Showing posts with label Kinh tế. Show all posts
Showing posts with label Kinh tế. Show all posts

Monday, February 24, 2020

Opinion: If the coronavirus isn’t contained, a severe global recession is almost certain

By Rex Nutting
Published: Feb 24, 2020 1:32 p.m. ET

   
Economists try to estimate the impact of a pandemic, but we just don’t know how bad it could get



MIGUEL MEDINA/AFP via Getty Images - No virus can get past the Italian Guardia di Finanza!

The world woke up Monday to the reality that the coronavirus epidemic is going to have a much bigger impact on the global economy than investors and policy makers had assumed. Just how big, no one really knows.

Last week, it seemed as if financial markets believed that COVID-19 would be contained. But new cases in Italy, South Korea and Iran over the weekend undermined that belief. The World Health Organization tried to reassure the public on Monday, saying the disease was not yet a pandemic because it was not spreading in an uncontained way.

No matter, stock markets GDOW, -2.96% SPX, -3.22%  and other financial markets BUXX, -0.01% TMUBMUSD10Y, -7.34% GC00, +0.79%  were quickly recalibrating the worst-case scenario, one in which hundreds of millions of people would be infected, and millions would die.

Nasty, brutish and short !

Investors are just beginning to price in the possibility of a sharp and nasty global recession that would be followed by a rapid rebound once the disease has run its course. Whenever that will be. In the longer run, of course, a pandemic could have more far-reaching effects, including a smaller and less productive workforce and even a reordering of globalization.

A pandemic ‘could produce a short-run impact on the worldwide economy similar in depth and duration to that of an average postwar recession in the United States,’ the CBO found.

We’d like to think that we can know the worst that could happen, but there is still so much that isn’t known about COVID-19, the disease caused by the new coronavirus that emerged in China and now spreading around the world. Most of the economic analysis is based on past pandemics, such as the 1918 global influenza pandemic, and more recent bouts with avian flu, SARS and MERS.

Nothing like it in recent history

But none of those examples fit the current situation perfectly. For one thing, unlike the flu, no one in the world has any natural immunity to this disease, nor is there a vaccine. The coronavirus is quite contagious, and many more people are likely to get COVID-19 than is assumed in these generic pandemic simulations.

The more recent pandemics weren’t nearly as widespread or deadly as this one seems to be. People who don’t appear to be sick can transmit the virus, making efforts to contain its spread magnitudes more difficult.

What’s more, the 1918 flu pandemic occurred in a different world, the world before airlines shrank the world, the world before globalization knitted our economies closer than ever, and the world before the internet, a technology that can spread misinformation and fear virally around the globe in an instant.

For example, the 1918 pandemic didn’t seem to have much impact on global trade or financial markets. Compare that to what we’ve already seen with COVID-19. Here’s what Apple, Procter & Gamble, Walmart and other U.S. companies are saying about the coronavirus outbreak.

That means the economic impact of a global pandemic of these proportions could be much larger than what investors and policy makers have assumed.

Could GDP contract 4.5%?

Many economists have tried to model the economic consequences of a pandemic. CBO did a study in 2005 and 2006, modeling the impact of a 1918-sized flu pandemic on the economy. They found that a pandemic “could produce a short-run impact on the worldwide economy similar in depth and duration to that of an average postwar recession in the United States.” Specifically, a severe pandemic could reduce U.S. gross domestic product by about 4.5%, followed by a sharp rebound.

The CBO assumed that 90 million people in the U.S. would get sick, and 2 million would die. There would also be demand-side effects, with an 80% decline in the arts and entertainment industries and a 67% decline in transportation. Retail and manufacturing would drop 10%.

The U.S. wasn’t prepared for a flu pandemic then, the CBO said, and it isn’t now.

“If a pandemic were to occur in the near term, the options for the United States would be limited to attempts to control the spread of the virus and judicious use of limited medical facilities, personnel, and supplies,” the bipartisan agency concluded. “In the longer term, more tools are potentially available, including an increased treatment capacity, greater use of vaccines and antiviral drug stockpiles, and possible advances in medical technology.”

Other simulations of the U.S. and non-U.S. economies have found similar economic impacts, although that research came at an earlier stage of globalization, when our economy was not quite so reliant on far-flung supply chains.

Quarantining the economy

Much of the immediate economic impact of a pandemic can be traced to the efforts to contain it, rather than from the effects of the disease itself. As we attempt to quarantine those who might spread the disease, we shut down a lot of economic activity.

The quarantines might be the only way to slow the spread of COVID-19, but they could also hamper our response. Our health-care system also relies on vital inputs for medicines, supplies and equipment produced all over the world, including China and other hard-hit Asian economies. And of course we rely on the free flow of thousands of other goods and services.

The potential for disaster is sobering. The economies of the world are extraordinarily resilient, yet extraordinarily dependent upon each other in a crisis. Sadly, the things we need most to get us through this — wise leadership, global cooperation and clear thinking — are harder to find than a surgical mask.

Saturday, August 11, 2018

Nghịch lý và Ngộ nhận về Chiến tranh Thương mại Mỹ-Trung (Nguyễn Quang Dy)

Nghịch lý và Ngộ nhận về Chiến tranh Thương mại Mỹ-Trung
(Nguyễn Quang Dy)

Gần hai tháng qua, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đã trở thành tâm điểm của dư luận thế giới, gây tranh cãi tại Washington và làm đau đầu Bắc Kinh (cũng như các thủ đô khác). Để hiểu diễn biến phức tạp và hệ quả khôn lường của cuộc chiến tranh thương Mỹ-Trung, cần lý giải một số nghịch lý và ngộ nhận liên quan đến sự kiện quan trọng này. 

Cách đây khoảng vài thập kỷ, có một nhà tư tưởng giáo dục (hình như Peter Drucker) đã nói rằng giáo dục truyền thống dạy học viên về một thế giới không còn tồn tại (traditional education teaches students about a world that no longer exists). Thế giới ngày càng phi truyền thống và biến động khôn lường (như đoàn tầu siêu tốc), nhưng tư duy con người vẫn chuyển chậm (như chiếc xe ngựa cũ). Làm sao chiếc xe ngựa 0.4 đuổi kịp đoàn tầu 4.0?

Những nghịch lý về hệ quy chiếu

Trước hết, khi phân tích diễn biến bàn cờ chính trị quốc tế, nhiều người thường bỏ qua hay coi nhẹ nhân tố chính trị nội bộ (domestic/bureaucratic politics) của các bên liên quan. Ngược lại, khi phân tích diễn biến chính trị nội bộ một nước, nhiều người hay bỏ qua hay coi nhẹ nhân tố quốc tế đang tác động đến diễn biến trong nước. Cả hai cách đề cập đó đều không đầy đủ và thiếu chính xác, dẫn đến ngộ nhận và nhầm lẫn về bức tranh vốn phức tạp trong quan hệ giữa các nước lớn (như Mỹ-Nga-Trung). Vì vậy, không thể tách cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung ra khỏi bàn cờ chiến lược nước lớn, và hiện tượng Trumpism.

Thứ hai, khi đánh giá một nhân vật đặc thù khác thường (như Donald Trump) thường có hai khuynh hướng. Một là chê bai và phủ định, vì chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực mà không thấy mặt tích cực. Hai là khen ngợi và khẳng định, vì chỉ nhìn thấy mặt tích cực mà không thấy mặt tiêu cực. Cả hai khuynh hướng đó đều cực đoan, không chính xác và thiếu hụt (như một cốc nước vơi), không phản ánh đúng sự thực khách quan. Ngoài lý do thiếu hụt thông tin, còn do hệ quy chiếu khác nhau (paradigms), nên người ta thường ngộ nhận và nhầm lẫn.

Thứ ba, khi phân tích một sự kiện hay nhân vật nào đó, thường có hai quan điểm khác nhau do hệ quy chiếu khác nhau. Một là hệ quy chiếu “truyền thống” (traditional/conventional), hai là hệ quy chiếu “phi truyền thống” (unconventional). Khi đánh giá một nhân vật “phi truyền thống” (như Donald Trump), nếu áp dụng hệ quy chiếu “truyền thống”, thì dễ ngộ nhận và sai lạc, nên  không lý giải được bản chất vấn đề (có nhiều ẩn số). Có người hỏi “Trump khôn hay dại, tốt hay xấu?”. Đó là câu hỏi “trắng đen” (black & white) làm đơn giản hóa vấn đề (simplistic) trong khi sự thật vốn phức tạp hơn vì “trong âm có dương, trong dương có âm”.

Thứ tư, “mọi người sinh ra đều bình đẳng” (men are born equal), nhưng suy nghĩ và cảm xúc khác nhau, nên quan điểm và thái độ của họ cũng khác nhau trước một sự kiện hay nhân vật. Nhưng sự khác biệt (diversity) không phải là vấn đề mà sự nhầm lẫn (confusion) mới là vấn đề bất cập. Khi cần lý trí (để phân tích) thì người ta lại bị tâm trạng bức xúc làm sai lạc vấn đề. Khi cần cảm xúc (để cảm thông) thì người ta lại dựa nhiều vào lý trí nên vô cảm. Vấn đề không phải đúng hay sai, mà là lẫn lộn (không đúng lúc, đúng người, đúng việc).   

Sự ngạo mạn về quyền lực và cái bẫy Thucydides

Hai mươi năm sau chiến tranh Viêt Nam, Robert McNamara xuất bản cuốn sách “Hồi tưởng: Bi kịch và bài học Việt Nam” (In Retrospect: the Tragedy and Lessons of Vietnam, Random House, New York, 1995), thừa nhận sai lầm (hay ngộ nhận). Tuy ông McNamara tự vấn lương tâm hơi muộn (too little too late) nhưng “muộn còn hơn không”. Tuy nhiên, nước Mỹ vẫn lặp lại sai lầm tại Iraq và Afganistan, trong khi bỏ mặc Biển Đông cho Trung Quốc. 
Gần ba thập kỷ trước đó, TNS Fulbright đã xuất bản cuốn sách “Sự Ngạo mạn về Quyền lực” (Arrogance of Power, William Fulbright, Random House, New York, 1967) chỉ trích sai lầm của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Có lẽ sự ngạo mạn về quyền lực là căn bệnh cố hữu của kẻ mạnh, làm cho họ ngộ nhận và mù lòa về “giới hạn của quyền lực”. Không phải chỉ có người Mỹ mà người Trung Quốc cũng mắc căn bệnh này (với “đặc sắc Trung Quốc”). Một số quan chức Trung Quốc có thói quen nhắc nhở người khác rằng “Trung Quốc là nước lớn” (như hiện tượng “Freudian slip”). Tại một cuộc họp tại Hà Nội (năm 2010) Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) đã nói thẳng vào mặt ngoại trưởng Singapore rằng “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác đều bé” (China is a big country and other countries are small).
Trong một chuyến thăm Miến Điện (Myanmar) cách đây mấy năm, khi tôi hỏi mười người dân là họ ghét ai nhất, thì chín người nói họ ghét nhất các tướng tá quân đội và người Trung Quốc. Không chỉ có Miến Điện, mà gần đây Bắc Triều Tiên và Malaysia đều muốn “thoát Trung”, mặc dù họ rất cần túi tiền của Trung Quốc. Hầu hết các nước láng giềng (từ Việt Nam đến Myanmar đến Thailand đến Lào và Campuchea) đều sợ và ghét thái độ ngạo mạn đó, tuy một số nước đang mắc vào cái “bẫy nợ” (debt trap) của Trung Quốc (như một bi kịch). 
Gần đây, Graham Allison (giám đốc Belfer Center, Harvard KSG) nổi tiếng vì thuyết cái bẫy “Thucydides trap”. Allison lập luận rằng sớm muộn Mỹ (cường quốc cũ) và Trung Quốc (cường quốc mới trỗi dậy) sẽ bị xô đẩy vào cuộc chiến tranh khó tránh khỏi. Một số nhà nghiên cứu khác cũng lo ngại chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang leo thang có thể là màn khởi đầu (prelude) dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới mới. Tôi hy vọng là họ sai.   
Bàn cờ chiến lược mới và Trumpism   

Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung là một phần của bàn cờ chiến lược mà Mỹ đang triển khai (theo NDS & NSS) nhưng không tách rời hiện tượng “Trumpism”. Đó là một hiện tượng bất thường trong chính trường Mỹ, làm đảo lộn bàn cờ chính trị nước Mỹ và thế giới. Vì vậy cuộc chiến thương mại diễn biến khó lường, đang vượt ra khỏi những khuôn khổ và hệ quy chiếu mà người ta đã quen mấy thập kỷ qua (từ thời chiến tranh lạnh đến nay).

Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung làm nhiều người bất ngờ, và làm người Trung Quốc đau đầu, vì nó diễn ra theo một quy luật và lộ trình khác trước. Nó không giống chiến tranh thương mại trước đây thường diễn ra giữa hai bờ Đại Tây Dương (hay với Nhật). Nó không chỉ làm đảo lộn cán cân thương mại Mỹ-Trung (hay với đồng minh) mà còn đe dọa làm đảo lộn bàn cờ chiến lược toàn cầu và trật tự thế giới. Nếu coi chiến tranh thương mại Mỹ-Trung cũng giống như với châu Âu hay với Nhật là nhầm lẫn, như “thấy cây mà không thấy rừng”.

Khi cử tri Mỹ bỏ phiếu cho Trump, họ không chỉ bỏ phiếu cho nhân vật bất thường đó, mà còn bỏ cho xu hướng muốn phục hồi nước Mỹ “vĩ đại trở lại”. Trump đã nhanh tay nắm bắt được xu hướng đó và thành công. Không phải Trump giỏi, mà các ứng viên khác của cả hai đảng dở, vì họ đã vô cảm trước những đòi hỏi thay đổi của cử tri Mỹ. Vì vậy trong những năm tới đây, dù Trump được tái cử hay thất cử, và ai khác lên thay thì chắc xu hướng đó vẫn tồn tại, vì nó lớn hơn cả Trump và Nhà Trắng. Dù Steve Bannon đã mất chức (cố vấn chiến lược của Trump), nhưng tư tưởng Bannonism vẫn còn tồn tại. Trump và Bannon tham vọng muốn thay đổi trật tự nước Mỹ và trật tự thế giới. Trump phải giữ lời hứa với cử tri lúc tranh cử, vì biết rằng đó là bảo bối duy nhất để ông chiếm được Nhà Trắng. dù có phải nói dối. 

Theo cách tính của Washington Post (Fact Checker’s database) Trump đã nói dối 3.259 lần (từ 1/6 đến nay) tính trung bình mỗi ngày 6,5 lần. Có lẽ đó là một kỷ lục. Theo Joe Nye, tuy nói dối không giống nhau (not all lies are born equal), nhưng nói dối quá nhiều sẽ làm suy giảm lòng tin (Too many lies debases the currency of trust). Tổng thống có thể nói dối để xóa dấu vết (cover his tracks), tránh bị mất mặt (avoid embarrassment), làm hại đối thủ (harm a rival) hay chỉ vì tiện lợi (for convenience). Trong khi nhiều người cho rằng Trump nói dối là do thói quen (out of habit), nhưng căn cứ vào tần xuất, lặp đi lặp lại, và tính chất sỗ sàng của lời nói dối, nó không phản ánh thói quen, mà là một chiến lược có chủ ý để làm tổn thương cơ chế sự thật. (White House of Lies, Joseph Nye, Project Syndicate, August 7, 2018). 

Có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về Trump. Có lẽ ông là tổng thống Mỹ gây tranh cãi nhiều nhất (chủ yếu là trái chiều) như một hiện tượng lạ trong lịch sử. Không phải chỉ có chính giới Mỹ, mà các học giả và báo chí Mỹ (và phương Tây) đều không thích Trump, trong khi ông dám công khai gọi báo chí Mỹ là “kẻ thù của nhân dân” (tuy con gái rượu Ivanka không đồng tình). Mặc dù Trump tạo ra nhiều tai tiếng như “một thiên tài ổn định” (a stable genius), nhưng ông lại nhất quán (ít nhất là đến nay) với tuyên bố lúc tranh cử (như “America first”). Tuy Trump phát biểu thiếu nhất quán (trên twitter), nhưng ông hành động nhất quán (như muốn thay đổi nước Mỹ). Nói cách khác, Trump không nhất quán, nhưng Trumpism nhất quán. 

Chiến tranh thương mại và Lighthizerism

Trong Nhà Trắng hiện nay, tuy Robert Lighthizer (Trade Reperesentative) và Peter Navarro (National Trade Council Director) không phải là “cặp đôi hoàn hảo”, nhưng cùng quan điểm cứng rắn với Trung Quốc, và được lòng Trump. Đó là hai nhân vật chủ chốt (như cánh tay phải và tay trái của Trump) trong cuộc chiến thương mại với Trung Quốc. Tuy chúng ta đã biết khá nhiều về Navarro, nhưng còn biết khá ít về Lighthizer. Nếu muốn hiểu chiến tranh thương mại Mỹ-Trung mà không biết rõ về Lighthizer thì thật thiếu sót. Chính Lighthizer mới là người điều hành cuộc chiến thương mại (như “trade czar”) chứ không phải Trump.

Nếu Peter Navarro là một giáo sư kinh tế vào loại trung bình ở Mỹ (chỉ thạo về lý thuyết), thì Lighthizer là một người điều hành chính sách chuyên nghiệp. Năm 1983, khi mới 36 tuổi Lighthizer đã từng làm phó đại diện thương mại (ngang thứ trưởng). Không chỉ có kinh nghiệm đàm phán thương mại, Lighthizer còn là một luật sư có nhiều kinh nghiệm chính trường. Năm 1996, Lighthizer từng làm cố vấn kinh tế cho Bob Dole, thượng nghị sỹ đảng Cộng hòa (tranh cử tổng thống năm 1996). Trong khi Trump nói bạt mạng (bất nhất), thì Lighthizer hành động nhất quán, theo một chủ thuyết (mà người ta gọi là “Lighthizerism”).

Triết lý kinh tế của Lighthizer có vai trò chủ đạo trong chính quyền Trump hiện nay, không phải để “co cụm lại” (retrenchment) mà để giành lại vai trò đầu tàu của Mỹ trên thế giới về sản xuất công nghiệp (manufacturing). Nó không nhằm chấm dứt toàn cầu hóa, mà tạo ra một giai đoạn toàn cầu hóa mới (more aggressive). Tầm nhìn của Lighthizer có thể tồn tại còn lâu hơn cả chính quyền Trump. Theo Lighthizer, để đối phó với “chủ nghĩa tư bản nhà nước” của Trung Quốc, Mỹ nên bắt chước đối phương để trở thành “tư bản nhà nước cao hơn”.

Các chính khách Mỹ đã tin vào thắng lợi tất yếu của nền dân chủ và tư bản (sau sự kiên bức tường Berlin), nên họ cứ tưởng Trung Quốc sẽ tất yếu đi theo dân chủ và tư bản. Đó là một sự ngộ nhận vì ngạo mạn (hubris). Trong buổi điều trần tại Quốc hội (26/7/2018) Lighthizer nhấn mạnh “người Trung Quốc có hệ thống của họ và đang thách thức hệ thống của chúng ta” (They have a system, and their system is challenging our system). Lighthizer khẳng định (9/2017) chủ nghĩa tư bản nhà nước của Trung Quốc là “mối đe dọa chưa từng có đối với hệ thống thương mại thế giới” (a threat to the world trading system that is unprecedented). (You Live in Robert Lighthizers World Now, Quinn Slobodian, Foreign Policy, August 6, 2018).

Những nghịch lý và ngộ nhận 

Thời chiến tranh lạnh, Tổng thống Nixon và Kissinger đã bắt tay với Mao Chủ tịch (năm 1972) để dùng “lá bài Trung Quốc” đối phó với Liên Xô. Nước cờ táo bạo đó đã làm đảo lộn bàn cờ thế giới, và chính sách “một nước Trung Quốc” đã tồn tại từ đó đến nay. Mỹ và phương Tây đã triển khai chính sách “can dự xây dựng” (constructive engagement) để giúp Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình”, tưởng một ngày nào đó Trung Quốc giàu mạnh sẽ trở thành “một nước dân chủ như chúng ta”. Trung Quốc đã làm theo lời khuyên của Đặng Tiểu Bình “ẩn mình chờ thời”, tranh thủ thời cơ để trỗi dậy, không chỉ trở thành siêu cường kinh tế (như Nhật Bản) mà còn đang trở thành siêu cường quân sự để vượt Mỹ, nhằm bá chủ thế giới. 

Tại sao người Trung Quốc đã dễ dàng qua mặt được người Mỹ? Không phải chỉ vì người Trung Quốc khôn ngoan, mà còn do người Mỹ (và phương Tây) ngờ nghệch, đã ngộ nhận và ảo tưởng rằng “bản sắc Trung Cộng” có thể thay đổi, khi Trung Quốc giàu mạnh. Nay người Mỹ tỉnh ngộ nhận ra sai lầm thì quá muộn, và phải trả giá đắt. Trung Quốc đã trở thành Frankenstein (theo lời Richard Nixon). Đó là một “hệ quả bất định” (unintended consequence). Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung không đơn thuần về thương mại như người ta tưởng.

Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ (năm 2016) Donald Trump đã lần lượt đánh bại các ứng cử viên nổi tiếng của cả hai đảng Cộng Hòa và đảng Dân Chủ, làm nước Mỹ và thế giới bất ngờ. Tại sao các chính khách chuyên nghiệp tài giỏi (như Hillary Clinton) lại thua một người như Trump? Có nhiều lý do, nhưng chủ yếu vì họ đã ngạo mạn và ngộ nhận nên vô cảm trước các thực tế mới. Nhiều chuyên gia (như pollters/pundits) cũng ngộ nhận và dự đoán sai. Vì vậy, ngộ nhận là căn bệnh cố hữu của con người, không trừ một ai. Không phải chỉ có người dốt mới ngộ nhận và sai lầm, mà những người tài giỏi càng dễ ngộ nhận và sai lầm. 

Tập Cận Bình cho rằng Trung Quốc đã đủ mạnh và đến lúc Trung Quốc không cần “ẩn mình chờ thời”.  Trung Quốc đã công khai thách thức Mỹ, và quyết vượt Mỹ bằng chiến lược “Một Vành đai Một con đường” (BRI) và “Made in China 2025”. Lâu nay Trung Quốc quen dựa vào công nghệ và đầu tư của Mỹ và phương Tây để phát triển nhanh bằng xuất khẩu. Nhưng chiến tranh thương mại và chiến lược quốc phòng (NDS) đang đe dọa chặn đứng tham vọng này của Trung Quốc. Nay đến lượt người Trung Quốc ngộ nhận và mắc sai lầm.

Trò chơi quyền lực mới

Ngày 2/12/2016, Henry Kissinger (93 tuổi) đã đến Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình, và được Tập ca ngợi là “người bạn lớn” của Trung Quốc. Sự kiện đó diễn ra ngay sau khi Trump thắng cử, và điện đàm với tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn (cùng ngày 2/12/2016) làm Tập Cận Bình bất ngờ và tức giận. Có thể lúc đó Trump đã nghĩ đến “lá bài Đài Loan” và “lá bài Nga” để đối phó với Trung Quốc (nhưng còn quá sớm). Có lẽ tầm nhìn chống Trung Quốc là chiến lược nhất quán (lâu dài), còn quan hệ thân thiện với Tập là chiến thuật (trước mắt), để đối phó với Bắc Triều Tiên. Nay Trump đã bắt tay với Kim Jong-Un (12/6/2018), thì có lẽ đến lúc Trump có thể bắt tay với Putin để đối phó với Trung Quốc (tuy còn nhiều tranh cãi).

Sau khi Tập Cận Bình củng cố được quyền lực tuyệt đối tại Đại Hội Đảng 19 (như “Hoàng đế Đỏ”), Trump đã công bố chiến lược quốc phòng (NDS) và bổ nhiệm John Bolton (một nhân vật diều hâu thân Đài Loan) làm chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia (thay McMaster). Trong bối cảnh đó, “người bạn lớn” Kissinger có thể “trở mặt” khuyên Trump dùng “lá bài Nga” để đối phó với Trung Quốc (điều đó chẳng có gì lạ). Nhưng nếu Tập bị bất ngờ thì chứng tỏ ông đã ngộ nhận và quên rằng “không có đồng minh vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn”. Theo báo Daily Beast (26/7/2018) quan điểm về “lá bài Nga” đã được các cố vấn chủ chốt của Trump tán thành, trong đó có Jared Kushner (con rể và cố vấn cấp cao trong Nhà Trắng).

Nếu Mỹ thực sự bắt tay với Nga để đối phó với Trung Quốc như “mối đe dọa số một” (theo NDS) thì đó là tin xấu (bad news) cho Bắc Kinh. Tuy nhiên, kịch bản này không dễ như “một bữa tiệc” (a dinner party), vì Putin “quyền biến” và chơi bài poker giỏi. Chưa biết bao giờ Putin sang thăm Washington (theo lời mời của Trump) và còn quá sớm để dự đoán kết cục của nước cờ tiếp. Tuy nhiên, khi Trump bắt tay Kim ở Singapore (12/6/2018) và bắt tay Putin ở Helsinki (16/7/2018) chắc Tập Cận Bình đang nín thở theo dõi. Cuộc gặp Trump-Kim tuy chưa có kết quả rõ ràng, nhưng đó là một bước ngoặt chiến lược tại bán đảo Triều Tiên. Có lẽ Bắc Kinh đã đánh giá sai về Trump, và các đồng minh EU của Mỹ. Không biết đó là lỗi của Lưu Hạc (không nhạy bén) hay của Tập Cận Bình (không chịu lắng nghe), nhưng chuyến đi Mỹ của Lưu Hạc (15-19/5/2018) đã thất bại vì “quá ít quá muộn” (too little too late).   

Theo báo Financial Times (20/7/2018) Kissinger đã từng cảnh báo nếu Mỹ và châu Âu chia rẽ thì “châu Âu sẽ trở thành chư hầu của lục địa Âu-Á” bị Trung Quốc thao túng. Có một nghịch lý là nhiều người trong Quốc Hội và giới báo chí Mỹ (cũng như đồng minh NATO) đang tỏ ra bảo thủ và chậm thay đổi tư duy chiến lược còn hơn người Trung Quốc. Dù sao, cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung sẽ kéo dài và kéo theo chiến tranh về tiền tệ, về công nghệ, và địa chính trị, nên sẽ quyết liệt và khó lường. Đó là trò chơi quyền lực mới giữa hai siêu cường có hệ quy chiếu và hệ điều hành khác hẳn nhau. Trong cuộc chiến này, chưa có dấu hiệu hay lý do để Trump xuống thang đàm phán, như Bắc Kinh vốn ảo tưởng và ngộ nhận. 

Theo các chuyên gia, Mỹ đã vô hình trung theo một chính sách thương mại “ngõ cụt” (cul de sac). Bằng cách kích cầu tài khóa (fiscal stimulous) và tăng sản xuất (manufacturing) chính quyền Trump khuyến khích đầu tư, làm thâm hụt thương mại càng nặng. Với lãi suất tăng cùng với tăng trưởng, đồng USD sẽ lên giá, làm cản trở xuất khẩu. Vì vậy, Mỹ càng tìm cách tháo gỡ vấn đề thương mại, thì vấn đề đó càng lớn. Rủi ro hiện nay là chính quyền Trump thất vọng với hệ quả chính sách, lại càng phải “chơi rắn hơn” (double down). Tuy chính quyền Trump đã đi quá xa, nhưng họ có thể cho rằng vẫn chưa đủ xa. (The Trump Administration’s Dead End on Trade, James McCormack, Project Syndicate, August 9, 2018).

Những hệ lụy nhãn tiền

Theo Financial Times, thị trường chứng khoán Trung Quốc đã mất 2.290 tỷ USD (tương đương 27%) trong tám tháng qua. Hôm 3/8/2018 (sau bốn năm) Nhật đã thay thế Trung Quốc, trở thành TTCK lớn thứ hai thế giới. Bắc Kinh tuyên bố sẽ đánh thuế lên 110 tỷ USD so với 130 tỷ USD giá trị hàng hóa Mỹ nhập vào Trung Quốc năm 2017, trong khi Mỹ tuyên bố sẽ đánh thuế lên 250 tỷ USD trong tổng số 505 tỷ USD giá trị hàng hóa Trung Quốc nhập vào Mỹ năm 2017. Cả hai bên vẫn chưa có dấu hiệu xuống thang, làm tăng nguy cơ bùng phát một cuộc chiến tổng lực giữa hai siêu cường kinh tế đứng đầu thế giới. IMF cảnh báo cuộc chiến thương mại này có thể làm trật bánh xe tăng trưởng kinh tế toàn cầu. (Trump claims US is winning trade war with China, Yuan Yang & Sam Fleming, Financial Times, August 6, 2018).

Cùng với chiến tranh thương mại, Mỹ đang triển khai chiến lược quốc phòng. Ngày 1/8/2018, Quốc hội Mỹ đã thông qua Luật Ủy quyền Quốc phòng (NDAA) cho năm tài chính 2019, với ngân sách mới (716 tỉ USD, tăng 16 tỉ USD so với năm tài chính 2018). Tiếp theo NDS, luật NDAA đề ra ba mục tiêu chính tại Biển Đông: Thứ nhất là chi 425 triệu USD về thiết bị và đào tạo (trong 5 năm tới) cho các nước khu vực (như Philippines, Indonesia, Malaysia, Việt Nam). Thứ hai là khai trừ Trung Quốc khỏi các cuộc diễn tập RIMPAC. Thứ ba là Lầu Năm Góc phải báo cáo với Quốc hội về sự bành trướng gia tăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo Greg Poling (CSIS/AMTI director), tuy NDAA có thể chưa đủ sức ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy, nhưng đây là “một phát súng cảnh cáo Trung Quốc” của Quốc hội Mỹ.
Theo một số chuyên gia Trung Quốc, Bắc Kinh “đã mắc hai sai lầm lớn”. Một là họ đã đánh giá sai về Trump và quá tự tin cho rằng Trump chỉ dọa già vì lý do chính trị (sắp bầu cử giữa kỳ). Vì vậy, Bắc Kinh đã coi thường và không nhạy bén trước tâm lý “bài Trung” đang dâng cao trong chính giới Mỹ. Hai là Bắc Kinh đã ngộ nhận, tưởng liên minh Mỹ-châu Âu đang rạn nứt nên họ có thể phân hóa, lôi kéo các nước EU theo mình (để đối phó với Mỹ). Trong khi Trump là người bất thường và khó lường, Tâp lại quá tự tin và không lắng nghe (hoặc các cố vấn không dám nói) nên Bắc Kinh đã xa rời thực tế, không nắm được bức tranh thực sự, nên mới bị bất ngờ và bị động trước các đòn quyết liệt của Trump. Nếu cuộc chiến tranh thương mại này kéo dài, kinh tế Trung Quốc có nguy cơ suy thoái và sa vào “bẫy thu nhập trung bình”.

Sắp tới nếu Trung Quốc phá giá đồng NDT (Yuan) khoảng 12% (như dự báo) để đối phó với tuyên bố của Trump sẽ tăng thuế lên 25% trên 200 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc (từ tháng 9/2018). Nếu điều đó diễn ra, các nước Đông Nam Á (như Malaysia, Thailand, Indonesia, và Việt Nam) sẽ bị “hoảng loạn” (panic). Theo báo Guardian (4/7/2018), rạn nứt đã xuất hiện trong hệ thống quyền lực tuyết đối của Tập Cận Bình. Có nhiều tin đồn là Tập sẽ “bị rắc rối” tại hội nghị Bắc Đới Hà (đang họp), vì các vấn đề như: (1) chiến tranh thương mại với Mỹ, (2) kinh tế đang phát triển chậm lại, (3) vụ bê bối về vaccine cho trẻ em. (Cracks appear in invincible Xi Jinping’s authority over China, Lily Kuo, the Guardian, August 4, 2018).

Theo chuyên gia kinh tế Phạm Đỗ Chí, “mối lo lớn nhất hiện nay về chiến tranh thương mại là đồng NDT phá giá”. Nếu Việt Nam buộc phải phá giá VNĐ để đối phó, lạm phát sẽ tăng. Nếu tỷ giá VNĐ giảm tới mức 24,500-25,000 VNĐ/1 USD, áp lực lên nền kinh tế sẽ rất lớn. Nhưng Ngân hàng Nhà nước không nên bảo vệ tỷ giá bằng cách dùng dự trữ ngoại hối để can thiệp, vì dự trữ hiện nay (trên 70 tỷ USD) có thể bay mất trong vòng 1 tháng. Một số người cho rằng Việt Nam sẽ có lợi (về lâu dài) khi chuỗi cung ứng dịch chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam, trong khi “tác động của đồng NDT phá giá là ngay lập tức”. (Forget US China trade war tariffs this is what really worries Asia, Bhavan Jairagas, SCMP, August 4, 2018).

Các chuyên gia quốc tế nói gì

Các chuyên gia thường có ý kiến đánh giá khác nhau về bối cảnh và bản chất chiến tranh thương mại và quan hệ Mỹ-Trung. Nghiên cứu gần đây của David Shambaugh đáng chú ý. Ông đã dành nhiều thời gian nghiên cứu sâu về khu vực (năm 2017), nhưng đáng tiếc là tài liệu này chưa cập nhật được các sự kiện quan trọng diễn ra trong năm 2018 (gặp cấp cao Mỹ-Triều, thay đổi chính phủ Malaysia, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung). Bài của Minxin Pei và Elizabeth Economy bổ sung kịp thời, tuy các chuyên gia có quan điểm hơi khác nhau. 

Theo Shambaugh, Mỹ và Trung Quốc đang cạnh tranh ngày càng toàn diện ở Đông Nam Á, cả về chiến lược và các lĩnh vực khác (như thương mại). Sự cạnh tranh này là “mềm” (soft) chứ không phải “cứng” (hard), và gián tiếp (indirect) chứ không phải trực tiếp (direct). Đó chưa phải là cạnh tranh bằng phản ứng tức thì, ăn miếng trả miếng, chỉ có thắng hay thua (acute action-reaction, tit-for-tat, zero-sum competition) như thời chiến tranh lạnh.

Shambaugh cho rằng hai siêu cường này có thể đạt được một dạng thức “cùng tồn tại trong cạnh tranh” (competitive coexistence). Vì vậy cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung có thể được giới hạn để không trở thành đối kháng hay máy móc (adversarial or kinetic). Các nước khu vực có vai trò cốt yếu nếu duy trì “các chiến lược cân bằng, trung lập và truyền thống” (traditional, neutralist hedging strategies). Một số nước gần đây ngả theo Trung Quốc không giúp được gì cho họ, mà còn gây áp lực buộc Mỹ phải có chiến lược đối phó với Trung Quốc. Tầm nhìn “Indo-Pacific tự do và rộng mở” của chính quyền Trump là một minh chứng cụ thể. 

Theo Shambaugh, khi Trung Quốc bành trướng quá trớn (overreaches) và trở nên quá hung hăng tại khu vực (như đang diễn ra), Mỹ cần tăng cường sự có mặt (về quân sự) để được các nước khu vực coi là một đối tác tin cậy. Đã đến lúc Mỹ phải vượt qua sự can dự lẻ tẻ tại Đông Nam Á, để có vai trò quan trọng hơn về chiến lược tại khu vực này, và coi đó là một ưu tiên trong cam kết toàn cầu của Mỹ. (U.S.-China Rivalry in Southeast Asia: Power Shift or Competitive Coexistence? David Shambaugh, International Security, May 2018).

Theo Minxin Pei, Tập Cận Bình đang phải đối phó với “một mùa hè tồi tệ nhất kể từ khi lên cầm quyền” (từ 12/2012). Có những dấu hiệu bất ổn đang làm người Trung Quốc, đặc biệt là giới tinh hoa, “cảm thấy thất vọng, lo lắng, tức giận, bất lực, và bất bình đối với các nhà lãnh đạo đầy quyền lực của họ”. Về kinh tế, chứng khoán tiếp tục lao dốc, làm dự trữ ngoại hối bay theo, trong khi đồng NDT tiếp tục bị phá giá, làm kinh tế Trung Quốc phát triển chậm lại. Về cơ bản, Trung Quốc vẫn phụ thuộc sâu sắc vào thị trường và công nghệ Mỹ. “Trong khi Trung Quốc muốn trở thành bá chủ thế giới và lập lại trật tự toàn cầu, thì chiến tranh thương mại đang làm Trung Quốc bộc lộ các mặt yếu kém như một “người khổng lồ chân bằng đất sét”. (Chinas Summer of Discontent, Minxin Pei, Project Syndicate, August 2, 2018).

Theo Elizabeth Economy (CFR), Trung Quốc muốn thay đổi thế giới theo chủ ý của họ và “dẫn dắt cải cách về quản trị toàn cầu” (lead in the reform of global governance). Trong khi Hồ Cẩm Đào nói rằng Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình” (peacefully rising), thì Tập Cận Bình tuyên bố mục tiêu là “thống nhất Trung Quốc trước năm 2049”. Tập Cận Bình tuyên bố Trung Quốc “có ý định và năng lực thay đổi trật tự thế giới”. Trung Quốc đã thiết lập căn cứ quân sự đầu tiên tại Djibouti (2017) và tiếp theo chắc sẽ có nhiều căn cứ tại các nước khác. Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc đã kiểm soát 76 hải cảng tại 35 nước. (Xi Jinping’s Superpower Plans, Elizabeth Economy, Wall Street Journal, July 19, 2018).

Lời kết

Một số người cho rằng Trung Quốc “còn nhiều cửa”, nhưng theo tôi các “cửa sổ cơ hội” (nếu có) đang khép lại. Về cơ bản, Trung Quốc chỉ có ba sự lựa chọn: Một là đầu hàng. Hai là leo thang. Ba là chọn giữa đầu hàng và leo thang. Đến nay, dường như Trung Quốc đang chọn cách thứ ba. Nói một cách khác, Mỹ và Trung Quốc như hai con voi khổng lồ đang mắc kẹt vào một trò chơi quyền lực mới (a new game of thrones). Tuy đã quá muộn để hai con voi dừng lại (vì quá kiêu ngạo), nhưng còn quá sớm để chúng thỏa hiệp (hay lùi bước).

Theo hầu hết các chuyên gia, sự lựa chọn khôn ngoan nhất hiện nay là Việt Nam hãy nhân cơ hội này để “thoát Trung”. Cần cải cách thể chế toàn diện (đổi mới “vòng 2”) để tạo đà phát triển mới, và hội nhập vào kinh tế toàn cầu (theo luật chơi quốc tế). Đây là lúc “Mỹ-Trung đánh nhau và hành động của chúng ta” (như năm 1945). Trong bối cảnh đó, nếu thông qua “luật An ninh Mạng” và “luật Ba Đặc khu” là lợi bất cập hại, như “tự bắn vào chân mình”.  Nếu vẫn kiên định bảo vệ quan hệ truyền thống với Bắc Kinh (vì “đại cục”), tiếp tay cho Trung Quốc né tránh thuế quan của Mỹ bằng hàng “made in Vietnam” để tái xuất qua các “Đặc khu Kinh tế” và “Khu Hợp tác Kinh tế Qua Biên giới”, chắc không thoát được trừng phạt của Mỹ.

Trong khi chính quyền Trump đã bỏ TPP (và chưa biết bao giờ quay lại), Đức đã cắt quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam (vì vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh). Nay quan hệ của Việt Nam với Slovakia cũng đang khủng hoảng, đe dọa triển vọng ký kết EVFTA. Nếu quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ cũng bị khủng hoảng làm Việt Nam bị vạ lây (như một hệ quả kép) vì chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang leo thang, không biết Việt Nam sẽ dựa vào đâu để phát triển, và bảo vệ chủ quyền của mình tại Biển Đông. Đây là một bi kịch quốc gia.

Tham khảo

1. US-China Rivalry in Southeast Asia: Power Shift or Competitive Coexistence? David Shambaugh, International Security, May 2018

2. The Shape of Sino-American Conflict, Minxin Pei, Project syndicate, June 6, 2018

3. China’s Summer of Discontent, Minxin Pei, Project Syndicate, August 2, 2018

4. Xi Jinping’s Superpower Plans, Elizabeth Economy, Wall Street Journal, July 19, 2018

5. As China’s Woes Mount, Xi Jinping Faces Rare Rebuke at Home, Chris Buckley, New York Times, July 31, 2018.

6. Hot water, Bill Hayton, Mekong Review, Issue 12, August 2018. (Review of Asian Waters: The Struggle Over the Asia Pacific and the Strategy of Chinese Expansion, Humphrey Hawksley, Overlook Press, June 2018).

7. Cracks appear in invincible Xi Jinping’s authority over China, Lily Kuo, the Guardian, August 4, 2018.

8. Forget US-China trade war tariffs: this is what really worries Asia, Bhavan Jairagas, South China Morning Post, August 4, 2018.

9. Trump claims US is winning trade war with China, Yuan Yang & Sam Fleming, Financial Times, August 6, 2018

10. You Live in Robert Lighthizer’s World Now, Quinn Slobodian, Foreign Policy, August 6, 2018

11. White House of Lies, Joseph Nye, Project Syndicate, August 7, 2018).  2018

12. The Trump Administration’s Dead End on Trade, James McCormack, Project Syndicate, August 9, 2018

NQD. 10/8/2018
(Tác giả gửi cho viet-studies ngày 10-08-2018)

Sunday, January 15, 2017

PHÂN TÍCH GIÁ TÀI SẢN, TÀI NGUYÊN TẬP TRUNG - Phương Thơ

PHÂN TÍCH KHI GIÁ TÀI SẢN, TÀI NGUYÊN TẬP TRUNG QUÁ LỚN VÀO THIỂU SỐ LỢI ÍCH NHÓM LÀM NGHÈO ĐẤT NƯỚC. (Bài này tôi đăng lại, cuối tuần tôi ghé đọc báo VN khá lâu)

Đây là bài phân tích khá chuyên về kinh nghiệm trong đầu tư mà tôi thẩm định rủi ro dự án cũng như tham gia quản lý các quỹ đầu cơ xưa kia và đúc kết ra kinh nghiệm rất chuyên môn khi phân tích "kinh tế vĩ mô quốc tế", về sự giàu nghèo của các quốc gia bị chi phối bởi các tập đoàn kinh tế lớn, và thiểu số tỷ phú $ chi phối nền kinh tế.
Trên thế giới, nếu giá tài sản tập trung vào một số tỷ phú hay các tập đoàn công nghiệp không chi phối về sản phẩm số đông của người dân thì nó thúc đẩy nền kinh tế đó sản sinh ra nhiều công ty phụ trợ rất sáng tạo, đôi khi còn vượt trội cả công ty mẹ.
Đó là những tên tuổi lẫy lừng tạo ra nhiều công việc làm rất lớn, cũng như tạo ra nhiều công ty gia công thiết bị linh kiện cho họ mà không ngốn tài nguyên của quốc gia như đất đai, sông biển,...như trường hợp Boeing, Caterpillar, Cisco, General Electric, Apple, IBM, Sony, Microsoft, Intel, Airbus, BMW, Volkswagen, Toyota, Siemens, Telefonaktiebolaget LM Ericsson, Samsung,...nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển vượt bậc, vì không cạnh tranh ngay chính lĩnh vực khác của người lao động như người dân làm nông nghiệp chẳng hạn. Nếu tiền càng tập trung nhiều vào những lãnh đạo các đại công ty này thì họ càng mở rộng phát triển mạnh và thu dụng thêm nhiều nhân công nữa.
Tuy nhiên đối ngược lại tại những quốc gia mà giá tài sản tập trung quá lớn vào nhóm lợi ích chi phối quá lớn về đất đai tài nguyên của quốc gia, và họ tập trung cạnh tranh với chính ngành nghề của người dân họ thì nó gieo họa cho cả đất nước sẽ tan vỡ tan tành, quốc gia mất sáng tạo, nền kinh tế suy yếu vì đánh sụt giá tài sản của người dân, làm giảm sức tiêu dùng người dân.
Lý do rất đơn giản, tại VN, số lượng người giàu và tỷ phú nổi lên rất nhanh chóng, một số ít thì đi lên bằng sáng tạo, phần còn lại đi nên từ kinh doanh bất động sản, và thậm chí là các dự án nông nghiệp cạnh tranh với chính người nông dân họ. Thay vì thiểu số các đại gia này nên tập trung phát triển các ngành nghề khác cần thiết cho nền công nghiệp của VN, nhưng họ chẳng làm nổi chuyện này và để khoảng trống tai hại cho các doanh nghiệp TQ thao túng đủ mọi ngành nghề cơ bản nhất như cơ khí chế tạo, vật liệu cơ bản, điện tử, tin học, hóa-sinh,...của VN.
Giới đại gia đi lên bất động sản này ít khi nào dám bỏ tiền liên kết đầu tư thí nghiệm phát triển hóa-sinh về hạt giống cây trồng nhằm cung cấp cho nông dân, nhưng đằng này họ đi theo nghiệp vụ đầu tư "thuần nông chính hiệu dễ làm nhất", họ chỉ kinh doanh để cạnh tranh với chính sản phẩm của nông dân của họ. Đó là họ có tiềm lực tài chính mờ ảo và mờ ám nên dễ dàng bao tiêu mua hoặc sở hữu hết đất nông nghiệp rất lơn, và vô tình đẩy các nông dân (nông gia) khỏi cuộc chơi vì đất đai sinh kế của họ càng bị thu hẹp,...
Thậm chí là hiện nay một số đại gia của VN quay sang trồng rau sạch cạnh tranh với chính nông dân trồng rau của họ, thay vì giới chức VN nên hướng dẫn để nông gia (nông dân) VN trồng rau sạch, hay trồng các sản phẩm nông nghiệp theo tiêu chuẩn của thị trường, vì người dân họ thừa kinh nghiệm để làm chuyện này, việc khá đơn giản, nó cũng làm tăng thêm thu nhập của người dân, nhưng ở VN cả đội ngũ đông đảo giáo sư, tiến sĩ nông nghiệp tại VN có vẻ họ chẳng làm lên trò trống gì cho nông dân. Đó là tôi phân tích riêng biệt đối với VN, chuyện thực tế diễn ra hàng ngày.
Thậm tệ người ta còn tranh giành thị phần nước mắm truyền thống của người dân VN bằng mọi thủ thuật để đẩy nhiều doanh nghiệp đích thực của VN ra khỏi cuộc chơi thì thử hỏi làm sao mà đất nước này khá lên được khi mà người ta tranh phần nhau những nghiệp vụ đầu tư của cả nông dân.
Hãy nhìn sang các nước Singapore, Đài Loan, Canada, Úc, Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, và cả khối kinh tế EU,... có nơi nào trên thế giới như tại VN mà người ta lấn sân quá mức để dành phần thị trường của nông dân nghèo hay không?
Bài học lỗ hổng tai hại của nền kinh tế VN đó là mới đây dẫn nguồn nhiều tờ báo tại VN trích dẫn "Doanh nghiệp Trung Quốc đề xuất xây nhà máy kẽm ở Huế", hay Tập đoàn FLC đòi UBND dời trụ sở để nhường đất vàng cho doanh nghiệp xây dựng xây dựng tổ hợp tháp đôi thì thử hỏi làm sao mà VN khá lên nổi bởi những doanh gia hay nói đúng hơn là "doanh gian" này chỉ có biết dành đất của của quốc gia và nhắm vào những miếng đất vàng miễn phí mà ít trả thuế và phí chỉ để làm lợi cho họ thì làm sao mà đất nước khá lên nổi.
Nếu cả đất nước nước này toàn thấy 8/10 doanh nghiệp đều dính dáng đến tài nguyên quốc gia để làm giàu và gom đất chiếm dụng quá lớn lao mà không tạo ra sản phẩm thực tế cho sản xuất về trí tuệ thì làm sao mà VN có được những doanh nghiệp như Đài Loan chẳng hạn: Foxconn Technology, Acer, Asus, BenQ, D-Link, Dopod, Nanya Technology, ADATA Technology Co, Ltd, Alchip,... để mà thu hút khách đầu tư trí tuệ thay vì chỉ có thu hút khách đầu tư bất động sản, sắt thép,... toàn những thứ đầu tư bong bóng độc hại.
Không phải tôi hay nặng lời, đó là sự thật khi tôi tư vấn cho các doanh nghiệp công nghệ cao hay các doanh nghiệp chuyên về công nghiệp chế tạo, họ cũng rất muốn đầu tư vào VN nhưng các dự án kém phẩm chất đã chật chội và chiếm hết phần tài nguyên lớn, còn phẩm chất gia công linh kiện thì hầu như không có doanh nghiệp nào của VN đáp ứng tiêu chí của họ,...thì làm sao mà họ dám đầu tư vào VN được.
Trong kinh tế học, khi một số tài sản quá lớn dồn vào một thiểu số chiếm dụng tài nguyên đất đai, bờ biển quá rộng mà không sử dụng cho mục đích sản xuất hay đầu tư thực tế, mà họ chỉ găm vào đó để đóng băng những thứ tài sản này chỉ bán được cho người dân trong nước thì thật đáng ngại, vì cả tiền vay ngân hàng và tài nguyên đất đai quá lớn cứ châm vốn vào đó chỉ để bảo vệ tài sản ảo của họ, hoặc chỉ để cho người vay dễ mua nhà để giải phóng bớt hàng tồn kho nhằm cứu những thiếu số mắc kẹt thổi bóng bất động sản lỡ vay tiền ngân hàng để bán ra khỏi bị lỗ vốn mà còn dư tiền trả lãi ngân hàng thì rất nguy hiểm cho nền kinh tế. Đó là bởi vì mức thu nhập người mua nhà quá cao đó khiến người ta lỡ mua nhà chỉ lo tiết kiệm để trả lãi và ít chi tiêu, ít mua sắm, làm cho tiêu dùng nội địa bị sút giảm thì nguy cấp.
VN là quốc gia có mức tăng trưởng tín dụng thuộc loại Top đầu của thế giới, nhưng như tôi hay nhắc, mức tín dụng đó bơm ra mà không đưa vào đầu tư mà chỉ chảy lòng vòng những khí cụ đầu tư như tôi hay phân tích thì thật đáng báo động.
(*) Thực tế không phải tôi hay phê phán ai, bất kể người Mỹ nào họ cũng luôn ưu ái VN cả, đó là xuất khẩu của VN vào thị trường Mỹ chiếm một ngạch số lớn hơn bất cứ thị trường nào mà VN xuất khẩu, và người Mỹ cũng rất muốn VN giàu mạnh như Hàn Quốc cả để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, cũng như không lệ thuộc vào các dự án đầu tư bẩn của TQ, nhưng đành chịu, vì tại VN nếu bạn là nhà phân tích giàu kinh nghiệm thì sẽ thấy ra là VN đang phí phạm quá lớn về thu gọn với các nước khác, và đang chệch hướng và lạc hậu vì số người quá bảo thủ duy ý trí, nhưng đây là chuyện nội bộ của VN, vì các nước khác cũng không có quyền xông thẳng vào VN mà nói ông này lãnh đạo kém cỏi hay ông kia thế này cả.

(Phương Thơ )

Thursday, November 17, 2016

Phương Thơ & giá vàng

11/13/2016
VÌ SAO VÀNG KHÔNG THỂ VƯỢT QUA MỨC 1.500 $ MỘT OUNCE CHỨ CHƯA NÓI CAO NHẤT 1.895 $ MỘT OUNCE VÀNG VÀO NGÀY 5/9/2011.

Bài viết này chúng tôi phân tích lại và bổ sung vài ý, vì cơn địa chấn vàng vừa rối khiến nhiều người ngơ ngác, kẻ thì cười hớn hở vì có mua vàng giá đáy bán được giá cao, còn người mua vàng từ giá đỉnh thì nhận được giá giảm thì buồn rầu và tức giận.

Trước phân tích về giá vàng thì tôi đã phân tích nhiều lần và nhiều năm rồi và cuối cùng vàng nó vẫn quay lại cái nơi mà tôi đã phân tích cách đây hai năm. Tại VN, quốc gia này có 3 khí cụ đầu tư tích trữ tài sản là USD, vàng, và tiền VND, tuy nhiên tích trữ tài sản lớn thì dân chúng xứ này lại tích trữ tài sản khác như vàng, USD, và các đơn vị tiền tệ khác, miễn rằng đó không phải là tiền VND là được nên thật phũ phàng mà cũng chẳng thể oán trách ngươi dân dại dột mua vàng bị mất giá hay được giá. Nền kinh tế quanh năm có cụm từ "ổn định, bình ổn giá vàng, và chống đô la hóa".

Hiện nay điều mỉa mai nhất là giao dịch vàng Gold (Comex) thì vàng đã rớt giá tan tành từ mức đỉnh gần nhất là ngày 2/11/2016, giá vàng đạt mức 1.308,20 $ một ounce thì đóng cửa nghỉ lễ giá vàng sụt còn 1.224,30 $ một ounce vàng, tức là sụt giảm mất toi 83,9 $ cho một ounce vàng chỉ vài hôm.

Về phân tích khá chuyên tầm vóc vĩ mô lớn hơn, là vì sao giá vàng chỉ xẩy ra bong bóng xưa kia rồi rơi giá. Đó là bởi vì năm xưa, nếu bạn là nhà đầu tư giàu kinh nghiệm, vàng tăng giá mạnh vào quãng năm 2011 là có lý do của nó khá chuyên môn về vàng. Cụ thể, trong ngày 18/4/2011 khi cơ quan thẩm định tài chính Standard & Poor's hạ thấp giá trị trái phiếu của Chính quyền Mỹ. Cụ thể, S&P hạ một nấc trái phiếu dài hạn của Mỹ, tuy vẫn ở loại "AAA" đáng tin nhất, nhưng từ "stable - ổn định" xuống "negative - tiêu cực", tức là trái phiếu dài hạn của Mỹ đang từ AAA (ổn định) xuống còn AAA (tiêu cực). Đồng thời thời S&P cũng đánh sụt trái phiếu ngắn hạn của Mỹ cũng bị hạ tới cấp gọi là "A-1+". Việc này, khiến giá trái phiếu của Mỹ sụt giá, lợi suất trái phiếu của Mỹ vọt lên trời gây rúng động các thị trường tài chính và chứng khoán thế giới. Các nhà đầu tư bán tháo tài sản Mỹ như trái phiếu, chứng khoán để đô xô vào vàng, đẩy giá vàng tăng không ngừng nghỉ.

Đã thế trong ngày 05/8/2011, S&P lần đầu tiên tước mất danh hiệu cao quý nhất trong lịch sử đánh giá tín nhiệm của Mỹ là "AAA" của Mỹ, và hạ thấp trái phiếu dài hạn của Mỹ xuống còn "AA+" (tiêu cực), việc này lại kích hoạt quả bom bong bóng trái phiếu Mỹ bùng nổ, khiến các nhà đầu tư bán tháo trái phiếu và cổ phiếu để mua vàng như là hầm trú ẩn an toàn để bảo vệ tài sản của họ, vàng đã tăng giá liên tục trong 1 tháng, nên đã đẩy giá vàng tăng kỷ lục là 1,895 $ một ounce trong tháng 09/2011 (tức là đúng 1 tháng sau vàng xác lập đỉnh cao nhất của nó trong ngày, thực tế giao dịch có lúc vàng vượt 1,895 $ một ounce vàng).

Hãy nhớ rằng cũng thời gian đó kể từ năm 2000, một cơ quan đánh giá tín nhiệm khác nữa là Fitch họ vẫn duy trì mức đánh giá tín nhiệm trái phiếu dài hạn của mức cao nhất là AAA (ổn định), nhưng vào ngày 28/11/2011 -- Fitch hạ thấp mức tín nhiệm trái phiếu dài hạn của Mỹ từ AAA (ổn định) xuống AAA (tiêu cực). Hai cơ quan đánh giá dụng này đã làm cho thị trường tài chính Mỹ và toàn cầu bốc hơi cả 1.000 tỷ $ trong thời gian ngắn, và thúc đẩy giá vàng tăng mạnh.

Hiện nay mức tín nhiệm của Mỹ đã được nâng hạng. Cụ thể Moody's, Fitch đánh giá đưa mức tín nhiệm trái phiếu dài hạn của Mỹ về mức cao nhất là AAA (ổn định). Trong khi S & P giữ mức hạng AA+ (ổn định).

Đối với việc đầu tư và ước đoán giá vàng diễn ra hàng ngày thì như tôi hay phân tích. Đó là với giá vàng, thông thường là giá vàng thường tăng giảm ngược chiều với đồng USD. Tuy nhiên, đối với các tay đầu cơ giàu kinh nghiệm, có thể dễ dàng phát hiện ra giá quá khứ của vàng nó cho chúng ta thấy rằng, khi thị trường chứng khoán tăng, thì thường là sẽ đẩy giá vàng giảm.

Tuy nhiên về lý thuyết và thực tế theo kinh nghiệm thống kê, có lúc giá vàng có xu hướng bật tăng lại bất chấp đồng USD không giảm mà đồng USD vẫn tăng cùng giá vàng. Đó là bất cứ một sự cố như một sự điều chỉnh của các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới, đó là thị trường chứng khoán giảm 10% tại các chỉ số chứng khoán lớn như Dow Jones, S & P 500, NASDAQ, hay chỉ số chứng khoán Euro Stoxx 50, chuyên theo dõi hiệu suất của 50 công ty Blue-chip dựa vào mười hai quốc gia khu vực đồng Euro: Áo, Bỉ, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ireland, Italy, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, hoặc chỉ số chứng khoán Nikkei 225, chuyên theo dõi hiệu suất của 225 công ty hàng đầu tại Nhật, cũng chỉ chỉ số chứng khoán khác như FTSE 100 tại London, CAC 40 tại Paris, hay chỉ số DAX trên thị trường chứng khoán Frankfurt,...bị điều chỉnh giảm giá đột ngột trên 10% trong khoảng 15 ngày đều có thể thúc đẩy giá vàng tăng.

Một ví dụ đơn giản thôi, đó là chỉ số chứng khoán Dow Jones, chuyên theo dõi hiệu suất giá chứng khoán của 30 đại công ty tiêu biểu nhất nước Mỹ, đây là chỉ số chứng khoán được theo dõi chặt chẽ nhất thế giới thì đã tăng điểm liên tục từ ngày 4/11/2016 là 17.888.28 điểm thì đến phiên giao dịch cuối tuần đóng cửa nghỉ lễ hô thứ Sáu thì Dow Jones tăng lên mức đỉnh cao nhất của mọi thời đại của 18.847,66 điểm cũng đồng nghĩa với việc đẩy giá vàng giảm nghịch đảo theo.

Ngoài ra kinh nghiệm cho thấy giá vàng thường sụt giảm theo chỉ số Chicago Board Options Exchange Volatility Index (VIX). Đây là một thước đo về mức độ biến động sự lạc quan và sợ hãi của thị trường của các nhà đầu tư Phố Wall. Bởi vì VIX, nó được sử dụng bởi các thị trường chứng khoán và các lựa chọn của các nhà đầu tư để đánh giá mức độ lo lắng của thị trường, thông thường chỉ số VIX tăng lên, mức sợ hãi của nhà đầu tư cũng tăng lên, các nhà đầu tư thường bán tháo cổ phiếu để chạy vào tài sản vàng và các khí cụ đầu tư khác. Khi chỉ số VIX giảm xuống, thì mức độ sợ hãi của nhà đầu tư cũng giảm (tức là hiệu ngược là mức độ lạc quan về thị trường chứng khoán tăng lên), các nhà đầu tư bắt đầu di chuyển khỏi vàng và đầu tư vào cổ phiếu, khiến họ bán tháo vàng đi làm cho giá vàng nó sụt giảm mạnh.

Kinh nghiệm cho thấy, các thước đo VIX, đo lường biến động 30 ngày dự kiến của chỉ số S & P 500. Hoặc VIX có thể đo trong 12 tháng tiếp theo, hay trong 30 ngày tiếp theo, hoặc hàng ngày. mà tôi hay phân tích chứng khoán, và chưa bao giờ bỏ qua yếu tố để test nó trong phân tích kỹ thuật cổ phiếu.

Một ví dụ kinh điển về chỉ số VIX, đó là khi ngày 4/11/2016, chỉ số VIX này tăng ở mức 22,51 điểm sợ hãi, khiến giá vàng cũng tăng vọt khá mạnh, tuy nhiên hiện nay VIX đã sụt đi 8,34 điểm sợ hãi (tức là tăng bấy nhiêu điểm lạc quan), đóng cửa ở mức còn 14,17 điểm, giá vàng vì thế mà cũng sụt giá tan tành theo mức sụt điểm của VIX.

Nói chung, tôi vẫn nhấn mạnh tầm quan trọng là giá vàng thường tăng nhiều hơn khi thị trường chứng khoán Mỹ như Dow Jones, S & P 500, NASDAQ rơi vào lãnh thổ con Gấu. Trong thống kê mới nhất của giới phân tích chứng khoán Phố Wall thì kể từ gần 115 năm nay tính từ năm 1900 - 2016, thị trường chứng khoán Mỹ đã 32 rơi vào thị trường con Gấu. Theo kinh nghiệm thì chúng thường xảy ra chu kỳ khoảng khoảng 1 năm hay 3,5 năm, và kéo dài trung bình đến khoảng 367 ngày. Để tính giá vàng tăng giảm thì ta tính gia đoạn từ năm 2000 là chuẩn nhất về thị trường con Gấu. Hiệu ứng ngược lại, giá vàng thường bị giảm giá khi thị trường chứng khoán Mỹ tiến vào lãnh thổ của thị trường con Bò, tất nhiên, định nghĩa của thị trường con Bò là khi thị trường chứng khoán phục hồi và tăng lên 17% - 20% hay nhiều hơn, nhưng thời gian thường khó xác định nó tăng khi nào chấm dứt (còn thị trường con Gấu thì giảm 20% hay nhiều hơn nữa trong nhiều năm),...

Ta thận trọng, hiện nay giá vàng đang bị kẹt bởi nạn giảm phát và lãi suất siêu thấp của các đồng tiền mạnh, chứ giá vàng không bị nạn lạm phát và lãi suất trên bình diện toàn cầu tăng như xưa, nên bất kể động thái nào gây hỗn loạn về giá vàng tăng mạnh thì các ngân hàng trung ương họ vẫn còn có khí cụ tăng lãi suất để chặn đà giá vàng tăng lên.

Đó là bởi vì, đầu tư vào vàng chủ yếu là người ta xem nó như là hàng rào bảo vệ tài sản của họ để chống lại một cuộc khủng hoảng kinh tế hay lạm phát phi mã tăng vọt. Nếu như ta thấy giá vàng giao dịch ở mức thấp, thì ta nên mừng, đó là có các nền kinh tế lớn vẫn còn lành mạnh chưa bị khủng hoảng, nhiều người thì hay mong là giá vàng vọt lên mây để thu lợi, nhưng phải trả giá là mua hàng hóa đắt đỏ vì nạn lạm phát và khủng hoảng kinh tế, vì đi mua cái gì cũng phải đổi ra tiền chứ đâu ai mang cái thỏi vàng nặng cả mấy ounce vàng, hay gram, hay cả kg vàng to như viên gạch để mua hàng hóa bao giờ đâu?

Hiện nay lãi suất của đồng USD là 0,5%, Euro (EUR) là 0.00% (lãi suất tái cấp vốn chuẩn của ECB áp dụng), lãi suất huy động -0,4%, Yên Nhật (JPY) -0,10%, Bảng Anh (GBP): +0,25%, Canada (CAD): +0,50%, Krona Thụy Điển (SEK): -0,50%, Franc Thụy Sĩ (CHF): -0,75%, và của đồng tiền Đan Mạch: -0,65%,...

Qua đó cho thấy các mức lãi suất các đồng bạc này khá thấp, nên bất cứ động thái nào tăng lãi suất mạnh lên của các đồng tiền kia trở lại bình thường đều khiến các nhà đầu tư bán vàng mà lao đầu vào mua tài sản các đồng tiền đó, khiến giá vàng bị mắc kẹt là khó tăng lại về mức 1.895 $ một ounce vàng như tuần đầu tiên của tháng 9/2011.

(*) CBOE Volatility Index (VIX) giảm theo giá vàng.

(**) Betsy Graseck; Phương Thơ - Chuyên viên phân tích tài chính và chứng khoán Morgan Stanley (NYSE:MS)