hoá, co cãi, thì không thể đồng lòng hiệp sức với nhau được ? Cũng như một xã hội chỉ biết tự hào chuyện đấm đá, "tượng đài", luôn nhắc nhở chuyện hận thù thắng thua, thì chỉ chuốc lấy chiến tranh chứ sao tạo nỗi hoà bình ? Mà đã nói đến vấn đề hoà hợp, chung tay chung sức với nhau, thì ở đâu cũng vậy, nước ngoài nước trong gì cũng thế, đều có những quy luật chung giống nhau. Đó là, nếu biết nghĩ cho đại cuộc, tôn trọng lẫn nhau, công bằng với nhau, trọng đãi cái tốt, đào thải cái xấu, thì chắc chắn sớm muộn gì họ cũng thành công. Ngược lại, nếu chỉ biết kiêu binh tự phụ, chia bè chia phái, tham nhũng bạo quyền, tuỳ tiện độc đoán, ganh ghét đố kỵ, nghi ngờ lẫn nhau, thì tất nhiên là sẽ thất bại. Nếu có may mắn ngoại lệ, đạt được thành tựu nào đó, thì cũng chỉ là ngắn hạn. Đó là còn chưa nói đến nhiều hệ lụy khác có thể sản sinh ra như phân hoá, mâu thuẩn, hơn thua vặt vãnh, gây thù chuốc oán hãm hại nhau…v.v. Lịch sử thế giới lâu nay vẫn vậy. "Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao". Ai cũng biết thế, nhưng để chụm lại được là vấn đề không đơn giản chút nào.

Tuy nhiên, nhìn lại thực tế thì trên thế giới vẫn có những xứ sở hoặc địa phương, con người ở đó hiền hoà và đoàn kết hơn hẳn so với nhiều nơi khác, mặc dù trình độ dân trí cũng không khác biệt nhau lắm. Nhiều trường hợp cũng là những cộng đồng người di trú, tị nạn, hoặc đồng hương định cư nơi xứ lạ. Nhưng họ không hề hận thù chia rẽ, phe phái hội đoàn, phỉ báng mạ lỵ, vu khống dựng chuyện, đố kị ghen tức nhau dai dẳng từ năm kia đến tháng nọ. Ngược lại họ đoàn kết, đồng lòng, biết lắng nghe, và tôn trọng nhau, nên việc gì cũng dễ dàng thành công. Nhiều lúc mình cũng thắc mắc không hiểu những ưu khuyết điểm đó thuộc về bản sắc dân tộc hay ảnh hưởng văn hoá vùng miền? Hay là lại giống như “triết lý duy nhất” chỉ có Scottish malted barley mới làm ra rượu whisky ngon, chỉ có mạch nước Bàu Đá hoặc Làng Vân mới nấu ra rượu chiến, hoặc chỉ có cá bống sông Trà kho mới ngon :-) ?

Suy cho cùng thì bên tây bên ta gì cũng thế, từ chuyện nhà cho đến chuyện quốc gia đại sự, yếu tố tư duy con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất để thành công và thất bại !



Friday, August 17, 2018

Địa danh: Xuân Phổ



Khi nói về đặc sản xứ Quảng, người ta thường nhắc đến "Chim mía Xuân Phổ , cá bống sông Trà", nhưng chắc cũng ít người biết Xuân Phổ ở đâu.

Xuân Phổ là một ngôi làng nhỏ nằm cạnh sông Trà, thuộc xã Tư thuận, nhưng lại giáp ranh với cả hai xã Tư Quang và Tư Mỹ. Đây là vùng đất được mệnh danh phì nhiêu nhất của miền tây bắc Tư Nghĩa, được tạo bởi phù sa của con sông Trà bồi đắp qua nhiều thế hệ. Cũng chính vì do phù sa bồi đắp thành, nên đất Xuân Phổ mềm xốp, màu mỡ, khác nhiều so với các vùng đất khô cằn của các làng xã lân cận. Nơi đây có những cánh đồng mía ngút ngàn, và cũng là nơi tạm trú thích hợp nhất cho những loài chim mía nổi tiếng tụ tập hàng năm. Nhưng nói về Xuân Phổ, không phải chỉ có đường mía, mà còn là một ngôi làng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, lịch sử kháng Nhật, và cũng là nơi cưu mang bao nhà chí sĩ cách mạng, quan chức, cho cả hai miền đất nước ngày xưa.

Muốn đi đến Xuân Phổ, bất kỳ đi từ hướng nào đều phải xuống dốc. Như đã nhắc ở trên, làng do phù sa bồi đắp mà thành, nên địa thế thấp hơn so với nhiều nơi khác, và hầu như năm nào cũng bị lụt lội. Xuân Phổ chia làm 4 xóm với từng đặc điểm riêng biệt :

Phía đông là xóm Bãi, tiếp nối với Rừng Lăng, nơi có cây Cầy Đôi, một địa danh mang nhiều huyền thoại của thời xa xưa. Gần đó có ngôi mộ Đá của một vị Tiền hiền Nguyễn tộc và lăng tẩm thờ phụng ông Bùi Tá Hán. Đi từ phía Lăng Ông lên xóm Bãi phải xuống một con dốc cao và qua cầu Tréo. Đến đây chúng ta sẽ thấy những ruộng lúa và nương mía trãi dài cho đến dọc bờ sông Trà. Đi dọc theo bãi cát này sẽ dẫn về ngọn núi Ông, cạnh đó có nhà máy đường nổi tiếng Quảng ngãi. Ngọn núi này theo tương truyền là nơi giọt máu trong cổ ông Bùi rớt ra trên đường về xứ, nên dân làng kính mến lập ngôi đền thờ trên đỉnh núi (khác với lăng tẩm chính ở Rừng Lăng), và gọi là núi Ông. Khu vực sông Trà khúc ở cuối xóm Bãi chạy dài đến núi Ông, lòng sông sâu, nước xoáy mạnh. Nơi đây vốn có nhiều điển tích về địa linh long mạch từ thời Cao Biền sang trấn yếm nước ta, nên người địa phương không dám bơi lội ở khu vực dưới chân núi này, dễ bị chết đuối. Trước năm 75 không lâu, một nhà khoa học du dọc từ Canada về, rất rành về bơi lội cũng bị chết đuối tại đây, nên càng làm cho nhiều người mê tín.
Ngày xưa xóm Bãi nổi tiếng với nghề làm bánh tráng, nuôi tằm, đan tre, nấu rượu, làm thuốc lá. Sau này, vì thời buổi kinh tế khó khăn, người dân phải thay đổi làm nhiều nghề khác để mưu sinh. Tuy nhiên họ vẫn cố gắng gìn giữ cái nghề của cha ông truyền lại, đó là nghề làm bánh tráng. Đi dọc theo bãi cát sông Trà, sẽ thấy chen chúc những giàn phơi và nhiều vĩ bánh lấp lánh. Những cô gái thoăn thoắt đôi tay tráng bánh, trãi bánh, rồi dịu dàng đội cả chồng vĩ đi phơi. Ngày qua tháng lại, công việc đã trở thành nếp sống quen thuộc, nên họ thao tác rất nhịp nhàng. Với những chiếc áo bà ba duyên dáng, thoăn thoắt ẩn hiện sau những rặng tre đằng ngà râm mát, họ đã tạo ra những ấn tượng sâu sắc cho người qua đường về sự khéo léo cần cù của người dân quê Trung bộ.

Phía nam, là xóm Chợ, nơi an nghĩ của nhà yêu nước chí sĩ cách mạng Tạ Thu Thâu. Nếu đi về xóm Chợ từ phía chợ Gò phải qua cầu Ông Tổng Phúc, bắt qua một con suối bắt nguồn từ những "lò" nước nóng thiên nhiên. Dân địa phương có khi luộc gà, luộc trứng tại vùng suối nước nóng này. Những khu vực ruộng lúa chung quanh suối nước nóng thường rất tốt, có lẽ do bùn khoáng chất tạo thành. Mở ngoặc chút, dân địa phương và các vùng lân cận thường có câu vè.." Nhất ruộng đầu Cầu, nhì trâu Chúa đàn "...để nói về hai cái nhất của xứ này. Người viết bài này có may mắn được biết chút ít về tiểu sử chủ nhân của hai món nhất nhì kia. Và cũng chính vì sự giàu có của đời trước đã đem lại không ít hệ lụy cho con cháu của người chủ nhân đó sau này (vì tệ nạn lý lịch thời bao cấp). Cũng xin nói thêm, có người thuở nhỏ từng trông nom đàn trâu có con trâu Chúa đàn đó sau này trở thành một nhân vật nổi tiếng của tỉnh QN.
Nói đến những ruộng lúa dọc theo hai bờ suối này, quanh năm không sợ thiếu nước. Nông dân không cần bờ xe hay đào giếng mà chỉ cần đắp bờ be nước vào. Và có lẽ người dân ở đây hiểu rành rẽ hơn ai hết về cái đạo lý "Thượng điền tích thủy, hạ điền khan", nên họ biết chia xẻ cho nhau nguồn nước để cùng chung sống cấy cày.
Xóm Chợ có chợ Két, là cái chợ duy nhất cho cả thôn Xuân Phổ. Từ chợ Két đi lên không xa lắm, rễ trái sẽ tìm thấy mộ của chí sĩ Tạ Thu Thâu. Ngôi mộ không ai chăm sóc, lu lấp cỏ dại, bị ria xén hàng năm. Thực ra, có khi những người dân tại địa phương cũng không biết ông Tạ Thu Thâu là ai. Mà nếu có biết thì cũng ít người dám nhắc đến tên ông vì sợ phiền phức với chính quyền sở tại. Tới mùa tảo mộ tháng Chạp, một vài người có đọc hiểu qua lịch sử, thương kính Ông, ghé qua thắp vài nén hương cho người chí sĩ giàu lòng yêu nước, tài hoa bạc mệnh này. Hy vọng về sau, chính quyền địa phương sẽ có cái nhìn thông thoáng hơn, công bằng và nhân bản hơn, cho xây đắp lại mồ mả của ông đàng hoàng. Ở Saigon ngày xưa có cả con đường mang tên Ông, nhưng mồ mả nơi đây thì lại bị lu mờ, cắt xén, đáng tội !

Phía Tây Xuân Phổ, là xóm Một, nơi có bụi tre Một nổi tiếng lâu đời. Nằm cạnh bờ sông Trà, giáp ranh với xóm Một là xóm Buồng Tư Mỹ, nơi nổi tiếng về nghề trồng dâu nuôi tằm của Quảng Ngãi ngày xưa. Chữ xóm Buồng có lẽ cũng xuất phát từ những buồng tằm. Xóm Một Xuân Phổ cũng là nơi sản sinh ra rất nhiều chiến sĩ, anh hùng liệt sĩ của các cuộc cách mạng, trong đó có Chí sĩ Phạm Cao Chẩm. Người dân xóm này sống chủ yếu bằng nghề trồng mía đường, trồng thuốc lá, và đánh bắt tôm cá dọc theo sông Trà. Giòng họ lớn nhất của xóm này là họ Phạm, có rất nhiều quan chức cách mạng trở về sau năm 1975.

Trung tâm của Xuân Phổ là xóm Trại, hình như sau này còn gọi là xóm Hai. Xóm này tập trung những gia đình giàu có của các thời kỳ phong kiến trước, địa chủ và quan chức. Các ông Chánh, ông Xã, ông Hương...đa số xuất thân từ đây. Gia tộc lớn nhất vùng này mang họ Nguyễn, có nhiều quan lại triều Nguyễn và con cháu làm quan chức cho chính quyền miền Nam. Cũng vì lẽ đó, sau năm 75 có rất nhiều gia đình con cháu ở xóm Trại phải bỏ xứ ra đi, sống rải rác khắp nơi trong nước và ngoài nước. Cũng có nhiều gia đình đi định cư ở Mỹ theo diện H.O sau này. Người dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề trồng mía, ruộng lúa. Nhờ vốn đất đai phì nhiêu, lại cần cù, nên cuộc sống ngày xưa của làng này có vẻ đầy đủ hơn nhiều nơi khác. Trước khi đi vào xóm Trại, phải đi ngang qua một cái "Gò Mả Vôi". Đó là một ngôi mộ rất lâu đời, không rõ có từ thời nào, được xây dựng bằng đá vôi rất cổ kính. Theo thiển ý người viết, với lối xây dựng đó, Gò mả vôi có thể là nơi an nghỉ của một nhân vật cao cấp thời Chúa Nguyễn vào Nam. Cũng có thể ông là người tiên phong khai phá vùng đất phì nhiêu này. Nhưng đáng tiếc cho đến nay vẫn chưa có một kết luận cụ thể nào.

Nhìn chung đời sống của xứ Bãi Dưa Xuân Phổ hiền hòa, con người cần cù siêng năng làm ăn theo các nghề của ông cha truyền lại. Vào mùa gặt lúa, mùa chòi đường, mùa đạp thuốc, hoặc đem nước mùa trăng, trai gái cũng thường ca hát đối đáp nhau những câu ca dao bài chòi. Và nhiều cuộc tình mộc mạc đã nảy sinh từ đó. Tuy nhiên, một số định kiến còn tồn tại đã làm cản trở bao cuộc tình duyên, và làm hạn chế nhiều cơ hội phát triển xây dựng chung cho làng xóm. Người viết bài này được nghe kể lại giữa giòng họ Phạm xóm Một và giòng họ Nguyễn xóm Trại ngày xưa có nhiều mâu thuẩn không hòa hợp nhau. Cũng dễ hiểu thôi ! Họ Nguyễn xứ này đa phần xuất phát từ gia đình phong kiến địa chủ, nên thời đại trước có nhiều quyền hạn hơn. Đến thời kỳ " Chín năm kháng chiến" thì ngược lại, các quan chức Việt Minh họ Phạm lại có nhiều quyền bính hơn. Rồi tới thời hậu 54, con cháu các địa chủ quan lại họ Nguyễn có điều kiện đi xa hơn, đỗ đạt hơn. Trong khi đó các bà con họ Phạm lại đi tập kết, hay đi làm cách mạng "nhảy núi". Và cứ thế lịch sử xoay vần, sau năm 75, con cháu họ Phạm lại trở thành các quan chức lớn. Thực ra, chuyện đó cũng là quy luật bình thường của cuộc sống. Trên bình diện xã hội, con người chỉ là những sản phẩm của các giai đoạn lịch sử. Đất nước thì trường tồn, còn chế độ hoặc thể chế chính trị chỉ mang tính giai đoạn. Lịch sử đã xảy ra, dĩ vãng không thay đổi được. Sự thù hận hay đố kỵ, chỉ làm cho con người nhỏ nhen vị kỷ, tầm nhìn hạn hẹp, xoay quần trong những tranh chấp nhỏ nhoi với bà con xóm giềng. "Khôn ngoan đá đáp người ngoài. Gà cùng một Mẹ chớ hoài đá nhau !". Đúng vậy, người có lòng vị tha, có cái nhìn chung cho đại cuộc, sẽ đem lại lợi ích cho dân cho nước của mình. Người ngồi đó bới tìm dĩ vãng, xoi mói tị hiềm, ghen tị hơn thua, sẽ khơi mào những mâu thuẩn không cần thiết, và chắc chắn sẽ không đem lại lợi ích gì cho xứ sở quê hương. Thiết nghĩ, cũng đã tới lúc ta nên nhìn rõ lại cái nhân bản tốt xấu, để cần thiết lọai bỏ những thành kiến nhỏ nhoi và hệ lụy lâu đời. Suy cho cùng, chính những phân biệt, thành kiến nặng nề và những so đo tị hiềm đã làm trì trệ sự phát triển chung, tạo ra những nặng nề trong cuộc sống hiện tại, mà e rằng bao đời sau cũng khó vươn lên được !

Ngoài 4 xóm kể trên, Xuân Phổ còn có một xóm nhỏ nữa gọi là xóm Làng, nằm giữa xóm Bãi và xóm Chợ. Mặc dù có nhiều câu chuyện lịch sử bắt đầu từ đây nhưng vì xóm Làng nhỏ bé quá so với các xóm khác nên ít được nhắc đến.

Nói về Xuân Phổ, mà không nói về nghề đường mía là một thiếu sót lớn. Ngày xưa những cánh đồng mía bạt ngàn, đến mùa thu hoạch những chòi mía mọc lên khắp nơi. Đi đến đầu làng đã nghe mùi đường, mùi chè hai thơm lừng trong gió. Đường muỗng đắp bùn, đắp chuối, đường cục, đường cáu, đường dẻo, đường trứng cá, đường đinh, đường đáy, đường mật, đường sệt… có nhiều loại đường được sản xuất tại đây. Có cả những món phụ gia như nước chè hai, khoai lang ngào, bánh tráng nhúng đường ...nổi tiếng. Đến mùa mía đường cả thôn, rộn ràng tấp nập những con buôn, trai đinh gánh gồng đùa giỡn, thợ nùi tất bật, xen lẫn tiếng nghé ọ của bầy trâu, tiếng kẽo kẹt của những ông ché trui trũi, càng làm tăng phần sinh động của làng quê.

Đặc biệt về gần tháng Chạp, những đàn chim di trú tập trung về đây. Những con chim chéo, chim én, chim dồng dộc, ổ già, se sẻ.. chiều chiều bay lượn rợp mãi lên tận xóm Buồng xóm Bãi. Làng xóm xôn xao những cuộc đuổi chim, đánh rập ủ, đánh sào, đánh vó... càng làm đậm đà cái hồn quê của một làng mía đường Trung bộ. Và cũng chính vì đó, nơi đây được nổi tiếng một thời với cái đặc sản "chim mía Xuân Phổ". Thời đệ nhị cọng hòa- sau năm 1963- Xuân Phổ bị tàn phá ác liệt, đào hào đắp vi, người dân bỏ xứ tản mác khắp nơi. Làng quê hoang phế, nhà cửa vườn tược cháy hết, chỉ còn là nơi căn cứ hoạt động cách mạng và là bãi chiến trường cho những cuộc giao tranh càn quét. Đi trên máy bay nhìn xuống chỉ thấy cả rừng tranh ngút ngàn chen lẫn những đám tre rậm rạp. Phải đến sau năm 1975, vùng đất này mới được khai thác trở lại. Tuy nhiên dưới hình thức kinh tế hợp tác xã nông nghiệp, ngành đường mía của Xuân Phổ cũng không có cơ hội tìm lại được những bản sắc ngày xưa.

Một đặc điểm nổi bật nữa của Xuân Phổ là sông nước. Giòng sông Trà Khúc đi ngang qua xóm Trại, được rẽ làm hai. Một nhánh sông nhỏ trong veo chảy vòng tạo thành một cù lao thật dài gọi là Bãi Bói. Bên kia con sông lớn là Phước Lộc thuộc về Sơn Tịnh, nơi nổi tiếng những bờ xe và những nương bắp ngút ngàn. Khúc sông Trà chảy qua Xuân Phổ không sâu lắm, trước trong leo lẻo. Mùa nước cạn, có khi nhìn thấy đáy. Bãi Bói là một di sản đáng quý của Xuân Phổ, trên cù lao có rất nhiều cây bói, giống như cây sậy nhưng mềm hơn, thân như cây mía lau, bò trâu rất mê món này. Ngoài ra trên cù lao có rất nhiều cây đu đủ tía, nếu sau này địa phương có những dự định kinh tế khá hơn, có thể khai thác giống cây này trong công nghệ sinh học. Hàng năm, làng không cho ai ra đây đốn phá, chỉ để dành cho mùa Tết Nguyên Đán. Tết về, trong khi mọi gia đình đều bận bịu lo ăn tết chúc tụng, đá gà, đánh bạc.....thì những đàn trâu bò cũng được tập trung về ăn Tết trên bãi Bói, như là một ngày hội lớn cho trâu bò cả xứ. Buổi sáng cứ lùa cả bầy ra bãi bỏ đấy, tối ra đi kiếm lừa về, khi lười thì cứ bỏ qua đêm. Bãi Bói cũng như ở Côn Đảo, chung quanh là nước, nên trâu bò cứ yên tâm ăn no rồi ngủ. Mùa xuân bãi Bói cũng là mùa cho những hậu duệ Đinh Bộ Lĩnh trổ tài thi thố len trâu qua vũng, qua sông. Và đó cũng là mùa cho những chú nghé "bóc têm" trở thành bò đực, các nàng nghé tập tễnh thụ thai. Và đó cũng là mùa của các cuộc chọi báng ác liệt bằng xương máu để dành chức chúa đàn, chức lãnh đạo tối cao của những con trâu chiến, bò đực. Dĩ nhiên trong lúc trâu bò báng nhau ác liệt vòng trong, thì các ông chủ nhỏ cũng say sưa hò hét võ mồm hoặc đập nhau tưng bừng ở vòng ngoài. Có thấy tận mắt mới hiểu được ý nghĩa của việc thương trâu thương bò như thể anh em !

Xuân Phổ ngày ấy, với giòng sông êm đềm, bãi cát trắng mịn màng đầy ắp bãi dưa nương bí. Đường làng gọn sạch êm mát giữa những lũy tre đan kín, ở trên máy bay nhìn không xuyên thấu được. Dân cư tấp nập đầu thôn cuối xóm, nhà cửa vườn tược tươm tất. Mùa xuân nhà nào cũng rực rỡ hoa cúc, thược dược, hoa hồng, hoa mai… Rồi thì lô tô, đá gà. Mùa hè thì đường mía thơm lừng. Mùa thu thì đuổi cút, cốm rang, gặt nếp, nước lụt, vớt củi, bắt dế. Mùa đông nấm mối, trồng hoa, gieo mạ ... Ruộng lúa màu mỡ, nương mía hiền hòa. Đất lành chim đậu !

Còn Xuân Phổ ngày hôm nay ra sao? Những cánh đồng khô ngày mỗi cạn dần. Những cánh đồng mía cũng không còn nữa. Nhiều thanh niên trai tráng bỏ làng tha phương cầu thực, chỉ còn những lao động già nua trụ lại. Hợp tác xã thất bại. Ruộng vườn của những người từng đóng góp coi như mất trắng, vì nay đã thuộc về người khác. Vật đổi sao dời, hồn ở đâu bây giờ?

Nhưng suy cho cùng, quê hương bao giờ cũng chỉ là những gì còn lại trong tâm tưởng. Ngôn ngữ chắc chắn sẽ không bao giờ diễn tả được hết cái vẻ đẹp, cái hồn quê bất tận của một thời, mà nay đã trở thành dĩ vãng !

(Người viết bài này chỉ mạn phép viết lại những gì đã biết về một làng quê ven bờ sông Trà QN có nhiều đặc điểm thú vị. Chắc chắn có nhiều bậc đàn anh biết nhiều hơn về địa danh này, xin vui lòng chỉ dạy và đóng góp thêm.)

PN

R.I.P Aretha Franklin !

R.I.P Aretha Franklin !




Monday, August 13, 2018

Tản mạn: Xe đạp

Tản mạn xe đạp,



Không giống như những câu chuyện thời trang, một vòng chạy quanh một vòng trở lại, muôn thưở vẫn là hết loe đến túm, hết túm lại loe. Phương tiện giao thông ngày càng phát triển mạnh mẽ và đa dạng hơn. Thế nhưng xe đạp thì khác, ngoại lệ, vẫn được kéo dài & thịnh hành nhiều năm nhiều tháng, cho dù con ngưòi đã bay được lên sao Hoả, mặt Trăng. Ngày xưa xe đạp, rồi đến xe máy, rồi tiến lên xe hơi. Nhưng ngày nay nhiều nước châu Âu lại trở về với xe đạp, phong trào bắt đầu mạnh mẽ. Không phải chỉ vì lý do thân thiện môi trường, mà còn là lý do sức khoẻ, thời sự nữa. Như Đan Mạch ngày nay được gọi là vương quốc xe đạp, và đó cũng là một trong những đất nước được đánh giá đáng sống nhất thế giới.

Sáng nay đọc bài viết của một người ở Hà Nội, nói về sự chọn lựa đúng đắn khi quyết định không mua xe hơi mà mua chiếc xe đạp. Nghe thật hay, mình cũng đồng ý, nhưng nghĩ lại thì điều này khó thực thi ở một đất nước như VN.

Nhớ mấy năm trước đây, con mình học ở một trường quốc tế SG. Mình thì không có nhiều thời gian tập thể dục, mà hàng ngày cứ rượu bia thuốc lá. Thế là sắm chiếc xe đạp, sáng chiều tà tà chở con đi học. Đi về mỗi ngày cũng được mười mấy cây số. Đúng là sướng thật, thể lực cải thiện hẳn lên, chân cẳng cũng cứng cáp hơn, da dẻ đen sạm, khỏi cần đi tắm nắng tắm bùn. Đúng là không phải chỉ tốt về sức khoẻ thôi, mà còn nhiều thứ lợi hại khác nữa. Ngoài chuyện xăng nhớt, bảo hiểm, bảo trì, tài xế, gởi xe ...tiết kiệm đương nhiên rồi. Đi xe đạp mua sắm đồ đạc cũng rẻ hơn. Chiều về ghé chợ mua bó rau, trái cà, trái cây, hủ mắm.... cũng rẻ hơn. Ghé đâu đó làm ổ bánh mì, ly nước mía, sữa đậu nành, dĩa gỏi đu đủ gan bò, trái bắp nướng, dĩa bột chiên ... cũng ít bị chặt chém hơn. Mua cái nón, sợi dây nịt, đôi vớ ...cũng khỏi bị thách giá. Nhiều người bán hàng nhìn thấy "tội nghiệp", không thách mà còn khuyến mãi thêm. Ngồi quán vỉa hè la cà, cũng thoải mái, ghé chỗ nào cũng được, làm chai la de dĩa đậu phọng luộc, nhẹ nhàng. Không phải lo kiếm chỗ đậu xe, lo va quẹt, lại ít lo canh cánh đứa nào bẻ trộm kính, ăn cắp IC, mượn xe đi đái.... Đi ngang quán xá, nhà hàng, cũng ít đứa chèo kéo mời mọc, cứ thế mà đạp, mà đi. Nói chung là tiện lợi nhiều đường :-).

Nhưng dẫu là sướng vậy, nhưng đôi khi cũng có chút ngậm ngùi .... Như có lần, bảo vệ ở trường quốc tế, thấy mình đi xe đạp, không cho vô cổng. Xe hơi, xe máy SH, ra vô trường thì còn được, còn mình và mấy ông xe ôm phải đứng ngoài đợi con em đi ra chở về. (Nhớ là hồi đó chỉ có mình ên đi xe đạp đón con). Anh chàng hiệu trưởng người Canada, biết mình đã lâu, từng xin việc vào công ty của mình, và cũng thường hội họp với nhau bên CanCham, AmCham. Một hôm thấy mình xớ rớ ngoài cổng, nói bảo vệ cho dắt xe đạp vào. Những chiếc xe hơi đắt tiền ra vô, thấy chiếc xe đạp lèo tèo trước cổng trường, thỉnh thoảng liếc mắt soi mói. Dường như có chút hoài nghi, lo lắng, ngại ngùng. Có hôm đi về trên đường Trương Định, một chiếc xe hơi hàng hiệu, cọ quẹt hất mình và đứa con ngã xoài ra đường. Người thiếu phụ phốp pháp bước ra, xoè vài trăm ngàn cho mình, rồi thản nhiên đi tiếp (!).... Những ngày trời mưa thì khó khăn hơn, vì áo mưa, áo gió đùm đề. Thỉnh thoảng đang đi, những chiếc xe hơi hoặc xe máy chạy ngang tạt nước lên, tung toé muốn ngã. Dường như những người ngồi trên xe, ít ai quan tâm đến những hệ lụy gây ra cho người đi xe đạp. Những vũng nước cứ thế văng tung toé lên áo, lên tóc. Xe to quyền lớn, cứ chạy ào qua ....sống chết mặc bay. Nhiều lúc mình thắc mắc là những ai ngồi trên những chiếc xe đó ? Là những chàng tài xế vô tư làm tròn phận sự, hay là những người chủ nhân vô cảm, vô tâm ? Có đi xe đạp mới thương cảm cho người đạp xe. Những chiếc xe đạp chở xoài, chở cam , măng cụt, sầu riêng, ngã chổng ra đường, và những cái nhìn lạnh lùng quay vội bỏ đi. Những tấm cời co ro ngày mưa, choàng trước hụt sau, cố gắng che đậy những vốn liếng của một ngày ít ỏi. Nhiều mảng đời vẫn ngày hai bữa cọc cạch trên đôi bánh xe xiêu vẹo, trôi nổi khó qua...
Còn mình, thì cũng kéo dài được một thời gian. Sau thấy nguy hiểm quá, lại có con nhỏ ngồi phía sau, nên không đạp xe đưa con đến trường nữa !

Đúng ra thì đó cũng là một trong những câu chuyện xảy ra hàng ngày ở VN. Ngày đó và bây giờ, vẫn thế. Có những người bên này không hiểu chuyện bên kia. Người ngồi trên chiếc xe hơi sẽ không hiểu hết cái khó khăn của người đi xe đạp. Cũng có thể nhiều người đã từng còng mình trên những chiếc xe đạp ngày nào, nhưng rồi đến lúc được ngồi trên xe hơi, lại quên mất cái khó của mình ngày trước. Những câu chuyện tình người, quan tâm nhau, tôn trọng nhau, nghĩ cho người khác, nhất là nghĩ cho kẻ nghèo khó hoặc kẻ dưới .... hiếm hoi dần trong một xã hội đề cao vật chất, mang nặng tính hơn thua sĩ diện hảo. Cuộc sống vật chất đã thay đổi quá lẹ. Văn hoá ứng xử nặng tính hình thức càng làm cho người ta bám víu vào những cái "status" để tồn tại, để đi lên, để "liền chị liền em" trong xã hội mới. Và những chiếc xe đạp đã không thuộc về cái "status" của xã hội ngày hôm nay. Có thể xe đạp vẫn tồn tại ở những buổi dã ngoại, những kỳ nghĩ hè, những homestay ở miền duyên hải, hoặc giữa lòng phố Hội, hoặc trong khuôn viên của một resort sang trọng nào đấy ..... Nhưng để tồn tại được ở SG, Hà Nội, hay những thành phố lớn, thì xe đạp chỉ có thể là phương tiện kiếm sống sinh nhai của những người khốn khổ, kém may mắn. Cho nên mình nghĩ ước mơ nhiều người VN đi xe đạp trên quê hương hôm nay của anh bạn HN đấy quả là còn nhiều thử thách !

Nhưng dẫu gì đó cũng là một ước mơ đẹp. Ai lại không nhớ đến những kỷ niệm thưở học trò, xe đạp, đường xưa áo trắng phượng hồng. Ai chở mùa hè của tôi đi đâu ? Ai sắm nỗi chiếc vé quay về tuổi thơ ? Ai mang buổi đó đi rồi ... Một thứ hoài niệm !



Giờ mỗi khi coi con số nhập khẩu và lượng tiêu thụ xe máy, xe hơi, hàng năm ở VN, mình không thể hình dung được giao thông của SG, HN sẽ ra sao trong những ngày tháng tới. Hơn 40 năm trôi qua, những phương tiện giao thông công cọng vẫn còn ngổn ngang & đầy thử thách. Đôi khi nghĩ đến phong trào xe đạp của mấy nước văn minh châu Âu hiện nay, rồi nhìn lại những tấm hình của Hà Nội vào thập niên 70, 80, thoáng nghĩ xe đạp như ngày ấy thế mà hay. Thắc mắc có khi nào các cụ lãnh đạo Hà Nội ngày xưa đã có những tầm nhìn ưu việt, đỉnh cao trí tuệ, vượt thời gian, mà thế giới bây giờ mới ngộ ra và noi gương xe đạp VN chăng :-) ?

Bây giờ nhiều lúc bị kẹt xe ở ngoài đường, mình lại ước gì trở lại thời xe đạp. Rồi nhớ đến ông Bút Tre, mà cứ thế tiến lên đi về phía trước ....

Thi đua ta quyết tiến lên
Tiến lên, ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu không biết đi đâu
Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi ....(BT)


Saturday, August 11, 2018

Nghịch lý và Ngộ nhận về Chiến tranh Thương mại Mỹ-Trung (Nguyễn Quang Dy)

Nghịch lý và Ngộ nhận về Chiến tranh Thương mại Mỹ-Trung
(Nguyễn Quang Dy)

Gần hai tháng qua, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đã trở thành tâm điểm của dư luận thế giới, gây tranh cãi tại Washington và làm đau đầu Bắc Kinh (cũng như các thủ đô khác). Để hiểu diễn biến phức tạp và hệ quả khôn lường của cuộc chiến tranh thương Mỹ-Trung, cần lý giải một số nghịch lý và ngộ nhận liên quan đến sự kiện quan trọng này. 

Cách đây khoảng vài thập kỷ, có một nhà tư tưởng giáo dục (hình như Peter Drucker) đã nói rằng giáo dục truyền thống dạy học viên về một thế giới không còn tồn tại (traditional education teaches students about a world that no longer exists). Thế giới ngày càng phi truyền thống và biến động khôn lường (như đoàn tầu siêu tốc), nhưng tư duy con người vẫn chuyển chậm (như chiếc xe ngựa cũ). Làm sao chiếc xe ngựa 0.4 đuổi kịp đoàn tầu 4.0?

Những nghịch lý về hệ quy chiếu

Trước hết, khi phân tích diễn biến bàn cờ chính trị quốc tế, nhiều người thường bỏ qua hay coi nhẹ nhân tố chính trị nội bộ (domestic/bureaucratic politics) của các bên liên quan. Ngược lại, khi phân tích diễn biến chính trị nội bộ một nước, nhiều người hay bỏ qua hay coi nhẹ nhân tố quốc tế đang tác động đến diễn biến trong nước. Cả hai cách đề cập đó đều không đầy đủ và thiếu chính xác, dẫn đến ngộ nhận và nhầm lẫn về bức tranh vốn phức tạp trong quan hệ giữa các nước lớn (như Mỹ-Nga-Trung). Vì vậy, không thể tách cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung ra khỏi bàn cờ chiến lược nước lớn, và hiện tượng Trumpism.

Thứ hai, khi đánh giá một nhân vật đặc thù khác thường (như Donald Trump) thường có hai khuynh hướng. Một là chê bai và phủ định, vì chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực mà không thấy mặt tích cực. Hai là khen ngợi và khẳng định, vì chỉ nhìn thấy mặt tích cực mà không thấy mặt tiêu cực. Cả hai khuynh hướng đó đều cực đoan, không chính xác và thiếu hụt (như một cốc nước vơi), không phản ánh đúng sự thực khách quan. Ngoài lý do thiếu hụt thông tin, còn do hệ quy chiếu khác nhau (paradigms), nên người ta thường ngộ nhận và nhầm lẫn.

Thứ ba, khi phân tích một sự kiện hay nhân vật nào đó, thường có hai quan điểm khác nhau do hệ quy chiếu khác nhau. Một là hệ quy chiếu “truyền thống” (traditional/conventional), hai là hệ quy chiếu “phi truyền thống” (unconventional). Khi đánh giá một nhân vật “phi truyền thống” (như Donald Trump), nếu áp dụng hệ quy chiếu “truyền thống”, thì dễ ngộ nhận và sai lạc, nên  không lý giải được bản chất vấn đề (có nhiều ẩn số). Có người hỏi “Trump khôn hay dại, tốt hay xấu?”. Đó là câu hỏi “trắng đen” (black & white) làm đơn giản hóa vấn đề (simplistic) trong khi sự thật vốn phức tạp hơn vì “trong âm có dương, trong dương có âm”.

Thứ tư, “mọi người sinh ra đều bình đẳng” (men are born equal), nhưng suy nghĩ và cảm xúc khác nhau, nên quan điểm và thái độ của họ cũng khác nhau trước một sự kiện hay nhân vật. Nhưng sự khác biệt (diversity) không phải là vấn đề mà sự nhầm lẫn (confusion) mới là vấn đề bất cập. Khi cần lý trí (để phân tích) thì người ta lại bị tâm trạng bức xúc làm sai lạc vấn đề. Khi cần cảm xúc (để cảm thông) thì người ta lại dựa nhiều vào lý trí nên vô cảm. Vấn đề không phải đúng hay sai, mà là lẫn lộn (không đúng lúc, đúng người, đúng việc).   

Sự ngạo mạn về quyền lực và cái bẫy Thucydides

Hai mươi năm sau chiến tranh Viêt Nam, Robert McNamara xuất bản cuốn sách “Hồi tưởng: Bi kịch và bài học Việt Nam” (In Retrospect: the Tragedy and Lessons of Vietnam, Random House, New York, 1995), thừa nhận sai lầm (hay ngộ nhận). Tuy ông McNamara tự vấn lương tâm hơi muộn (too little too late) nhưng “muộn còn hơn không”. Tuy nhiên, nước Mỹ vẫn lặp lại sai lầm tại Iraq và Afganistan, trong khi bỏ mặc Biển Đông cho Trung Quốc. 
Gần ba thập kỷ trước đó, TNS Fulbright đã xuất bản cuốn sách “Sự Ngạo mạn về Quyền lực” (Arrogance of Power, William Fulbright, Random House, New York, 1967) chỉ trích sai lầm của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Có lẽ sự ngạo mạn về quyền lực là căn bệnh cố hữu của kẻ mạnh, làm cho họ ngộ nhận và mù lòa về “giới hạn của quyền lực”. Không phải chỉ có người Mỹ mà người Trung Quốc cũng mắc căn bệnh này (với “đặc sắc Trung Quốc”). Một số quan chức Trung Quốc có thói quen nhắc nhở người khác rằng “Trung Quốc là nước lớn” (như hiện tượng “Freudian slip”). Tại một cuộc họp tại Hà Nội (năm 2010) Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) đã nói thẳng vào mặt ngoại trưởng Singapore rằng “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác đều bé” (China is a big country and other countries are small).
Trong một chuyến thăm Miến Điện (Myanmar) cách đây mấy năm, khi tôi hỏi mười người dân là họ ghét ai nhất, thì chín người nói họ ghét nhất các tướng tá quân đội và người Trung Quốc. Không chỉ có Miến Điện, mà gần đây Bắc Triều Tiên và Malaysia đều muốn “thoát Trung”, mặc dù họ rất cần túi tiền của Trung Quốc. Hầu hết các nước láng giềng (từ Việt Nam đến Myanmar đến Thailand đến Lào và Campuchea) đều sợ và ghét thái độ ngạo mạn đó, tuy một số nước đang mắc vào cái “bẫy nợ” (debt trap) của Trung Quốc (như một bi kịch). 
Gần đây, Graham Allison (giám đốc Belfer Center, Harvard KSG) nổi tiếng vì thuyết cái bẫy “Thucydides trap”. Allison lập luận rằng sớm muộn Mỹ (cường quốc cũ) và Trung Quốc (cường quốc mới trỗi dậy) sẽ bị xô đẩy vào cuộc chiến tranh khó tránh khỏi. Một số nhà nghiên cứu khác cũng lo ngại chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang leo thang có thể là màn khởi đầu (prelude) dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới mới. Tôi hy vọng là họ sai.   
Bàn cờ chiến lược mới và Trumpism   

Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung là một phần của bàn cờ chiến lược mà Mỹ đang triển khai (theo NDS & NSS) nhưng không tách rời hiện tượng “Trumpism”. Đó là một hiện tượng bất thường trong chính trường Mỹ, làm đảo lộn bàn cờ chính trị nước Mỹ và thế giới. Vì vậy cuộc chiến thương mại diễn biến khó lường, đang vượt ra khỏi những khuôn khổ và hệ quy chiếu mà người ta đã quen mấy thập kỷ qua (từ thời chiến tranh lạnh đến nay).

Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung làm nhiều người bất ngờ, và làm người Trung Quốc đau đầu, vì nó diễn ra theo một quy luật và lộ trình khác trước. Nó không giống chiến tranh thương mại trước đây thường diễn ra giữa hai bờ Đại Tây Dương (hay với Nhật). Nó không chỉ làm đảo lộn cán cân thương mại Mỹ-Trung (hay với đồng minh) mà còn đe dọa làm đảo lộn bàn cờ chiến lược toàn cầu và trật tự thế giới. Nếu coi chiến tranh thương mại Mỹ-Trung cũng giống như với châu Âu hay với Nhật là nhầm lẫn, như “thấy cây mà không thấy rừng”.

Khi cử tri Mỹ bỏ phiếu cho Trump, họ không chỉ bỏ phiếu cho nhân vật bất thường đó, mà còn bỏ cho xu hướng muốn phục hồi nước Mỹ “vĩ đại trở lại”. Trump đã nhanh tay nắm bắt được xu hướng đó và thành công. Không phải Trump giỏi, mà các ứng viên khác của cả hai đảng dở, vì họ đã vô cảm trước những đòi hỏi thay đổi của cử tri Mỹ. Vì vậy trong những năm tới đây, dù Trump được tái cử hay thất cử, và ai khác lên thay thì chắc xu hướng đó vẫn tồn tại, vì nó lớn hơn cả Trump và Nhà Trắng. Dù Steve Bannon đã mất chức (cố vấn chiến lược của Trump), nhưng tư tưởng Bannonism vẫn còn tồn tại. Trump và Bannon tham vọng muốn thay đổi trật tự nước Mỹ và trật tự thế giới. Trump phải giữ lời hứa với cử tri lúc tranh cử, vì biết rằng đó là bảo bối duy nhất để ông chiếm được Nhà Trắng. dù có phải nói dối. 

Theo cách tính của Washington Post (Fact Checker’s database) Trump đã nói dối 3.259 lần (từ 1/6 đến nay) tính trung bình mỗi ngày 6,5 lần. Có lẽ đó là một kỷ lục. Theo Joe Nye, tuy nói dối không giống nhau (not all lies are born equal), nhưng nói dối quá nhiều sẽ làm suy giảm lòng tin (Too many lies debases the currency of trust). Tổng thống có thể nói dối để xóa dấu vết (cover his tracks), tránh bị mất mặt (avoid embarrassment), làm hại đối thủ (harm a rival) hay chỉ vì tiện lợi (for convenience). Trong khi nhiều người cho rằng Trump nói dối là do thói quen (out of habit), nhưng căn cứ vào tần xuất, lặp đi lặp lại, và tính chất sỗ sàng của lời nói dối, nó không phản ánh thói quen, mà là một chiến lược có chủ ý để làm tổn thương cơ chế sự thật. (White House of Lies, Joseph Nye, Project Syndicate, August 7, 2018). 

Có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về Trump. Có lẽ ông là tổng thống Mỹ gây tranh cãi nhiều nhất (chủ yếu là trái chiều) như một hiện tượng lạ trong lịch sử. Không phải chỉ có chính giới Mỹ, mà các học giả và báo chí Mỹ (và phương Tây) đều không thích Trump, trong khi ông dám công khai gọi báo chí Mỹ là “kẻ thù của nhân dân” (tuy con gái rượu Ivanka không đồng tình). Mặc dù Trump tạo ra nhiều tai tiếng như “một thiên tài ổn định” (a stable genius), nhưng ông lại nhất quán (ít nhất là đến nay) với tuyên bố lúc tranh cử (như “America first”). Tuy Trump phát biểu thiếu nhất quán (trên twitter), nhưng ông hành động nhất quán (như muốn thay đổi nước Mỹ). Nói cách khác, Trump không nhất quán, nhưng Trumpism nhất quán. 

Chiến tranh thương mại và Lighthizerism

Trong Nhà Trắng hiện nay, tuy Robert Lighthizer (Trade Reperesentative) và Peter Navarro (National Trade Council Director) không phải là “cặp đôi hoàn hảo”, nhưng cùng quan điểm cứng rắn với Trung Quốc, và được lòng Trump. Đó là hai nhân vật chủ chốt (như cánh tay phải và tay trái của Trump) trong cuộc chiến thương mại với Trung Quốc. Tuy chúng ta đã biết khá nhiều về Navarro, nhưng còn biết khá ít về Lighthizer. Nếu muốn hiểu chiến tranh thương mại Mỹ-Trung mà không biết rõ về Lighthizer thì thật thiếu sót. Chính Lighthizer mới là người điều hành cuộc chiến thương mại (như “trade czar”) chứ không phải Trump.

Nếu Peter Navarro là một giáo sư kinh tế vào loại trung bình ở Mỹ (chỉ thạo về lý thuyết), thì Lighthizer là một người điều hành chính sách chuyên nghiệp. Năm 1983, khi mới 36 tuổi Lighthizer đã từng làm phó đại diện thương mại (ngang thứ trưởng). Không chỉ có kinh nghiệm đàm phán thương mại, Lighthizer còn là một luật sư có nhiều kinh nghiệm chính trường. Năm 1996, Lighthizer từng làm cố vấn kinh tế cho Bob Dole, thượng nghị sỹ đảng Cộng hòa (tranh cử tổng thống năm 1996). Trong khi Trump nói bạt mạng (bất nhất), thì Lighthizer hành động nhất quán, theo một chủ thuyết (mà người ta gọi là “Lighthizerism”).

Triết lý kinh tế của Lighthizer có vai trò chủ đạo trong chính quyền Trump hiện nay, không phải để “co cụm lại” (retrenchment) mà để giành lại vai trò đầu tàu của Mỹ trên thế giới về sản xuất công nghiệp (manufacturing). Nó không nhằm chấm dứt toàn cầu hóa, mà tạo ra một giai đoạn toàn cầu hóa mới (more aggressive). Tầm nhìn của Lighthizer có thể tồn tại còn lâu hơn cả chính quyền Trump. Theo Lighthizer, để đối phó với “chủ nghĩa tư bản nhà nước” của Trung Quốc, Mỹ nên bắt chước đối phương để trở thành “tư bản nhà nước cao hơn”.

Các chính khách Mỹ đã tin vào thắng lợi tất yếu của nền dân chủ và tư bản (sau sự kiên bức tường Berlin), nên họ cứ tưởng Trung Quốc sẽ tất yếu đi theo dân chủ và tư bản. Đó là một sự ngộ nhận vì ngạo mạn (hubris). Trong buổi điều trần tại Quốc hội (26/7/2018) Lighthizer nhấn mạnh “người Trung Quốc có hệ thống của họ và đang thách thức hệ thống của chúng ta” (They have a system, and their system is challenging our system). Lighthizer khẳng định (9/2017) chủ nghĩa tư bản nhà nước của Trung Quốc là “mối đe dọa chưa từng có đối với hệ thống thương mại thế giới” (a threat to the world trading system that is unprecedented). (You Live in Robert Lighthizers World Now, Quinn Slobodian, Foreign Policy, August 6, 2018).

Những nghịch lý và ngộ nhận 

Thời chiến tranh lạnh, Tổng thống Nixon và Kissinger đã bắt tay với Mao Chủ tịch (năm 1972) để dùng “lá bài Trung Quốc” đối phó với Liên Xô. Nước cờ táo bạo đó đã làm đảo lộn bàn cờ thế giới, và chính sách “một nước Trung Quốc” đã tồn tại từ đó đến nay. Mỹ và phương Tây đã triển khai chính sách “can dự xây dựng” (constructive engagement) để giúp Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình”, tưởng một ngày nào đó Trung Quốc giàu mạnh sẽ trở thành “một nước dân chủ như chúng ta”. Trung Quốc đã làm theo lời khuyên của Đặng Tiểu Bình “ẩn mình chờ thời”, tranh thủ thời cơ để trỗi dậy, không chỉ trở thành siêu cường kinh tế (như Nhật Bản) mà còn đang trở thành siêu cường quân sự để vượt Mỹ, nhằm bá chủ thế giới. 

Tại sao người Trung Quốc đã dễ dàng qua mặt được người Mỹ? Không phải chỉ vì người Trung Quốc khôn ngoan, mà còn do người Mỹ (và phương Tây) ngờ nghệch, đã ngộ nhận và ảo tưởng rằng “bản sắc Trung Cộng” có thể thay đổi, khi Trung Quốc giàu mạnh. Nay người Mỹ tỉnh ngộ nhận ra sai lầm thì quá muộn, và phải trả giá đắt. Trung Quốc đã trở thành Frankenstein (theo lời Richard Nixon). Đó là một “hệ quả bất định” (unintended consequence). Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung không đơn thuần về thương mại như người ta tưởng.

Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ (năm 2016) Donald Trump đã lần lượt đánh bại các ứng cử viên nổi tiếng của cả hai đảng Cộng Hòa và đảng Dân Chủ, làm nước Mỹ và thế giới bất ngờ. Tại sao các chính khách chuyên nghiệp tài giỏi (như Hillary Clinton) lại thua một người như Trump? Có nhiều lý do, nhưng chủ yếu vì họ đã ngạo mạn và ngộ nhận nên vô cảm trước các thực tế mới. Nhiều chuyên gia (như pollters/pundits) cũng ngộ nhận và dự đoán sai. Vì vậy, ngộ nhận là căn bệnh cố hữu của con người, không trừ một ai. Không phải chỉ có người dốt mới ngộ nhận và sai lầm, mà những người tài giỏi càng dễ ngộ nhận và sai lầm. 

Tập Cận Bình cho rằng Trung Quốc đã đủ mạnh và đến lúc Trung Quốc không cần “ẩn mình chờ thời”.  Trung Quốc đã công khai thách thức Mỹ, và quyết vượt Mỹ bằng chiến lược “Một Vành đai Một con đường” (BRI) và “Made in China 2025”. Lâu nay Trung Quốc quen dựa vào công nghệ và đầu tư của Mỹ và phương Tây để phát triển nhanh bằng xuất khẩu. Nhưng chiến tranh thương mại và chiến lược quốc phòng (NDS) đang đe dọa chặn đứng tham vọng này của Trung Quốc. Nay đến lượt người Trung Quốc ngộ nhận và mắc sai lầm.

Trò chơi quyền lực mới

Ngày 2/12/2016, Henry Kissinger (93 tuổi) đã đến Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình, và được Tập ca ngợi là “người bạn lớn” của Trung Quốc. Sự kiện đó diễn ra ngay sau khi Trump thắng cử, và điện đàm với tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn (cùng ngày 2/12/2016) làm Tập Cận Bình bất ngờ và tức giận. Có thể lúc đó Trump đã nghĩ đến “lá bài Đài Loan” và “lá bài Nga” để đối phó với Trung Quốc (nhưng còn quá sớm). Có lẽ tầm nhìn chống Trung Quốc là chiến lược nhất quán (lâu dài), còn quan hệ thân thiện với Tập là chiến thuật (trước mắt), để đối phó với Bắc Triều Tiên. Nay Trump đã bắt tay với Kim Jong-Un (12/6/2018), thì có lẽ đến lúc Trump có thể bắt tay với Putin để đối phó với Trung Quốc (tuy còn nhiều tranh cãi).

Sau khi Tập Cận Bình củng cố được quyền lực tuyệt đối tại Đại Hội Đảng 19 (như “Hoàng đế Đỏ”), Trump đã công bố chiến lược quốc phòng (NDS) và bổ nhiệm John Bolton (một nhân vật diều hâu thân Đài Loan) làm chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia (thay McMaster). Trong bối cảnh đó, “người bạn lớn” Kissinger có thể “trở mặt” khuyên Trump dùng “lá bài Nga” để đối phó với Trung Quốc (điều đó chẳng có gì lạ). Nhưng nếu Tập bị bất ngờ thì chứng tỏ ông đã ngộ nhận và quên rằng “không có đồng minh vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn”. Theo báo Daily Beast (26/7/2018) quan điểm về “lá bài Nga” đã được các cố vấn chủ chốt của Trump tán thành, trong đó có Jared Kushner (con rể và cố vấn cấp cao trong Nhà Trắng).

Nếu Mỹ thực sự bắt tay với Nga để đối phó với Trung Quốc như “mối đe dọa số một” (theo NDS) thì đó là tin xấu (bad news) cho Bắc Kinh. Tuy nhiên, kịch bản này không dễ như “một bữa tiệc” (a dinner party), vì Putin “quyền biến” và chơi bài poker giỏi. Chưa biết bao giờ Putin sang thăm Washington (theo lời mời của Trump) và còn quá sớm để dự đoán kết cục của nước cờ tiếp. Tuy nhiên, khi Trump bắt tay Kim ở Singapore (12/6/2018) và bắt tay Putin ở Helsinki (16/7/2018) chắc Tập Cận Bình đang nín thở theo dõi. Cuộc gặp Trump-Kim tuy chưa có kết quả rõ ràng, nhưng đó là một bước ngoặt chiến lược tại bán đảo Triều Tiên. Có lẽ Bắc Kinh đã đánh giá sai về Trump, và các đồng minh EU của Mỹ. Không biết đó là lỗi của Lưu Hạc (không nhạy bén) hay của Tập Cận Bình (không chịu lắng nghe), nhưng chuyến đi Mỹ của Lưu Hạc (15-19/5/2018) đã thất bại vì “quá ít quá muộn” (too little too late).   

Theo báo Financial Times (20/7/2018) Kissinger đã từng cảnh báo nếu Mỹ và châu Âu chia rẽ thì “châu Âu sẽ trở thành chư hầu của lục địa Âu-Á” bị Trung Quốc thao túng. Có một nghịch lý là nhiều người trong Quốc Hội và giới báo chí Mỹ (cũng như đồng minh NATO) đang tỏ ra bảo thủ và chậm thay đổi tư duy chiến lược còn hơn người Trung Quốc. Dù sao, cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung sẽ kéo dài và kéo theo chiến tranh về tiền tệ, về công nghệ, và địa chính trị, nên sẽ quyết liệt và khó lường. Đó là trò chơi quyền lực mới giữa hai siêu cường có hệ quy chiếu và hệ điều hành khác hẳn nhau. Trong cuộc chiến này, chưa có dấu hiệu hay lý do để Trump xuống thang đàm phán, như Bắc Kinh vốn ảo tưởng và ngộ nhận. 

Theo các chuyên gia, Mỹ đã vô hình trung theo một chính sách thương mại “ngõ cụt” (cul de sac). Bằng cách kích cầu tài khóa (fiscal stimulous) và tăng sản xuất (manufacturing) chính quyền Trump khuyến khích đầu tư, làm thâm hụt thương mại càng nặng. Với lãi suất tăng cùng với tăng trưởng, đồng USD sẽ lên giá, làm cản trở xuất khẩu. Vì vậy, Mỹ càng tìm cách tháo gỡ vấn đề thương mại, thì vấn đề đó càng lớn. Rủi ro hiện nay là chính quyền Trump thất vọng với hệ quả chính sách, lại càng phải “chơi rắn hơn” (double down). Tuy chính quyền Trump đã đi quá xa, nhưng họ có thể cho rằng vẫn chưa đủ xa. (The Trump Administration’s Dead End on Trade, James McCormack, Project Syndicate, August 9, 2018).

Những hệ lụy nhãn tiền

Theo Financial Times, thị trường chứng khoán Trung Quốc đã mất 2.290 tỷ USD (tương đương 27%) trong tám tháng qua. Hôm 3/8/2018 (sau bốn năm) Nhật đã thay thế Trung Quốc, trở thành TTCK lớn thứ hai thế giới. Bắc Kinh tuyên bố sẽ đánh thuế lên 110 tỷ USD so với 130 tỷ USD giá trị hàng hóa Mỹ nhập vào Trung Quốc năm 2017, trong khi Mỹ tuyên bố sẽ đánh thuế lên 250 tỷ USD trong tổng số 505 tỷ USD giá trị hàng hóa Trung Quốc nhập vào Mỹ năm 2017. Cả hai bên vẫn chưa có dấu hiệu xuống thang, làm tăng nguy cơ bùng phát một cuộc chiến tổng lực giữa hai siêu cường kinh tế đứng đầu thế giới. IMF cảnh báo cuộc chiến thương mại này có thể làm trật bánh xe tăng trưởng kinh tế toàn cầu. (Trump claims US is winning trade war with China, Yuan Yang & Sam Fleming, Financial Times, August 6, 2018).

Cùng với chiến tranh thương mại, Mỹ đang triển khai chiến lược quốc phòng. Ngày 1/8/2018, Quốc hội Mỹ đã thông qua Luật Ủy quyền Quốc phòng (NDAA) cho năm tài chính 2019, với ngân sách mới (716 tỉ USD, tăng 16 tỉ USD so với năm tài chính 2018). Tiếp theo NDS, luật NDAA đề ra ba mục tiêu chính tại Biển Đông: Thứ nhất là chi 425 triệu USD về thiết bị và đào tạo (trong 5 năm tới) cho các nước khu vực (như Philippines, Indonesia, Malaysia, Việt Nam). Thứ hai là khai trừ Trung Quốc khỏi các cuộc diễn tập RIMPAC. Thứ ba là Lầu Năm Góc phải báo cáo với Quốc hội về sự bành trướng gia tăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo Greg Poling (CSIS/AMTI director), tuy NDAA có thể chưa đủ sức ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy, nhưng đây là “một phát súng cảnh cáo Trung Quốc” của Quốc hội Mỹ.
Theo một số chuyên gia Trung Quốc, Bắc Kinh “đã mắc hai sai lầm lớn”. Một là họ đã đánh giá sai về Trump và quá tự tin cho rằng Trump chỉ dọa già vì lý do chính trị (sắp bầu cử giữa kỳ). Vì vậy, Bắc Kinh đã coi thường và không nhạy bén trước tâm lý “bài Trung” đang dâng cao trong chính giới Mỹ. Hai là Bắc Kinh đã ngộ nhận, tưởng liên minh Mỹ-châu Âu đang rạn nứt nên họ có thể phân hóa, lôi kéo các nước EU theo mình (để đối phó với Mỹ). Trong khi Trump là người bất thường và khó lường, Tâp lại quá tự tin và không lắng nghe (hoặc các cố vấn không dám nói) nên Bắc Kinh đã xa rời thực tế, không nắm được bức tranh thực sự, nên mới bị bất ngờ và bị động trước các đòn quyết liệt của Trump. Nếu cuộc chiến tranh thương mại này kéo dài, kinh tế Trung Quốc có nguy cơ suy thoái và sa vào “bẫy thu nhập trung bình”.

Sắp tới nếu Trung Quốc phá giá đồng NDT (Yuan) khoảng 12% (như dự báo) để đối phó với tuyên bố của Trump sẽ tăng thuế lên 25% trên 200 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc (từ tháng 9/2018). Nếu điều đó diễn ra, các nước Đông Nam Á (như Malaysia, Thailand, Indonesia, và Việt Nam) sẽ bị “hoảng loạn” (panic). Theo báo Guardian (4/7/2018), rạn nứt đã xuất hiện trong hệ thống quyền lực tuyết đối của Tập Cận Bình. Có nhiều tin đồn là Tập sẽ “bị rắc rối” tại hội nghị Bắc Đới Hà (đang họp), vì các vấn đề như: (1) chiến tranh thương mại với Mỹ, (2) kinh tế đang phát triển chậm lại, (3) vụ bê bối về vaccine cho trẻ em. (Cracks appear in invincible Xi Jinping’s authority over China, Lily Kuo, the Guardian, August 4, 2018).

Theo chuyên gia kinh tế Phạm Đỗ Chí, “mối lo lớn nhất hiện nay về chiến tranh thương mại là đồng NDT phá giá”. Nếu Việt Nam buộc phải phá giá VNĐ để đối phó, lạm phát sẽ tăng. Nếu tỷ giá VNĐ giảm tới mức 24,500-25,000 VNĐ/1 USD, áp lực lên nền kinh tế sẽ rất lớn. Nhưng Ngân hàng Nhà nước không nên bảo vệ tỷ giá bằng cách dùng dự trữ ngoại hối để can thiệp, vì dự trữ hiện nay (trên 70 tỷ USD) có thể bay mất trong vòng 1 tháng. Một số người cho rằng Việt Nam sẽ có lợi (về lâu dài) khi chuỗi cung ứng dịch chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam, trong khi “tác động của đồng NDT phá giá là ngay lập tức”. (Forget US China trade war tariffs this is what really worries Asia, Bhavan Jairagas, SCMP, August 4, 2018).

Các chuyên gia quốc tế nói gì

Các chuyên gia thường có ý kiến đánh giá khác nhau về bối cảnh và bản chất chiến tranh thương mại và quan hệ Mỹ-Trung. Nghiên cứu gần đây của David Shambaugh đáng chú ý. Ông đã dành nhiều thời gian nghiên cứu sâu về khu vực (năm 2017), nhưng đáng tiếc là tài liệu này chưa cập nhật được các sự kiện quan trọng diễn ra trong năm 2018 (gặp cấp cao Mỹ-Triều, thay đổi chính phủ Malaysia, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung). Bài của Minxin Pei và Elizabeth Economy bổ sung kịp thời, tuy các chuyên gia có quan điểm hơi khác nhau. 

Theo Shambaugh, Mỹ và Trung Quốc đang cạnh tranh ngày càng toàn diện ở Đông Nam Á, cả về chiến lược và các lĩnh vực khác (như thương mại). Sự cạnh tranh này là “mềm” (soft) chứ không phải “cứng” (hard), và gián tiếp (indirect) chứ không phải trực tiếp (direct). Đó chưa phải là cạnh tranh bằng phản ứng tức thì, ăn miếng trả miếng, chỉ có thắng hay thua (acute action-reaction, tit-for-tat, zero-sum competition) như thời chiến tranh lạnh.

Shambaugh cho rằng hai siêu cường này có thể đạt được một dạng thức “cùng tồn tại trong cạnh tranh” (competitive coexistence). Vì vậy cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung có thể được giới hạn để không trở thành đối kháng hay máy móc (adversarial or kinetic). Các nước khu vực có vai trò cốt yếu nếu duy trì “các chiến lược cân bằng, trung lập và truyền thống” (traditional, neutralist hedging strategies). Một số nước gần đây ngả theo Trung Quốc không giúp được gì cho họ, mà còn gây áp lực buộc Mỹ phải có chiến lược đối phó với Trung Quốc. Tầm nhìn “Indo-Pacific tự do và rộng mở” của chính quyền Trump là một minh chứng cụ thể. 

Theo Shambaugh, khi Trung Quốc bành trướng quá trớn (overreaches) và trở nên quá hung hăng tại khu vực (như đang diễn ra), Mỹ cần tăng cường sự có mặt (về quân sự) để được các nước khu vực coi là một đối tác tin cậy. Đã đến lúc Mỹ phải vượt qua sự can dự lẻ tẻ tại Đông Nam Á, để có vai trò quan trọng hơn về chiến lược tại khu vực này, và coi đó là một ưu tiên trong cam kết toàn cầu của Mỹ. (U.S.-China Rivalry in Southeast Asia: Power Shift or Competitive Coexistence? David Shambaugh, International Security, May 2018).

Theo Minxin Pei, Tập Cận Bình đang phải đối phó với “một mùa hè tồi tệ nhất kể từ khi lên cầm quyền” (từ 12/2012). Có những dấu hiệu bất ổn đang làm người Trung Quốc, đặc biệt là giới tinh hoa, “cảm thấy thất vọng, lo lắng, tức giận, bất lực, và bất bình đối với các nhà lãnh đạo đầy quyền lực của họ”. Về kinh tế, chứng khoán tiếp tục lao dốc, làm dự trữ ngoại hối bay theo, trong khi đồng NDT tiếp tục bị phá giá, làm kinh tế Trung Quốc phát triển chậm lại. Về cơ bản, Trung Quốc vẫn phụ thuộc sâu sắc vào thị trường và công nghệ Mỹ. “Trong khi Trung Quốc muốn trở thành bá chủ thế giới và lập lại trật tự toàn cầu, thì chiến tranh thương mại đang làm Trung Quốc bộc lộ các mặt yếu kém như một “người khổng lồ chân bằng đất sét”. (Chinas Summer of Discontent, Minxin Pei, Project Syndicate, August 2, 2018).

Theo Elizabeth Economy (CFR), Trung Quốc muốn thay đổi thế giới theo chủ ý của họ và “dẫn dắt cải cách về quản trị toàn cầu” (lead in the reform of global governance). Trong khi Hồ Cẩm Đào nói rằng Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình” (peacefully rising), thì Tập Cận Bình tuyên bố mục tiêu là “thống nhất Trung Quốc trước năm 2049”. Tập Cận Bình tuyên bố Trung Quốc “có ý định và năng lực thay đổi trật tự thế giới”. Trung Quốc đã thiết lập căn cứ quân sự đầu tiên tại Djibouti (2017) và tiếp theo chắc sẽ có nhiều căn cứ tại các nước khác. Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc đã kiểm soát 76 hải cảng tại 35 nước. (Xi Jinping’s Superpower Plans, Elizabeth Economy, Wall Street Journal, July 19, 2018).

Lời kết

Một số người cho rằng Trung Quốc “còn nhiều cửa”, nhưng theo tôi các “cửa sổ cơ hội” (nếu có) đang khép lại. Về cơ bản, Trung Quốc chỉ có ba sự lựa chọn: Một là đầu hàng. Hai là leo thang. Ba là chọn giữa đầu hàng và leo thang. Đến nay, dường như Trung Quốc đang chọn cách thứ ba. Nói một cách khác, Mỹ và Trung Quốc như hai con voi khổng lồ đang mắc kẹt vào một trò chơi quyền lực mới (a new game of thrones). Tuy đã quá muộn để hai con voi dừng lại (vì quá kiêu ngạo), nhưng còn quá sớm để chúng thỏa hiệp (hay lùi bước).

Theo hầu hết các chuyên gia, sự lựa chọn khôn ngoan nhất hiện nay là Việt Nam hãy nhân cơ hội này để “thoát Trung”. Cần cải cách thể chế toàn diện (đổi mới “vòng 2”) để tạo đà phát triển mới, và hội nhập vào kinh tế toàn cầu (theo luật chơi quốc tế). Đây là lúc “Mỹ-Trung đánh nhau và hành động của chúng ta” (như năm 1945). Trong bối cảnh đó, nếu thông qua “luật An ninh Mạng” và “luật Ba Đặc khu” là lợi bất cập hại, như “tự bắn vào chân mình”.  Nếu vẫn kiên định bảo vệ quan hệ truyền thống với Bắc Kinh (vì “đại cục”), tiếp tay cho Trung Quốc né tránh thuế quan của Mỹ bằng hàng “made in Vietnam” để tái xuất qua các “Đặc khu Kinh tế” và “Khu Hợp tác Kinh tế Qua Biên giới”, chắc không thoát được trừng phạt của Mỹ.

Trong khi chính quyền Trump đã bỏ TPP (và chưa biết bao giờ quay lại), Đức đã cắt quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam (vì vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh). Nay quan hệ của Việt Nam với Slovakia cũng đang khủng hoảng, đe dọa triển vọng ký kết EVFTA. Nếu quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ cũng bị khủng hoảng làm Việt Nam bị vạ lây (như một hệ quả kép) vì chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang leo thang, không biết Việt Nam sẽ dựa vào đâu để phát triển, và bảo vệ chủ quyền của mình tại Biển Đông. Đây là một bi kịch quốc gia.

Tham khảo

1. US-China Rivalry in Southeast Asia: Power Shift or Competitive Coexistence? David Shambaugh, International Security, May 2018

2. The Shape of Sino-American Conflict, Minxin Pei, Project syndicate, June 6, 2018

3. China’s Summer of Discontent, Minxin Pei, Project Syndicate, August 2, 2018

4. Xi Jinping’s Superpower Plans, Elizabeth Economy, Wall Street Journal, July 19, 2018

5. As China’s Woes Mount, Xi Jinping Faces Rare Rebuke at Home, Chris Buckley, New York Times, July 31, 2018.

6. Hot water, Bill Hayton, Mekong Review, Issue 12, August 2018. (Review of Asian Waters: The Struggle Over the Asia Pacific and the Strategy of Chinese Expansion, Humphrey Hawksley, Overlook Press, June 2018).

7. Cracks appear in invincible Xi Jinping’s authority over China, Lily Kuo, the Guardian, August 4, 2018.

8. Forget US-China trade war tariffs: this is what really worries Asia, Bhavan Jairagas, South China Morning Post, August 4, 2018.

9. Trump claims US is winning trade war with China, Yuan Yang & Sam Fleming, Financial Times, August 6, 2018

10. You Live in Robert Lighthizer’s World Now, Quinn Slobodian, Foreign Policy, August 6, 2018

11. White House of Lies, Joseph Nye, Project Syndicate, August 7, 2018).  2018

12. The Trump Administration’s Dead End on Trade, James McCormack, Project Syndicate, August 9, 2018

NQD. 10/8/2018
(Tác giả gửi cho viet-studies ngày 10-08-2018)

Wednesday, August 08, 2018

Chuyện ngôi sao ở Hollywood !

Đúng là chuyện chỉ có ở Mỹ. Hôm qua hội đồng thành phố West Hollywood bàn tính chuyện bỏ đi ngôi sao của Tổng thống Trump trên đại lộ danh vọng Hollywood. Quê ta ai dám làm thế :-) .
May quá, mới hôm bữa mình còn chụp được ngôi sao của T/T Donald Trump để dành làm kỷ niệm. Hai đứa con mình cũng tranh thủ tậu 2 ngôi sao trên đại lộ đó, nhìn cho ngầu ....hehehe.

City of West Hollywood calls for Trump Walk of Fame star to be removed









Tuesday, August 07, 2018

Cõng Mẹ đi chơi

Cuối tuần rồi, SG trời mưa tầm tả. Đi ra phi trường, trên xe ông anh mở bài nhạc này... Wow, quê hương níu lại !


Tuệ Sỹ trên ngõ về im lặng - Tâm Nhiên

Tuệ Sỹ trên ngõ về im lặng
Tâm Nhiên




Giữa thiên đường rong chơi lêu lổng
Cõi vĩnh hằng mờ nhạt rong rêu
Ta đi xuống quậy trần hoàn nổi sóng
Đốt mặt trời vô hạn cô liêu

Thơ Tuệ Sỹ hào sảng, hùng tâm tráng khí , nổi bật lên như một hiện tượng độc đáo, gây bao nguồn cảm hứng cho những tâm hồn ưa thích thiền học, thi ca và phiêu lãng.
“Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực Tây phương.” * Bùi Giáng đã nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không đề :

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng ?
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn

Trừ thi sĩ Bùi Giáng ra, khi nói về Tuệ Sỹ thì có lẽ không ai đủ tư cách, thẩm quyền bằng triết gia Phạm Công Thiện : “Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những hoàn cảnh khác nhau thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên, một cách vô công dụng hạnh từ đời sống thường nhật và tinh thần diệu nhập của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là thiền sư với tất cả đắn đo thận trọng, với tất cả ý nghĩa cao đẹp và như thực của một danh xưng xung thiên chí.”
Như vậy, chúng ta có thể gọi Tuệ Sỹ là một thiền sư thi sĩ với ý nghĩa trọn vẹn, tốt đẹp nhất của danh từ.
Giống như Tuệ Trung Thượng Sỹ thời Trần thuở xa xưa, Tuệ Sỹ bây giờ cũng là một thiền sư thi sĩ đích thực. Điều đó chứng tỏ qua những tác phẩm thâm viễn, uyên áo, nhất là thể hiện qua phong cách sống đạm bạc, đơn sơ giản dị mà rất nghệ sĩ phiêu bồng, thong dong phóng khoáng, khai mở thông lộ tự do cho con người, biết mỉm cười vô úy, “uy vũ bất năng khuất” trên tinh thần Đại bi tâm trầm hậu giữa muôn chiều diệu dụng với đời sống thực tại cái đang là.
Năm 1973, Tuệ Sỹ vừa đúng 30 tuổi, viết Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng, một tác phẩm thâm thúy tuyệt trù, trữ tình lai láng, tràn đầy chất nhạc và thơ, mở ra con đường phong quang sáng tạo, ngạt ngào hương vị thi ca hòa chan cả trời thơ đất mộng không cùng : “Đạt đến cõi thượng thừa của Thơ như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo, cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đọa thân tâm mà không thành. Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông. Cho nên không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo đây là chân diện mục của nó…
Thơ phát ra từ những khổ lụy và những nguyện ước khơi vơi của cuộc tồn sinh, từ độ đó, Thơ đi vào những thảm họa hoành sinh của lịch sử. Từ buổi bình minh, Thơ vang vọng những lời tình tự thiết tha, từ tiếng chim thư cưu nơi cồn cát đến những đêm dài trằn trọc... Thơ dấn bước đi vào cuộc lữ…
Thơ phát ra từ cuộc lữ đọa đày rồi trở lại đọa đày cuộc lữ. Cuộc lữ là trường thể nghiệm lịch sử tồn sinh thảm họa của Thơ và Thơ mở rộng những phương trời lữ thứ. Quê hương nguyên thủy chỉ là những âm vang của lịch sử, vang dội ngân dài trong những phương trời viễn mộng. Cho nên đất của Thơ là đất trích, là những vùng đày ải, đường của Thơ là quán trọ, là những bước đường ngược gió. Mặn nồng nơi đất trích, lân la nơi quán trọ, cuộc thể nghiệm dây dưa với hằng triệu vấn vương và cũng là cuộc thể nghiệm cho khước từ tuyệt đối… Bởi cách điệu trầm trọng như thế, nên Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm.” **
Tuệ Sỹ nói về cõi thơ Tô Đông Pha mà vô hình chung cũng dường như nói về cõi thơ của chính mình. Thật vậy, cõi thơ Tuệ Sỹ bước đi bi tráng giữa dòng sử lịch kinh hoàng của thời hiện đại. Đơn sơ mà kỳ vĩ, bi ai mà hùng tráng, im lặng mà sấm sét,tĩnh toạ mà phiêu bồng, đó là cõi thơ trầm thống, khốc quỷ kinh thần của Tuệ Sỹ, một thi sĩ thượng thừa, một tài hoa đủ điệu, một tâm hồn cô liêu cùng tuyệt với hồn thơ thâm viễn, uyên mặc u ẩn, ngân dài trên giai điệu trầm tư lãng đãng :

Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về

Để cho trời thơ phiêu phưỡng, bước đi lồng lộng, độc hành ca giữa đỉnh cao và hố thẳm, làm kẻ rong chơi từ thuở hồng hoang hỗn độn, phiêu hốt tang bồng, rong rêu, lêu lổng trong cuộc mộng trần sa :

Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
Treo gót hài trên mái tóc vào thu
Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá
Rủ mi dài trên bến cỏ sương khô
Vì lêu lổng mười năm trời nói mộng
Ôm tình già quên bẵng tuổi hoàng hôn
Một sớm nọ nghe chim buồn đổi giọng
Người thấy ta xô dạt bóng thiên thần
Đất đỏ thắm nên lòng người hớn hở
Đá chưa mòn sao lòng dạ trơ vơ
Thành phố nọ bởi sương mù nắng quái
Nên mười năm quên bẵng mộng giang hồ

Cuộc rong chơi phiêu bạt, lãng tử giang hồ vô tận đến nỗi quên bẵng hết những chuyện mộng mị chiêm bao, hồn thi nhân chuếnh choáng, xuất thần lâng lâng rồi chợt bỗng hóa thân thành cánh chim én mùa xuân bay qua dòng sông chiều tàn hoang vắng hay làm cánh bướm chao nghiêng, tung lượn xôn xao giữa mưa nắng phong trần :

Một con én một đoạn đường lay lất
Một đêm dài nghe thác đổ trên cao
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao
Bóng ma gọi tên người mỗi sáng
Từng ngày qua từng tiếng vu vơ
Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về trên cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa ?
Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng
Người vẫn đi như nước chảy xa nguồn
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng
Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm

Ngàn năm rồi mà sao vẫn còn mãi lạc loài hỡi mây trắng hoằng viễn miên du ? Nhà thơ chợt lặng thầm trầm tư thắc mắc, chẳng biết chiếc lá vàng úa rụng xa mùa kia sẽ về đâu giữa phong ba, bão loạn ? Nhưng rồi bỗng thấy “năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” nên cứ để mặc nhiên cho dòng thơ trôi chảy qua nghìn bến bờ xa lạ nhòa nhạt hoang vu tận cuối bãi mịt mù. Thi nhân chạnh lòng trắc ẩn trong ngậm ngùi, khắc khoải, xót xa cho bao kiếp người phải hốt hoảng, kinh hoàng vượt trùng dương để tìm kế sinh tồn. Cưu mang nung nấu một nỗi niềm tâm sự mênh mông, không biết bày tỏ cùng ai nên chẳng biết nói gì hơn là để cho tiếng lòng ngân lên cung bậc sầu thương vô hạn trước những lượn sóng cuồng phong chìm nổi giữa sinh tử ba đào :

Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi ! Mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình nước lạnh sao ?
Một bước đường xa xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi
Cho hết đêm hè trông bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phìm dương cầm hay máu xanh

Hình ảnh máu màu xanh bầm tím rơi xuống như mưa mù thảm đạm thật khiếp đảm làm sao, gợi ra bao cảnh xiêu hồn lạc vía ở địa ngục âm u mù tăm tối. Ơi chao ! Địa ngục đó chẳng phải ở dưới lòng đất sâu kín kia mà lại ở ngay trên mặt đất trần gian này mới đâu đớn, rợn người khủng khiếp chứ ! Từ khi chứng kiến biết bao oan khiên, nghiệt ngã, biết bao khổ lụy đọa đày diễn ra một cách khốc liệt, tàn bạo, vô nhân đạo, vô lương tâm trên khắp mọi miền thế giới đó, nhà thơ nhạy cảm của chúng ta đã thấm thía một nỗi buồn vạn cổ sầu trong vô lượng xót thương :

Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc bước
Cố quên mình là thân phận thần tiên

Cốt cách, phong vận của thi nhân vốn là ở cõi tự do tiêu sái, tiêu dao, bay bổng chất ngất một trời thần tiên huy hoàng tráng lệ. Thế mà cũng đành phải cố quên đi tất cả, vì ma quỷ A tu la tham sân si đã hiện hình như người, dùng bạo lực thâm độc, dốc hết tốc độ tham tàn, sân hận, si mê giáng xuống những tai ương thảm họa, trong cơn điên đảo loạn cuồng. Buồn quá phải không, buồn chết lặng quặn lòng đau tê tái giữa chập chùng bóng tối u mê :

Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế
Một kiếp người ray rứt bụi tro bay
Tôi ngồi mãi giữa tha ma mộ địa
Lạnh trăng tà lụa trắng trải rừng cây
Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỷ
Quỷ run run hôn mãi lóng xương gầy
Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã
Để hồn tan theo đốm lửa ma trơi
Khi tâm tư chưa là gỗ mục
Lòng đất đen còn giọt máu xanh ngời

Một khi đối diện với quỷ ma giữa ban ngày thì hầu hết chúng ta đều hãi hùng khiếp sợ, nhưng ở đây, kỳ lạ thay, nhà thơ vẫn hào hùng vô uý, khi biết mình đang giáp mặt với thập tử nhất sinh. Một mình lẫm liệt hiên ngang bất khuất, dấn bước lên đường dưới gầm trời bão loạn cuồng si. Đi về đâu hỡi Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, hỡi Tăng Triệu, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, hỡi Tô Đông Pha, Lý Hạ, Vương Duy, hỡi Duy Ma Cật, Thiện Tài, Thắng Man, hỡi Suzuki, Nietzsche, Heidegger…giữa điêu tàn tan hoang trên mặt đất ? Rồi lặng hồn lắng nghe đồng vọng vang lên những lời kinh Hoa Nghiêm hùng tráng :

Trang phục bằng khôi giáp Nhẫn kiên cố
Thanh gươm Trí trong cánh tay Đại bi
Nguyện đấng Đại Hùng dũng mãnh hướng dẫn con
Trực diện chiến đấu với ma quân

Với cánh tay Đại bi cầm thanh gươm Đại trí, thi nhân còn mặc thêm áo giáp Vô sanh pháp nhẫn nữa thì cũng thừa sức dấn mình vào địa ngục trần gian, trực diện đương đầu với đảo điên, chuyển hóa ma vương, quỷ sứ đang quờ quạng, loạn cuồng trong bóng tối vô minh. Cuộc thế trận sinh tử kinh hồn, một lần tận tường giáp mặt là một lần thấu triệt lẽ vô thường huyễn ảo quá đỗi mong manh trong cõi người ta và cũng chính từ đó, thi nhân mới phát Bồ đề tâm, phát đại nguyện thượng thừa, gánh vác lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của nhân gian như chính lời Tuệ Sỹ nhắc nhở rạt rào : “Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng, không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ đề tâm, đó là ý chí kiên cường, bất khuất của một con người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc bởi tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta. “Vui sướng gì, thích thú gì giữa ngọn lửa tam độc không ngừng thiêu đốt ? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm bó đuốc ?” Không có tâm nguyện đó, không có ý chí đó, Bồ tát đạo chỉ là một con đường xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường và Phật thừa không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày.” *** Thi nhân thấy như vậy bằng đôi mắt sâu thẳm rực lửa tam muội của chính mình nên vẫn thường vô vi tùy duyên nhẹ bước vào ra giữa ta bà đây đó :

Đây khúc nhạc đưa hồn lên máu đỏ
Bước luân hồi chen chúc cọng lau xanh
Xô đẩy mãi sóng vàng không bến đỗ
Trời lênh đênh ma quỷ rắc tro tàn
Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói
Ép thời gian thành rượu máu trong xanh
Rượu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi
Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị
Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy
Đổi hình hài con mắt vẫn đầy sao

Từ vô thủy đến vô chung, cuộc luân hồi khởi sự từ đâu chẳng biết, chỉ hay rằng từ lúc nghe đồng vọng những trận gió phù trần tận chốn miền thiên thu vi vu thổi tới giữa vạn đại miên trường :

Đá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
Nghìn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương
Đan sa rã mộng phi thường
Đào tiên trụi lá bên đường tử sinh

Sinh tử là một việc trọng đại như thi nhân đã có lần nói tới trong lời tựa Vô môn quan của thiền sư Vô Môn, do Trần Tuấn Mẫn dịch : “Nơi đây, sa mạc vẫn cứ thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của hư vô. Lẽ sống và lẽ chết cứ mãi bập bềnh trên hư ảo. Tâm hồn miệt mài nóng cháy, nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hãi hùng của hư vô và huỷ diệt.” Hư vô đã trở thành một thứ chủ nghĩa đang huỷ diệt mặt đất một cách trầm trọng đau thương, gây bao tang tóc não phiền, khiến thi sĩ nghe ra nghèn nghẹn tận đáy hồn :

Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào
Khuya còn lạnh sương mù và gió lốc
Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao
Bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc
Một lần đi là vĩnh viễn con tàu
Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng
Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu
Giọt máu nào phiêu lưu, lạc nẻo xa nguồn trôi tan tác, lao đao trong nỗi hao mòn tàn tạ, trong cơn gió lốc kinh hồn rờn lạnh buốt xương da ? Đi là đi mất, đi biền biệt, biến tan như sợi khói mỏng manh giữa bầu trời gió lộng, không bao giờ trở lại nữa, nhưng vừa đi vừa ngoái nhìn để lắng nghe những tiếng gào kêu thống thiết của nhân gian, của thập loại chúng sinh đang quằn quại rên siết trong bao đổ nát đoạn trường, dâu bể tan hoang đầy thảm hoạ tồn sinh bức bách rợn ngần :

Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận
Lời ai ru trào máu lệ bi thương ?
Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương
Ai tóc trắng sững sờ trên tuyết lãnh
Bước chập chờn heo hút giữa chiều sương
Viên đá nhỏ mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu vết hoang đường ?

Hoang đường nào còn in trên dấu vết lênh đênh ? Tên tuổi nào cô liêu đến bạc trắng cả mái đầu ? Sầu thế kỷ điêu linh nào cứ ngân dài mãi trong não nề thê thiết :

Tang thương một dải tóc huyền
Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu
Gởi thân gió cuốn xa mù
Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng
Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng
Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều
Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu
Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu

Cô liêu, cô đơn, cô độc, cô lữ là bước đi kỳ cùng của người thi sĩ dị thường. Bước đi chênh vênh, khập khễnh bên này cát bụi phù du, bên này bờ Thị Ngạn Am xao xác cọng lau gầy sậy yếu lặng phất phơ. Thở cùng hương trái đắng và hương nắng buồn trong mắt biếc nhiều diệu vợi uyên tư :

Gà xao xác gọi hồn ta từ quá khứ
Về nơi đây cùng khốn với điêu linh
Hương trái đắng mùa thu buồn bụi đỏ
Ôi ngọt ngào đâu mái tóc em xinh
Từng tiếng lẻ loi buồn thống thiết
Nghe rộn ràng từ vết lở con tim
Từ nơi đó ta ghi lời vĩnh biệt
Nắng buồn ơi là đôi mắt ân tình
Còi xa vắng giữa trưa nào lạc lõng
Môi em hồng ta ước một vì sao
Trưa dài lắm nhưng lòng tay bé bỏng
Để vươn dài trên vầng trán em cao

Em ở đây chính là hình ảnh cuộc đời. Cuộc đời nếu nhìn từ chân đế, vốn là tuyệt trần Chơn mỹ, vốn là Vô sinh bất diệt, vốn là Niết bàn, Tịnh độ như thị như nhiên. Biết được điều đó, cho nên lòng thi nhân tự bao giờ vẫn vô cùng khoan dung rộng lượng, thương yêu nhân loại trong vô ngôn lặng lẽ, trong tận cùng dung nhiếp âm thầm, chia sẻ với muôn loài vạn vật trần ai :
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói
Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Như trùng dương ngưng tụ ánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt ngàn sao

Vô biên vô lượng thương yêu con người tha thiết mà không bao giờ nói mình yêu thương gì hết cả, đó mới chính là thương yêu đích thực nhất. Phải chăng chỉ có những tấm lòng Bồ tát mới có thứ tình yêu vô điều kiện, vô phân biệt như vậy ? Một tình yêu rộng rãi Đại bi tâm nhập diệu, kết tinh thành bản tình ca mà thi sĩ thường lắng nghe từ hun hút biển ngàn, sông núi giữa trời đất mênh mang :

Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn
Triều Đông hải vẫn thì thầm cát trắng
Chuyện tình người và nhịp thở Trường Sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Đông phương

Bản tình ca vô tận ấy, thi nhân vẫn nghe hoài rung ngân bất tuyệt trên những dặm dài long đong lữ thứ ở dọc đường quán trọ bơ vơ, bên làng mạc, thôn ấp đìu hiu, cạnh ven rừng sơn dã hay quanh triền sông thị trấn tiêu điều hoặc trên ghềnh suối truông ngàn hoang vắng tịch liêu giữa những chiều sương khói chơi vơi bềnh bồng trống trải :

Em trải áo trên hoa rừng man dại
Để hoa rừng nước cuộn biết yêu nhau
Nhưng nước cuộn xóa đời ta trên bãi
Để hoa rừng phong nhụy với ngàn lau
Em xỏa tóc cho cây khô sầu mộng
Để cây khô mạch suối khóc thương nhau
Ta cúi xuống trên nụ cười chín mọng
Cũng mơ màng như phố thị nhớ rừng sâu
Ta chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại
Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy
Ôi hạnh phúc chợt thấy mình nhỏ bé
Chép tình yêu trên trang giấy thơ ngây
Ta cúi xuống trên chân người bụi đỏ
Để nhìn sâu trong vết tích hoang đường
Ta sống lại trên môi cười rạng rỡ
Để nhìn sâu trong ngọn nên tàn canh

Bằng ánh mắt từ tâm thâm cảm, nhà thơ bi tráng của chúng ta nhìn sâu vào lòng đời với nụ cười bao dung rạng rỡ. Thở cùng điệu hát bản tình ca nhã nhạc vang lừng trên núi rừng cô tịch hay giữa ngày hội lễ rộn ràng dưới phố thị xôn xao, nhà thơ đều im ắng lắng nghe trong từng khoảnh khắc lặng trầm, cảm nhận sâu xa vì biết chỉ là chiêm bao huyễn mộng trong khói bụi chập chờn :

Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bát ngát
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao
Em là nàng thơ, là hình ảnh cuộc sống. Cuộc sống nếu nhìn từ tục đế thì đầy những thăng trầm, điêu linh khổ lụy từ nghìn xưa đến ngày nay. Khổ đế là sự thật thứ nhất mà Đức Phật đã chỉ bày cách đây gần ba nghìn năm rồi. Giống như đại văn hào Hermann Hesse phát biểu : “Dù có bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng vậy, cũng hết lòng thương yêu con người, dù kiếp người có tàn xiêu hiu hắt :
Ai biết mình tóc trắng
Vì yêu ngọn lửa tàn
Rừng khuya bên bếp lửa
Ngồi đợi gió sang canh
Một hình một bóng cô đơn ngồi trên tuyệt đỉnh núi lạnh xanh rờn, sẵn sàng chờ đợi một điều gì có thể xảy đến, đôi mắt thi nhân cúi nhìn xuống cuộc đời đang chìm trong bóng tối mù sa mà cảm thương một nỗi u buồn xót xa sầu khôn tả :

Ta không buồn còn ai buồn hơn nữa
Người không đi sông núi có buồn đi
Tia nắng mỏng soi mòn khung cửa
Để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi
Ta lên bờ nắng vỗ bờ róc rách
Gió ở đâu mà sông núi thì thầm
Kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát
Ráng chiều xa ai thấy mộ sương dầm ?
Ráng chiều xa bảng lảng bóng hoàng hôn nhân loại đang phủ trùm vàng vọt xuống khắp vùng sông núi Đông phương. Cho dẫu đường đời giăng bẫy đầy hầm hố cách ngăn, khó khăn trắc trở gì gì đi nữa, thi nhân vẫn nhận diện, tỉnh thức trước những sự kiện đang diễn biến, vì đã bừng ngộ thấy : “Ngay trong phiền não tức là Bồ đề, ngay trong những nguy hiểm đáng sợ hãi của sinh tử cũng chính là Niết bàn an ổn. Sợi dây bị tưởng lầm là con rắn, nhưng không phải hủy diệt sợi dây để diệt trừ ảo giác gây nên sợ hãi. Ngoài những gì vô thường được thấy, được kinh nghiệm bằng chính mắt, tai, mũi, lưỡi này, không tồn tại một thế giới chân thường, đại lạc hay đại ngã nào khác. Đó chính là thực tại Nhất nguyên tuyệt đối.” ****

Phải chăng, đó là cái thấy bằng Trí tuệ siêu việt ? Một khi nhà thơ có cái nhìn tuệ giác đó rồi thì những sầu khúc thê lương kéo dài trong đợi chờ não nuột suốt mười lăm năm trường đọa đày viễn mộng như lời thơ tiên tri trước cuồng phong bão tố mịt mùng cũng chẳng hề dao động mà vẫn như như tự tại vô ngại :
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối nỗi gì tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa bàn tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai như ánh chớp mây chiều

Chút thân bé bỏng dù bị tù ngục lưu đày vì sự ngộ nhận của thế lực vô minh, nhưng ngay trong dầu sôi lửa bỏng, trong đêm dài sinh tử đó, thi nhân đã nhập thần, đại thiền định, thấu thị tất cả vạn pháp “như sương mai như ánh chớp mây chiều” làm vỡ bùng rơi rụng bóng tối để rực ngời lên ánh phong quang, hiển lộ vô ngần thần lực vô vi. Một câu thơ khiến bay dậy âm vang sấm sét, mặc như lôi từ trong kinh Kim Cang làm phấn chấn bất khả tư nghì :

Tất cả pháp hữu vi
Như huyễn mộng bọt nước
Như ánh chớp sương mai
Thường quán tưởng như thị

Trùng trùng vạn pháp muôn loài vạn vật núi sông, rừng biển, thiên nhiên vũ trụ và con người đều như mộng như huyễn , như bọt nước như sương mai…Phải thường xuyên thấy rõ ràng như thế. Tuệ Sỹ cũng nhiều lần nói : “Tất cả giáo pháp của Phật đều hướng đến diệt trừ tự ngã. Tôi đang tồn tại, đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một ảo ảnh. Đau khổ là một sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta ảo ảnh được bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định hình bằng vọng tưởng thành thân thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến núi sông này là của ta, tài sản này là của ta, ta là tài sản này, sông núi này là của ta, ta là sông núi này. Cho nên, khi tán gia bại sản, khi sông núi sụp đổ, cái ta vọng tưởng cũng sụp đổ thì có kẻ trầm mình xuống sông hoặc treo cổ trên cành. Vì thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực, người nghe có thể kinh hoàng như nghe sét đánh ngang tai. Tiếng sét đó là từ Kim Cang Bát Nhã. Duy có điều, mọi người đều mù, chỉ thấy bóng tối, mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng vo ve. Làm sao có thể thấy cái ta chỉ là ảo ảnh ? Làm sao nghe được tiếng sấm từ kinh Kim Cang ? Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, kinh Kim Cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi và chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.”

Khi thi nhân lãnh hội, quán chiếu sâu xa, thấy tất cả vạn pháp như ảo ảnh, mộng huyễn như vậy thì hoát nhiên hiển lộ, bừng sáng lên một phương trời Tánh Không lồng lộng nên hết thảy mọi khổ nạn điêu linh trầm thống đều chuyển hóa thành lửa tịch mịch, tự nhiên đốt cháy hết những kinh hoàng khủng khiếp của địa ngục trần gian và sầu khúc thê lương trở thành “Bản tình ca vô tận của Đông phương” hay biến thành Những điệp khúc cho dương cầm thâm thúy dưới ngàn trăng sao xao xuyến lặng bồi hồi :

Nỗi nhớ đó khát khao luồn sợi tóc
Vòng tay ôm cuộn khói bâng khuâng
Uống chưa cạn chén trà sương móc
Trên đài cao em ngự mấy tầng
Lên cao mãi đường mây khép chặt
Để xoi mòn ảo tượng thiên chân
Ồ, nguyệt quế !Trắng mờ đôi mắt
Ồ, sao Em ? Sao ấn mãi cung đàn ?
Giai điệu cổ thoáng buồn u uất
Xưa yêu Em xao động trăng ngàn

Từ xưa đến nay vẫn điệp khúc cung đàn trường ca Đại bi tâm trầm lặng ngân rung trên cung bậc Bất nhị giữa cõi người ta vô thủy vô chung. Chúng ta hãy lắng nghe, thưởng thức những giai điệu tài hoa của nhạc sĩ tế nhị cảm giao hòa :
Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt
Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng
Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc
Cánh chim bạt ngàn từ quãng Vô biên
Từ đó ta trở về Thiên giới
Một màu xanh mù tỏa Vô biên
Bóng sao đêm dài vời vợi
Thật hay hư chiều nhỏ ưu phiền
Chiều như thế cung trầm khắc khoải
Rát đầu tay nốt nhạc triền miên
Ôm dấu lặng nhịp đàn đứt vội
Anh ở đâu khói lụa ngoài hiên ?
Ngoài hiên chiều phất phới bay qua những vệt nắng nhạt nhòa phôi pha trong bóng tà huy thấp thoáng lan dần nhẹ tỏa xuống mềm mại những sợi khói mênh mang :
Nắng lụa đỏ phủ tường rêu xám bạc
Lá cây xanh nghiêng xuống mắt mơ màng
Người có biết mặt trời kia sẽ tắt ?
Ta yêu người từ vết rạn thời gian
Thời gian và không gian trộn lẫn hòa quyện tan vào trong cùng một tấu khúc rung cảm, bồng tênh lênh láng, dạt dào du dương, vi vu vi vút nguồn cảm xúc khôn dò của người em thi ca quá tuyệt diệu trong tự tình khúc rung động chan hòa :
Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca
Tay em rung trên những phím lụa ngà
Thôi huyễn tượng xô người theo cát bụi
Vùng đất đỏ bàn chân ai bối rối
Đạp cung đàn sương ứa đọng vành môi
Đường xanh xanh phơn phớt nụ ai cười
Như tơ liễu ngại ngùng lay nắng nhạt
Lời tiễn biệt nói gì sau tiếng hát
Hỏi phương nào cho nguyện ước Trường Sơn
Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn
Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt
Mờ phố thị những chiều hôn suối tóc
Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa
Tiếng đàn miên man réo rắt lặng hồn dưới bàn tay phấn chấn thân yêu, dìu dặt vọng vang bàng hoàng qua những điệp khúc cho dương cầm thâm tình thấm thiết mãi ngân nga từ cõi mộng không lời, hỡi vầng trăng gầy tịch nhiên soi chiếu trong vườn sương khuya mờ ảo lung linh ngời lấp lánh long lanh :
Nhà đạo nguyên không khách
Quanh năm bạn ánh đèn
Thẹn tình trăng liếc trộm
Bẽn lẽn núp sau rèm
Yêu nhau từ vạn kiếp
Nhìn nhau một thoáng qua
Nhà đạo nguyên không nói
Trăng buồn trăng đi xa
Chao ơi ! Yêu thương nhau đã từ muôn triệu kiếp rồi, hỡi vầng trăng thanh thoát vàng hoa mộng như nàng thơ gầy yểu điệu, lặng lẽ chia phôi. Thôi buồn làm chi nữa phải không ? Thôi cứ thản nhiên để cho hồn thơ dệt phím nhạc ngàn đời những tơ đàn diệu âm trầm bổng ngát xanh huyền :
Tóc em bay trong sương chiều khói biếc
Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng
Tình hay mộng khi Trường Sơn xa hút
Đến bây giờ mây trắng gởi tin sang
Hồn tôi đi trong rừng lang thang
Cọng lời ru từ ánh trăng tàn
Mắt em nhỏ ngại ngùng song cửa
Nghe tình ca trên giọt sương tan
Gót chân em nắng vàng xưa viễn phố
Những ngón hồng ngơ ngác giữa đường chim
Ôi ta nhớ như đêm dài thượng cổ
Sợi tóc mềm lơi nhịp hát trong tim
Trong tim hồn rộn ràng bao nhịp hát hoang sơ từ thượng cổ vọng về, nghe như điệu hát Trang Tử Tiêu dao du, bên bờ sông xa mù Dương Tử, hay như lời thơ ngâm nga của Milarepa trên tuyệt đỉnh ngàn cao Hy Mã Lạp Sơn chập chờn sương khói tỏa thiên thu hoặc như khúc hát nghêu ngao Phóng cuồng ca của Tuệ Trung Thượng Sỹ, trong cơn xuất thần nhập diệu, đại hòa điệu chơi cùng nhật nguyệt, thiên địa tuần hoàn.
Thế là, bát ngát bồng tênh trên ngõ về im lặng, tiếng thơ trầm hùng Tuệ Sỹ như ánh trăng huyền nguyên thủy, chiếu diệu xuyên qua ngút ngàn bóng tối vô minh làm bừng hiện rực ngời lên trên cung bậc ngôn ngữ thi ca đầy sáng tạo và sáng tạo tân kỳ như Tuệ Sỹ từ thuở thanh xuân đã nghe tận thần hồn : “Ngôn ngữ không còn là một hình ảnh héo hắt của Thực tại sai biệt và sai biệt. Nó không đi chơi vơi trên Thực tại mà đóng vai trò truyền thông như tiếng gọi từ trên một đỉnh trời Tuyệt đối vô tri, từ trên một đỉnh núi ngàn đời bất khả xâm phạm, luôn luôn thách đố bước tiến của con người. Nó đánh mất đi cái cụ thể nghèo nàn trong tầm mắt thường nghiệm của phàm phu để dẫn đến một chân trời rực rỡ của sáng tạo.” *****
Con đường mây trắng thênh thang sáng tạo đã vượt qua những mộng tàn năm tháng cũ, dù vẫn cỏn chút dư hương của một thời đọa đày viễn mộng u sầu :
Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ
Chiều chơ vơ chiều dạt mấy hồn tôi
Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi
Vén thanh sắc đổ mù khơi về đối diện
Cuộc ân tình lơi lả vội chia phôi
Trăng nằm xuống duỗi dài hai bến hẹn
Một dòng sông vồn vã động chân trời
Ơi chao ! Đã chia phôi, từ biệt cuộc ân tình nhân thế từ dạo đó, kể từ ngày như Nguyễn Du xa xưa từng chứng kiến giữa trần ai : “Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng đi về theo thể điệu phiêu nhiên, quy hồi Vĩnh cửu với nụ cười sâu lắng tự tri :
Khói ơi ! Bay thấp xuống đi
Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
Ta đi trong cõi Vĩnh hằng
Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa
Vĩnh hằng chẳng ở đâu xa mà ngay trong từng sát na hiện tại, ở đây và bây giờ, ngay trong tiếng ve sầu hay từng nhịp thở nhẹ nhàng giữa lòng phố bụi lao xao :
Ve mùa hạ chợt về thành phố
Khóm cây già che nắng hoang lương
Đám bụi trắng cuốn lên đầu ngõ
Trên phím đàn lặng lẽ tan hương
Tiếng ve dội lăn tăn nốt nhỏ
Khóc mùa hè mà khô cả đại dương
Ngôn ngữ thi ca thường chứa nhiều ẩn dụ, tượng trưng hàm súc như vậy, chúng ta tha hồ suy diễn, lãnh hội, cảm nhận theo đủ cách điệu riêng tư của mình thôi. Đọc thơ Tuệ Sỹ là lang thang bước dạo chơi vào một thế giới diêu mang kỳ ảo vô vàn :
Một ngày chơi vơi đỉnh thác
Nghe bồn chồn tiếng gọi hư không
Giai điệu nhỏ dồn lên đôi mắt
Mặt hồ im ánh nước chập chờn
Mặt hồ im tảng màu man mác
Ảnh tượng mờ một chút sương trong
Quãng im lặng thời gian nặng hạt
Tôi nghe đời trong tấu khúc Thiên hoang
Tấu khúc Thiên hoang vang rền, đồng vọng trong tận đáy lòng Không tánh vô biên, khiến cho thi nhân tự mình thưởng thức hương vị cô liêu của cuộc sống. diệu thường :
Tự tâm tự cảnh tự thành chương
Tự đối bi hoan diệc tự thưởng
( Cô độc cảnh tâm thơ tự xuất
Tự ngắm buồn vui tự thưởng thức )
Thế thì, tuyệt cùng ẩn ngữ thi ca Tuệ Sỹ là gì ? Làm sao chỉ ra được, khi ngôn ngữ cứ lấp lánh ẩn hiện trong ánh sáng phát ra từ tâm cảm thâm trầm ? Có ai nắm giữ được những tiếng dương cầm âm thanh thánh thót, phiêu diêu, dịu dàng vang ngân bất tận từ giữa lòng bàn tay của người nghệ sĩ tài hoa ?
Đã rời khỏi Thị Ngạn Am ở Sài Gòn gần 2 năm nay rồi, bây giờ Tuệ Sỹ sống lang thang đúng nghĩa lang thang, hoàn toàn rỗng rang vô sự. Vô sự là thong dong tự do tự tại giữa đang là, không còn chạy theo nắm bắt bất cứ một cái gì nữa cả, dù đó là Phật, là Tổ như thiền sư Lâm Tế nói : “Con người vô sự là người đã dừng lại, không còn dính mắc vào một lý thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết. Con người vô sự có tự do, có khả năng sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ một cái gì có thể kéo đi, kể cả lý tưởng độ sinh cứu đời. Bởi vì lý tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể bắt mình chạy đi tìm cầu, bỏ mất giây phút hiện tại, bỏ mất cái tâm sáng chói và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn là nguồn gốc của tất cả chư Phật.” Lẫn vào cát bụi phù du “hòa kỳ quang đồng kỳ trần” Tuệ Sỹ giống như thiền sư thi sĩ Nhật Bản Basho xuống núi, phiêu bồng thõng tay vào chợ làm thơ và làm thơ giữa ngày tháng lưu linh cùng sương khói bồng bềnh.

Trên ngõ về im lặng, lúc thì tiêu dao với mây trắng trên núi rừng Madagoui huyền ảo, lúc thì lên đồi Phương Bối ở vùng Đại Lão, Bảo Lộc uống trà với nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, bồng tênh xuôi về phố hoa Đà Lạt, ghé bên cầu sông nước Đại Ninh cùng những ẩn sĩ tâm tình, rồi thênh thang xuống miền biển khơi Vạn Giã, Nha Trang muôn trùng bát ngát…Hát khúc vô thanh siêu thoát làm hồi phục những tiêu điều, hiu hắt dọc khắp ven đường thi sĩ đi qua.

Hòa trong nhịp bước vân du, người viết chợt bỗng nghe văng vẳng lời nói của Phạm Công Thiện, một người bạn thâm tình chí cốt của Tuệ Sỹ : “ Một con người vừa là thi sĩ vừa là thiền sư, vừa là nhà hành động nhập thế với tinh thần vô công dụng hạnh của bậc Bồ tát. Hành động tích cực, mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng, vì không tham vọng, ích kỷ mù quáng, cho nên nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham sân si của thế tục, cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí tuệ Bát nhã cùng với lòng Đại bi thơ mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng, dẫn đường soi sáng Thể mệnh của Sử tính quê hương…

Anh không thể cảm thơ người ta thì anh hãy im lặng, còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những kẻ phê bình thơ mà chỉ nên có những người ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không có ai làm thầy ai cả.”
Bắt chước Phạm Công Thiện, người viết cũng muốn ca ngợi tán thán Tuệ Sỹ, một thiền sư thi sĩ vĩ đại, một trái tim Kim Cang bất hoại vô úy nhưng ngợi ca làm chi nữa, khi mà tiếng thơ của thi nhân đã làm chấn động rung chuyển cả thế giới hoàn cầu và lan tỏa lạ thường ra khắp vũ trụ mười phương rồi. Thôi thì chỉ xin kính tặng một bài thơ bình dị :

Những phương trời viễn mộng đi
Thi ca tư tưởng bước kỳ ảo qua
Đọa đày một thuở ta bà
Nỗi đau rực cháy thấy ra tột cùng
Ôi ! Giấc mơ Trường Sơn rung
Rúng hồn tim máu chợt bùng vỡ mơ
Kinh thiên động địa sững sờ
Đâu chân diện mục của thơ với thiền ?
Mặc như lôi ngồi tịch nhiên
Nghe ban sơ vọng ngân huyền diệu âm
Những điệp khúc cho dương cầm
Từ vô tận ý vang thâm thiết niềm

_____________________________

* Bùi Giáng. Đi vào cõi thơ. Nhà xuất bản Ca Dao, Sài Gòn 1969
** Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng. Tái bản lần thứ ba. Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn 2008
*** Tuệ Sỹ. Thắng Man giảng luận. Nhà xuất bản Phương Đông, 2012
**** Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy Ma Cật. Nhà xuất bản Phương Đông, 2007
***** Tuệ Sỹ. Triết học về Tánh Không. Nhà xuất bản An Tiêm. Sài Gòn 1970

Thơ Tuệ Sỹ, trích trong 2 thi phẩm :
Giấc mơ Trường Sơn. Nhà xuất bản An Tiêm, Paris 2002
Những điệp khúc cho dương cầm. Nhà xuất bản Phương Đông 2009
__._,_.___

..