Showing posts with label Chuyện quê người. Show all posts
Showing posts with label Chuyện quê người. Show all posts

Sunday, August 17, 2025

Mạn phép trả lời ....



Vài ngày trước mình có viết bài phiếm "Loạn thế anh hùng" nhân dịp ông Trump và Putin hẹn gặp nhau ở Alaska. Viết cho vui thôi, nhưng nhận được nhiều phản hồi rất có giá trị và hữu ích từ các bằng hữu. Xin thành thật cảm ơn các bạn đã theo dõi và góp ý. Hôm này xin mạn phép trả lời một vài ý kiến của các bạn.

Trước hết có bạn hỏi: “Gặp mặt vậy thực sự có kết quả gì không? Giống như chủ đầu tư gặp cưỡng chế, mà không có chủ đất tham gia”. Thực ra cách ví von này cũng hay, nhưng không phải ai cũng hiểu được (mình biết trong này có nhiều bạn phải dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh để đọc). Theo thiển ý của mình, ở tầm cỡ quốc gia, với lực lượng cố vấn hùng hậu, tất nhiên việc làm nào cũng có chủ đích cả. Còn việc chủ đích đó có giống như bạn hoặc thiên hạ nghĩ hay không thì lại là chuyện khác. Mỗi người có cách hiểu và mục đích riêng của họ. Đại đa số nghĩ rằng cuộc họp mặt đó là vì hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Điều đó cũng hợp lý thôi, nhưng thực tế thì biết đâu mà lần, nếu có nắm rõ thì chỉ có người trong cuộc mới biết. Cho nên với câu hỏi “kết quả thực sự là gì?”, mình xin thưa là không biết, và cũng không thể gán ghép suy nghĩ của mình vào suy nghĩ của các vị kia được. Một số nhà phân tích thì dựa vào tính cách, tư duy, mức độ khả tín xưa nay, và "ngôn ngữ cơ thể" của 2 vị để đoán biết kết quả cuộc hội đàm. Mình thì không tin lắm về những đồn đoán như vậy, mà luôn cho rằng - kết quả bao giờ cũng là câu trả lời đúng nhất. Đợi thôi. Một bậc "thầy" nghệ thuật đàm phán, gặp một "cao thủ" nghệ thuật đu bám, mỗi người (hy vọng) đều có mục đích riêng để theo đuổi. Hoặc ít ra vài bữa nữa có dịp gặp nhau ở Mạc Tư Khoa để nghe câu hò Nghệ Tĩnh :-).

Ngoài lề chút, ngày xưa trong binh pháp Tôn Tử có kế thứ 2 là "Vây Nguỵ cứu Triệu". Sau này nhiều quốc gia, nhiều nhà lãnh đạo thế giới, mặc dù không hiểu tiếng TQ, chưa hề ăn dim sum, hoặc chưa hề đọc binh pháp, nhưng vẫn thường xuyên xử dụng kế sách đó khi cần giải nguy hoặc chuyển hướng những tình trạng khẩn thiết như kinh tế nhức đầu sổ mũi, mâu thuẫn nội bộ, dư luận bất lợi ..etc.. Bởi vậy, chính trị chính em thì thiên biến vạn hoá, hư hư thực thực. Đoán mò hoặc gán ghép chỉ là vẽ rắn thêm chân, đôi khi còn tổn hại đến sự tỉnh táo của bản thân. Xưa nay nhiều sự kiện nhìn từ bề ngoài kết quả không giống như đám đông "mong đợi", nhưng lại là kết quả "mĩ mãn" dưới mục đích khác của người trong cuộc. Hoặc có khi đám đông tự suy diễn và đánh giá quá cao ý nghĩa thực sự của vấn đề, làm cho câu chuyện mặn mà thêm. Đó cũng là chuyện thường tình :-).

Kế đến, là ý kiến rất thú vị của một anh bạn khác, cho rằng "... Hai người tuy tính tình khác nhau, nhưng giống nhau ở chỗ là cả hai thiếu hẳn yếu tố “vị tha,” chỉ có yếu tố “vị kỷ” thôi. Một người muốn làm người được ngưỡng mộ nhất thế giới. Người kia muốn làm người quyền lực nhất thế giới. Cả hai đều vui mừng khi người khác sợ họ. Tôi chưa từng nghe nói đến một vị "anh hùng" nào có những đặc điểm đó..."
Rất cảm ơn anh về sự chia sẻ này. Cũng muốn trao đổi thêm với anh về hai yếu tố “vị kỷ” và “vị tha”, theo cách nhìn cá nhân của mình về cuộc sống, chứ không nhất thiết liên quan đến vị lãnh đạo nào. Chắc hẳn mọi người đều biết vị tha và vị kỷ vốn là tính cách cố hữu của con người, kẻ nhiều người ít. “Vị kỷ” thì dễ thấy, bởi thường gắn liền với tiền tài, danh sắc, quyền lợi, và ít nhiều ai cũng có, nên dễ dàng nhận ra từ chính bản thân. Còn “vị tha” thì khó nhận ra hơn, vì ai cũng nghĩ mình cao thượng, dễ tha thứ, và giàu lòng nhân ái. Nhưng thực ra, nó gắn chặt với cái "ngã" bên trong, và con người rất dễ tự đánh lừa bản thân rằng mình “cao thượng”, "vị tha", cho đến khi gặp chuyện thử thách.

Tất nhiên, không ai vì làm vua, làm quan, mà tự nhiên trở nên “vị tha” hay “vị kỷ” hơn, trừ khi chính họ có đủ sự tỉnh thức để nhận biết và buông xả. Tuy nhiên mình nghĩ, một người bản chất ham muốn quyền lực thì khó có thể tỉnh ngộ và buông bỏ như một người bình thường hoặc có chút tu tập. Có nhiều người khi hoàn cảnh thay đổi thì tính cách cũng đổi thay, có thể tốt hơn hoặc xấu đi. Nhưng một khi đã nắm quyền lực mà không có lòng vị tha, ích kỷ nhỏ nhen, thì quả thật là đáng sợ. Lịch sử xưa nay tuy không nhiều, nhưng vẫn có những nhân vật như thế, và họ để lại đầy rẫy hận thù, trả đũa, gieo rắc bất an, hơn thua nhau từng vấn đề nhỏ nhặt, trở thành nỗi sợ hãi, lo lắng cho nhiều người. 

Theo mình, một đất nước sẽ được bình yên khi có những người lãnh đạo giàu lòng vị tha, ít vị kỷ. Như VN thời Lý Trần, phồn thịnh an vui, vì có nhiều vị vua giàu lòng nhân ái. Trên trường quốc tế cũng vậy, khi những cường quốc có những nhà lãnh đạo tự trọng, khiêm cung, giàu lòng vị tha, thì thế giới sẽ có những năm tháng bình ổn, và phát triển thuận lợi. Nhưng cuộc sống này vốn vô thường, không thứ gì có thể tồn tại mãi theo ý muốn con người, và lịch sử luôn có những bài học đắt giá cần phải nếm trải!

Nhớ có lần ngồi chuyện phiếm, người bạn hỏi “Ngày nay, trên thế giới có còn lãnh đạo nào thật sự vị tha, nghĩ cho thiên hạ mà không vướng vào ích kỷ cá nhân không?” Mình chợt nhớ đến các vị như Gandhi, Mandela, Lincoln, Havel, Đức Đạt Lai Lạt Ma ... những con người từng không chọn con đường trả thù hay chém giết, mà chọn khoan dung, lấy tình cảm và trí tuệ để hóa giải hận thù. Họ được kính trọng vì đặt lợi ích dân tộc và nhân loại lên trên lợi ích cá nhân. Mahatma Gandhi (Ấn Độ), lãnh đạo phong trào độc lập, chọn con đường bất bạo động, vị tha và khoan dung, được cả thế giới kính phục. Nelson Mandela (Nam Phi), sau 27 năm tù tội, vẫn chủ trương hòa giải thay vì trả thù, tạo ra hình ảnh lãnh đạo không vị kỷ, hết lòng vì dân tộc. Abraham Lincoln (Mỹ), lãnh đạo nước Mỹ vượt qua nội chiến, chấp nhận hy sinh cá nhân để bảo vệ sự thống nhất và tự do. Václav Havel (Tiệp Khắc), nhà văn, nhà hoạt động, và trở thành tổng thống. Ông được tôn trọng vì tinh thần khiêm nhường, dùng quyền lực để củng cố tự do, dân chủ, thay vì mưu cầu lợi ích cá nhân. Havel từng nói: “Quyền lực có thể làm tha hóa, nhưng quyền lực chỉ thực sự có ý nghĩa khi phục vụ cho sự thật và con người. Đức Đạt Lai Lạt Ma (Tây Tạng), mặc dù sống lưu vong, bị TQ truy đuổi, Ngài trở thành biểu tượng toàn cầu của từ bi, khoan dung và bất bạo động. Ngài không tìm cách củng cố quyền lực cho riêng mình, mà dấn thân vì quyền lợi và văn hóa Tây Tạng, đồng thời kêu gọi hòa bình cho nhân loại..v.v.. Và chắc chắn còn nhiều vị lãnh đạo giàu lòng vị tha, thay vì vị kỷ và đam mê quyền lực, mà mình không nhớ hết.

Trong lịch sử VN, hẳn nhiều người không thể quên Hội thề Đông Quan. Sau bao năm máu lửa, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi soạn Bình Ngô đại cáo, tuyên bố giặc Minh đã thua, nhưng đồng thời lại cho phép họ rút quân về nước, giữ vẹn tính mạng. Đó không phải sự yếu mềm, mà là sự rộng lượng của kẻ mạnh. Tha cho hàng vạn binh lính đã từng tàn phá xứ sở này, chính là một chiến thắng lớn hơn mọi trận đánh, chiến thắng của lòng người. 

Trước đó, thời Trần chống Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo từng dặn dò vua và triều đình: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước chung sức thì giặc tự phải tan.” Ông hiểu rằng muốn thắng giặc ngoài, trước tiên phải hòa khí trong nhà. Đích thân ông còn tắm cho Trần Quang Khải, hóa giải hiềm khích để gắn kết nhân tâm. Ấy cũng là một dạng vị tha, dẹp cái tôi nhỏ bé để giữ cái đại nghĩa muôn dân. Và cũng trong nhà Trần, vua Trần Nhân Tông sau khi đánh thắng giặc, không sa vào quyền lực hay hưởng thụ, mà lui về Yên Tử, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm. Một vị vua vừa cầm quân nơi trận mạc, vừa gác bỏ ngai vàng để đi tu, để gieo hạt mầm an lạc cho dân. Đó chẳng phải là biểu hiện đẹp nhất của “vị tha” hay sao?

Nhìn lại, ta thấy những bậc anh hùng xưa đều hiểu rằng sức mạnh không chỉ nằm ở gươm đao, mà ở chỗ biết buông bỏ đúng lúc, biết lấy lòng nhân để thắng lòng người. Họ không vị kỷ, không chỉ nghĩ cho bản thân, mà chọn con đường để lại sự bình an cho cả một dân tộc. Họ không bao giờ cần ai phải sợ hãi, cũng không cần phải hiếp đáp ai, và càng không cần ai phải ngưỡng mộ mình. Ngày nay, chúng ta chứng kiến quá nhiều nhà lãnh đạo thích khoe cơ bắp, thích tiếng vang và sự ngưỡng mộ bề ngoài. Nhưng rồi cũng có những con người âm thầm làm điều nhỏ bé mà vĩ đại như một quyết định nhân đạo, một cái bắt tay hàn gắn, một sự nhún nhường để tránh đổ máu. Đó mới chính là những chiến thắng thật sự. Có lẽ, trong thực tại hôm nay, chúng ta cũng cần những “anh hùng” theo nghĩa ấy - không phải là người hô hào những lời lớn lao, mà là người đủ vị tha để đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Bởi đôi khi, thắng lợi lớn nhất của một quốc gia hay một cộng đồng không phải là chiến thắng đối thủ, mà là chiến thắng chính lòng tham và cái ngã của mình.

Cuối cùng, có một bạn hỏi: “Liệu những xung đột như thế này có thể dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba hay không?” Xin thưa, ai mà biết được! Cuộc sống vốn vô thường, cái gì đến thì sẽ đến, khi hội đủ những điều kiện nhất định nào đó. Đó cũng chính là khái niệm “duyên khởi” trong Phật giáo. Sợ hãi hay lo lắng vốn chẳng giải quyết được điều gì.

Một nhà lãnh đạo chân chính luôn đặt việc an dân của đất nước mình và sự bình ổn của thế giới lên hàng đầu, bởi họ đủ thông minh để hiểu rằng trong bối cảnh chính trị ngày nay, an ninh của một quốc gia không thể tách rời khỏi an ninh thế giới, cho dù quốc gia đó có mạnh mẽ đến đâu. Nhưng cũng có những người lợi dụng sự hoang mang, sợ hãi của dân chúng, để tạo vị thế và quyền lực cho bản thân họ hoặc lợi ích nhóm. Thậm chí, lịch sử không ít kẻ vì tham vọng cá nhân đã không ngần ngại tạo ra chiến tranh chết chóc, bất ổn xã hội, đổ nát hoang tàn, hoặc chia rẽ để chiếm đoat. Và trò chơi quyền lực của các nước lớn xưa nay lắm khi là những nỗi lo toan bất lực, và không công bằng đối với một số nước bé, trên bàn cờ chính trị thế giới. 

Điều đáng nói là trong cuộc sống không phải ai cũng tỉnh táo để nhận ra chân tướng. Đôi khi phải mất rất nhiều thời gian, thậm chí trả giá khá đắt, con người mới hiểu ra bản chất sự việc. Riêng mình vẫn luôn quan niệm - Đông hay Tây thì cũng thế, chiến tranh chỉ là sự tiếp nối của chính trị, mà cốt lõi của chính trị lại chính là lòng người. Kẻ nào nắm được lòng người, kẻ đó sẽ chiến thắng !

Còn thời buổi này mà muốn nghe thuyết âm mưu thì vô vàn. Nào là thuyết "quậy để trị", "chia để trị", "đục nước béo cò", "trong nồi ít gạo thì tạo chiến tranh", "phân chia lợi ích", "thừa nước đục thả câu, bán vũ khí làm giàu" ...v.v... Mấy chuyện này xưa nay nghe hoài, mình thường đùa rằng - thuyết âm mưu không biết đúng sai nhưng người có lợi nhất là mấy người bán rượu, bán bia, bán quán nhậu, và làm youtube ... :-) .

Thôi, xin tạm dừng ở đây. Chúc các anh chị em bằng hữu vui vẻ. Mời nghe lại một bài hát nổi tiếng của Michael Jackson :-)

PN



Thursday, August 14, 2025

Phiếm: Loạn thế anh hùng ...:-)

 


Chiều nay trời mưa lớn, khỏi tưới rau, mà cũng chẳng đi bộ được, ngồi nhà phiếm chuyện cổ kim cho vui. Hôm qua giờ, nước Mỹ có 2 chuyện quan trọng thu hút sự chú ý của các ông bạn già mình, đó là vé số độc đắc lên gần nửa tỉ đô, và ông Trump ngày mai đi gặp ông Putin. Thực ra, xứ này có đề tài để bàn luận là vui rồi. Nhưng nhiều người bàn bạc rồi nhập vai "sâu" quá, dính mắc vào đó, thêm mắm thêm muối, thành ra chuyện phe này phe kia, bên tốt bên xấu, mà dẫn đến rách việc. Còn chuyện anh hùng và thời thế thì thời nào chả có ?

Nhớ hồi nhỏ khoái coi truyện Tàu và kiếm hiệp. Thi cử mà không lo học, ngày tắm sông, bắt cá, đá gà, tối thuê truyện, hết bộ này đến bộ kia. May nhờ vậy mà bây giờ còn chuyện để nói :-). Phải nói một trong các giai đoạn lịch sử TQ mà mình mê nhất là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc, mê những nhân vật như Quỷ Cốc Tử, Khương Tử Nha (Lã Vọng), Quản Trọng, Nhạc Nghị, Thương quân Vệ Ưởng, Tôn Tử ..... Ngày xưa, những người được kính trọng thường vừa có tài vừa có đức, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để vì dân, vì xã tắc, thậm chí bảo vệ dân đen vô tội của cả nước đối địch. Bởi thế, nhiều người thời ấy được hậu thế tôn xưng như bậc thánh nhân. Bên cạnh tài năng và đức độ, những câu chuyện về tình bạn tri kỷ như Quản Trọng, Bào Thúc Nha vẫn được lưu truyền, khiến người đời khâm phục. Một Khương Thượng thà âm thầm 80 năm chờ đợi minh quân, còn hơn ra cộng tác với phàm phu vô đạo; rồi chỉ cần 20 năm đã gây dựng nghiệp lớn cho nhà Chu, diệt nhà Thương, mở ra thời kỳ thịnh trị, đặt nền móng cho nước Tề. Một Quản Trọng không màng lợi danh, vì lợi ích chung tiến cử người hiền, lấy kế sách hòa bình để yên dân, lo từng hạt thóc cho bá tánh. Một Nhạc Nghị tài ba, trung quân chính trực, tấm lòng trung hậu của ông được lưu danh hậu thế. Một Vệ Ưởng Thương Quân dám mạnh dạn cải cách, thiết lập nền pháp trị đầu tiên trong lịch sử, dù biết trước sẽ bị phân thây sau này. Và một Tôn Tử, thiên tài quân sự với tư tưởng chiến lược hơn chiến thuật, nhấn mạnh “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”, thậm chí thắng ngay trước khi giao chiến..v.v..

Không rõ các anh hùng nước ta sau này như Nguyễn Trãi và Trần Hưng Đạo có trực tiếp vận dụng binh pháp Tôn Tử hay không, nhưng tư tưởng và cách dụng binh của họ rõ ràng mang nhiều điểm tương đồng. Dù bối cảnh lịch sử khác nhau, nhưng cả Tôn Tử, Nguyễn Trãi, và Trần Hưng Đạo đều chứng minh rằng chiến thắng không chỉ đến từ sức mạnh quân sự, mà còn từ sự am hiểu con người và hoàn cảnh. “Biết mình biết người” không chỉ là nghệ thuật đánh trận, mà còn là bài học trong quản trị, thương thuyết và đời sống.

Thời Trần chống Nguyên-Mông, Trần Hưng Đạo áp dụng triệt để tư tưởng này. Ông đích thân tắm cho Trần Quang Khải để hóa giải hiềm khích, đoàn kết nội bộ lo việc nước. Trong chiến lược, ông nắm rõ ưu thế kỵ binh của quân Mông Cổ, điểm yếu khi bị cắt nguồn tiếp tế và bất lợi trong chiến tranh thủy bộ. Nhờ vậy, kế “vườn không nhà trống” và trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng đã nhiều lần đánh tan quân Nguyên.

Nguyễn Trãi, trong kháng chiến chống Minh, cũng hiểu rõ kỷ luật nghiêm ngặt và sức mạnh quân số của địch, đồng thời thấy được sự xa nhà, tinh thần sa sút và mâu thuẫn nội bộ của họ. Bằng Bình Ngô sách và chiến lược “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, ông cùng Lê Lợi vừa đánh vừa vận động binh sĩ và dân chúng, khiến quân Minh dần suy kiệt và phải rút quân. Đây là những minh chứng điển hình cho việc “thắng trước khi đánh”, tinh thần cốt lõi của “biết người biết ta”.

Tiếc rằng, Việt Nam chưa có nhiều tác phẩm văn học lịch sử quy mô và sức lan toả mạnh mẽ lâu bền như Tam Quốc Chí của Trần Thọ/ La Quán Trung, hoặc Đông Chu Liệt Quốc của Phùng Mộng Long/Dư Thiệu Ngư, để những câu chuyện ấy sống mãi cùng hậu thế.

Nói chuyện ngày xưa cho vui vậy thôi, chứ nếu các vị anh hùng đó sinh vào thời nay, không chừng lại mang hoạ vào thân. Anh hùng còn phải gặp đúng thời thế. Nhớ hồi nhỏ, nghe người lớn giảng giải mấy câu "Anh hùng tạo thời thế, thời thế tạo anh hùng". Mình thường không quan tâm lắm, cứ coi như chuyện con gà và cái trứng. Sau này lớn lên mới thấy nhiều ông "anh hùng" mà chẳng cần phải tạo ra gì, có khi chỉ cần phán lung tung, và có người tin là đủ :-). Những kiểu "anh hùng" như vậy vốn nhan nhản trong đời sống hàng ngày, đến rồi đi. Ngược lại, những anh hùng thực sự luôn thầm lặng hy sinh và cống hiến, mà không cần người khác tung hô xưng tụng. Từ những người lính cứu hoả, thầy cô giáo, binh sĩ, y tá bác sĩ, nhà nghiên cứu khoa học, cho đến những người công nhân, nhân viên vệ sinh ... ở đâu cũng có thể bắt gặp những khoảnh khắc anh hùng, cống hiến hy sinh, bảo vệ người khác bảo vệ kẻ yếu, hoặc mạnh dạn đấu tranh vì cái đúng, vì chính nghĩa. Tuy nhiên thời này ở một số nơi, những anh hùng thực sự mà sơ suất có khi còn bị cho đi “chăn kiến”. Ngay cả ở Mỹ bây giờ nhiều người còn e ngại sợ bị chụp mũ, kiện cáo, hoặc… trục xuất. Vì thế, ngày càng nhiều người chọn cách sống cầu an, chấp nhận và lặng lẽ, để tránh va chạm. Không biết đó là tín hiệu tốt hay xấu !?



Dĩ nhiên định nghĩa về “anh hùng” ngày nay cũng đã khác xưa nhiều. Hoàn cảnh đã khác, con người hiện đại dễ chạy theo hình thức và tin đồn, thật giả khó phân, nhất là trên mạng xã hội. Công nghệ phát triển tạo ra hai xu hướng rõ rệt, hoặc bị thông tin dẫn dắt, hoặc dẫn dắt thông tin, đôi khi vô tình, đôi khi có chủ ý. Nhũng người hiểu biết lý lẽ hoặc đạo pháp thì cố gắng thực hành sống tỉnh thức, không để ngũ uẩn thao túng tạo ra cái “ngã” và cái “biết” giả tưởng. Còn nếu chỉ nghe, nhìn từ bên ngoài, bị lôi cuốn vào dư luận thị phi, thì khó mà nhận ra ai thực sự yêu nước thương dân, ai chỉ mượn danh để mưu cầu lợi riêng !

Tuy nhiên cho dù quan niệm về anh hùng của ngày xưa và ngày nay có khác, cũng như triết lý sống giữa Đông và Tây có những điểm khác biệt, nhưng đặc tính căn bản thì vẫn tương đồng. Những người anh hùng thực sự luôn phân biệt được giá trị của cái chung và cái riêng, hy sinh lợi ích bản thân, vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì chính nghĩa, bảo vệ kẻ yếu, bảo vệ công lý, tôn trọng sự thật; đem lại sự an lành cho người khác, không cậy lớn hiếp bé, không ỉ mạnh hiếp yếu, hoặc hơn thua chuyệu tiểu tiết, gây mâu thuẩn bất an cho xã hội và con người. 

Nhưng thực tế thì không phải giá trị nào cũng được nhận biết và trọng đãi, mà còn phải tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác như hoàn cảnh xã hội và thời điểm thích hợp. Có nhiều tài năng kiệt xuất hoặc hoài bão lớn lao cũng chưa chắc có cơ hội để thực hiện. Nhớ mấy năm trước có anh nhạc sĩ vĩ cầm Joshua Bell, một trong những nghệ sĩ violin hàng đầu thế giới, từng biểu diễn ở các nhà hát danh giá với vé hàng ngàn USD. Một lần, theo thí nghiệm của tờ Washington Post, anh cải trang thành nghệ sĩ đường phố, đứng chơi violin tại ga tàu điện ngầm ở Washington D.C. Suốt 45 phút, hàng ngàn người đi qua, nhưng chỉ vài người dừng lại nghe, và tổng số tiền “khán giả” bỏ vào hộp chỉ khoảng 32 USD. Thí nghiệm này cho thấy ngay cả tài năng bậc thầy, nếu đặt sai bối cảnh và thời điểm, cũng không ai biết được giá trị của họ. Đúng vậy, và xưa nay đám đông chưa bao giờ đại diện cho trí tuệ, mà chỉ tượng trưng cho sức mạnh và xu thế tạm thời.

Tiếu lâm chút, ngày xưa Lã Vọng "câu cá" bằng lưỡi câu thẳng, bao năm ngồi câu đợi thời cơ thích hợp để ra thi thố tài năng, nên đâu bắt được con cá lăng cá lóc nào. Nhưng bây giờ VN ta có thương hiệu Chả Cá Lã Vọng, nổi tiếng và thành công. Hôm rồi mới đi Hà Nội, ghé ăn trưa, thấy bên đường quá nhiều quán gà với thương hiệu nổi tiếng "Gà Mạnh Hoạch". Hỏi thăm ông anh về lịch sử thương hiệu này, thì ra theo tích cũ thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng 7 lần bắt Mạnh Hoạch rồi tha, mãi cho đến khi thu phục được tay phiên tướng này. Ngẫm thấy hay, ông chủ quán gà bắt đầu dùng cái tên đặt cho quán của mình là "Gà tươi Mạnh Hoạch", và đồn rằng để có được gà ngon như vậy, gà phải được thả vườn rộng, ngày đuổi thả cho gà chạy 7 lần thịt mới săn chắc. Vậy rồi cũng có người tin, phát tán, và nổi tiếng !


Trở lại chuyện thời sự sốt dẻo bên Mỹ. Hồi còn vận động tranh cử, ông Trump từng hùng hồn tuyên bố nếu đắc cử sẽ “dẹp” chiến tranh Nga–Ukraine trong vòng 24 giờ. (Hồi xưa ở VN, có ông Đạo Dừa cũng phát biểu kiểu na ná như thế). Nhưng đời thường tréo ngoe, đã hơn 6 tháng trôi qua từ ngày nhậm chức, TT Trump vẫn theo đuổi giấc mơ hoà bình “24 giờ” ấy. Có khi lần này tt Trump còn được giải Nobel Hoà bình chứ chẳng phải dạng vừa :-).

Putin thì chắc cũng có giấc mơ riêng. Nhưng tới giờ chưa ai biết chắc là giấc mơ gì. Mấy năm trước, ông nói sẽ “giải phóng” Ukraine trong vài ngày. Giờ hơn ba năm, bom đạn vẫn dồn dập, bao sinh mạng mất đi, bao thành phố hoang tàn, nước mắt và hận thù chồng chất. Kết quả cuối cùng ra sao chưa rõ, nhưng chắc chắn một điều lịch sử khó gọi Putin là anh hùng.

Ngày mai, hai “anh hùng” thời đại sẽ gặp nhau ở Alaska, tt Trump gặp mặt "tội phạm chiến tranh" Putin, không có mặt tổng thống Ukraine, quốc gia nạn nhân. Nhiều người lo cho số phận Ukraine, nhưng cũng có người hy vọng vào “kỳ tích” kiểu anh hùng trọng anh hùng như chuyện cổ tích ngày xưa. Hôm qua, TT Trump tự tin tuyên bố “Chỉ cần 2 phút là biết Putin muốn gì”. Với quá khứ từng làm chủ sòng bài và tác giả "Nghệ thuật đàm phán", nhiều người tin rằng ông đủ kinh nghiệm nhìn ra “con bài tẩy” của Putin ngay lập tức :-).

Ngoài lề chút, mình có anh bạn lớn tuổi ở cùng thành phố bên Mỹ, mê thời sự đến mức anh kể từ hồi ở Việt Nam tối nào cũng ôm radio. Qua Mỹ, vẫn giữ thói quen “coi tin tức ăn mới ngon, ngủ mới yên”. Nhưng với anh, tin tức phải có hai phe rõ ràng: thắng–thua, tốt–xấu, chính–tà.... Anh thường đọc và chia sẻ tin tức từ những nguồn hợp với “đức tin” của anh, mà đôi lúc quên rằng ngay cả người gửi tin cũng có thể là nạn nhân của “tin vịt”. Cứ thế lâu ngày, tư duy nhị nguyên trở thành phản xạ, cái gì thuận anh thì đúng, nghịch anh thì sai, ít khi chịu khó tìm tòi thấu đáo sự thật vấn đề, hoặc phân tích đa chiều. Lần hồi, anh tự gán ghép bản thân đứng về một phía để "phòng thủ" hoặc "tấn công" cho thêm sắc màu, chứ thực ra anh cũng chẳng tham gia đảng điếc nào, mà cũng chẳng dính dáng đến chính trị chính em gì. Lâu lâu, không có người để tranh luận, anh tự tay phải tấn công tay trái như món "song thủ hổ bác" của Lão Ngoan đồng Châu bá Thông :-).

Hôm qua, anh gọi bàn về cuộc gặp Trump–Putin, rồi tiện thể bức xúc so sánh với vụ Nixon–Kissinger đi đêm với Trung Quốc năm 1972. Mình đùa "nhưng Kissinger và Trump là 2 đảng khác nhau mà, anh lo gì"? Anh im re. Hôm nay không thấy qua lấy bí đao luôn, không biết có giận hờn gì không :-).

Thôi, phiếm chút cho vui. Giờ tạnh mưa, đi bộ thôi. Chúc mọi người vui vẻ. Mai nhớ coi “Hoa sơn luận kiếm” nhé !

PN





Saturday, August 09, 2025

Tản mạn: Thời gian & trường cũ

 


Tháng trước, mình mới về quê thăm Má và bạn bè anh em vài tuần. Thời gian ngắn ngủi, đi lại nhiều nơi, quên cả ngày tháng, thoáng chốc đã đến ngày lên máy bay trở lại Mỹ. Ông anh đồng hương ra SG ăn tối tiễn đưa, dúi cho mình quyển sách để lên máy bay đọc, và tặng thêm chiếc áo in hình buổi lễ khai giảng 70 năm trước của ngôi trường trung học mà mình từng theo học. (Tất nhiên, ngày khai giảng ấy mình còn chưa ra đời. Mãi đến bao nhiêu năm sau đó, mình mới tập tễnh bước vào lớp Đệ thất cuối cùng). Bởi vậy "kiến thức" về ngôi trường ngày xưa phần lớn đến từ những câu chuyện được nghe đi kể lại của các thế hệ đi trước. Nôm na là những giai thoại về một ngôi trường trung học tỉnh lỵ, có hàng cây long não đầy ắp kỷ niệm và “truyền thống học giỏi”.

Mấy hôm nay, liên lục nhận được tin nhắn và hình ảnh từ các ông anh và bạn bè ở quê nhà, ngày hội lớn 70 năm thành lập trường. Tâm trạng rộn ràng, lấy cái áo ra mặc, nhưng cỡ lớn quá, chắc ông anh đưa nhầm size. Không sao, ngồi nhìn lại hình ảnh cái cổng trường in trên áo mà lan man nghĩ về thời gian và những ngày tháng cũ .... 

Mới đó mà mình xa quê hương đã hơn 45 năm rồi. Thỉnh thoảng cũng có về quê ghé thăm trường cũ. Hàng long não trong sân trường năm nào, giờ mỗi lúc già đi, nhưng âu đó cũng là quy luật thường tình. Thực ra thì bao nhiêu năm qua, bên cạnh những vị trí thường trực trên các phương tiện truyền thông của tỉnh nhà như núi Ấn, sông Trà, con cá bống, tô don (không vịt lộn) .v.v.. hàng long não cũng luôn đồng hành có mặt trên thi đàn của các thi sĩ nhạc sĩ "cây nhà lá vườn". Mới đây, mình thử nhờ AI viết một bài hát về ngôi trường TQT, và thật thú vị nó cũng “rinh” nguyên hàng cây long não ấy vào trong ca từ :-).

Còn nói đến “truyền thống học giỏi”, mình cho rằng đó chỉ là những cảm nhận mang tính chủ quan. Giỏi với người này chưa chắc đã giỏi với người khác. Đi dọc miền Trung, tỉnh nào cũng có những ngôi trường nổi tiếng “truyền thống học giỏi”, na ná giống nhau, như Quốc Học Huế, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Trần Quốc Tuấn, Nữ Trung Học, Quốc Học Quy Nhơn, Quang Trung, Cường Để, Yersin, Võ Tánh…v.v. Quan điểm giáo dục cũng vậy, có những điểm chung và có những nét riêng, tùy theo từng giai đoạn lịch sử và bối cảnh xã hội. Từ những nguyên tắc giáo dục “nhân bản, dân tộc, khai phóng” ngày xưa cho đến nền “giáo dục XHCN” ngày nay là cả một chặng đường dài, gắn liền với những đổi thay của đất nước và con người. Và tất nhiên là ở đất nước nào cũng vậy, tương lai của quốc gia dân tộc luôn được dựa trên nền tảng và giá trị của giáo dục học đường.

Trong sứ mệnh giáo dục ấy, những ngôi trường nhỏ bé vẫn âm thầm đóng góp giá trị bền vững nhất cho xã hội. Giá trị thực sự của một ngôi trường không nằm ở những thành tích được ghi trên giấy, mà ở khả năng nuôi dưỡng nhân tài qua từng thế hệ, góp phần thiết thực vào sự phát triển phồn thịnh của quê hương và hữu ích cho xã hội. Lịch sử thế giới xưa nay luôn khẳng định rằng "Nền móng vững chắc dựng nên ngôi nhà bền vững; hào khí dân tộc bồi đắp nên một quốc gia hưng thịnh hùng cường !"


Tuy nhiên, thời gian trôi qua cùng với những biến động của đất nước, các ngôi trường tỉnh lỵ cũng phải trải qua bao biến đổi thăng trầm. Có những bài hành khúc hào hùng một thời, hay những ca khúc đậm tình dân tộc, theo năm tháng dần bị quên lãng hoặc không còn phù hợp với bối cảnh mới. Nhiều giá trị “truyền thống”, “định nghĩa”, hay “nguyên tắc” có thể đã bị thời gian hoặc những yếu tố khách quan vô tình làm phai mờ, thậm chí ảnh hưởng đến mục đích chung ban đầu. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, ai cũng mong muốn những vướng mắc và ràng buộc không cần thiết sẽ được nhìn nhận lại và gỡ bỏ, để mang đến những luồng sinh khí mới cho thế hệ học sinh – sinh viên Việt Nam, nhất là trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn vươn mình, phát triển mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng với thế giới.

Thực ra, ai cũng mong muốn ngôi trường xưa và quê hương của họ ngày càng thay đổi tốt đẹp hơn. Thế nhưng, mỗi lần về quê họp trường, họp lớp, thì “ngôi trường” thật sự còn lại trong lòng mỗi người vẫn chỉ là một hình ảnh cũ kỹ thuở nào, nằm sâu trong ký ức, và gắn liền với những cảm nhận riêng biệt. Có phải đó mới chính là giá trị bền lâu nhất chăng ? Có lẽ vậy. Nhưng cũng chính những “giá trị bền lâu" ấy, những ký ức khó phai ấy, lại trở thành những dính mắc gắn bó trong cuộc sống của họ, nhiều hay ít. Mở ngoặc chút, theo quan điểm PG, nguồn gốc của mọi khổ đau (bất toại nguyện) đều bắt nguồn từ ham muốn (desire) và dính mắc (attachment). Vậy nên lỡ có dính mắc, thì dính .... vừa vừa thôi, cho đỡ nặng lòng 🙂

Cũng nhân nhắc đến chuyện thời gian, mình nhớ đến Einstein và thuyết tương đối. Ông ta cho rằng thời gian không trôi đều đặn như chiếc đồng hồ treo tường, mà co giãn tùy vào vận tốc và trường hấp dẫn. Nôm na là nếu bạn di chuyển rất nhanh, hoặc ở gần một vật thể có khối lượng lớn (như một hành tinh nặng), thời gian với bạn sẽ trôi chậm hơn so với người ở trạng thái tĩnh hoặc ở xa nguồn hấp dẫn. Đây gọi là "time dilation" (giãn nở thời gian). Hai người ở hai hoàn cảnh khác nhau sẽ có dòng thời gian khác nhau, một phi hành gia ngoài quỹ đạo sẽ già chậm hơn một người đứng trên mặt đất.

Còn dưới lăng kính của PG, thời gian cũng theo quy luật của vô thường. Mọi sự vật đều biến đổi, không có gì tồn tại mãi ở một trạng thái. Không chỉ vật chất, mà cả cảm xúc, ký ức, và chính nhận thức của ta về thời gian cũng thay đổi.

Điểm gặp nhau giữa hai quan niệm tưởng như khác biệt này là: thời gian không cố định, và cảm nhận về nó phụ thuộc vào nơi ta “đứng”, cho dù đó là hệ quy chiếu vật lý hay tâm thức con người. Với Einstein, thời gian thay đổi theo vận tốc và trọng lực. Với đạo Phật, thời gian thay đổi theo sự nhận biết và mức độ bám chấp của con người.

Bởi thế, khi trở về mái trường cũ, có thể nhiều người cũng cảm nhận được sự giao thoa này. Đại khái là thời gian vật lý dù đã trôi qua mấy chục năm rồi, nhưng thời gian của ký ức thì vẫn đứng yên, như chỉ mới hôm qua. Đạo lý "vô thường" nhắc nhở ta rằng mọi thứ sẽ đổi thay, nhưng thuyết tương đối lại cho ta lý do để tin rằng, trong một hệ quy chiếu đặc biệt của tâm trí, những khoảnh khắc đẹp vẫn có thể ở lại mãi mãi :-). Einstein cũng từng dùng một ví dụ dí dỏm để nói về tính tương đối của thời gian - “Khi bạn ngồi nói chuyện với một cô gái dễ thương trong một giờ, bạn cảm giác chỉ như một phút. Nhưng nếu bạn ngồi trên một cái bếp nóng trong một phút, bạn sẽ cảm giác lâu hơn cả một giờ. Đó là tính tương đối của thời gian". Và ông cũng từng thừa nhận rằng sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai “chỉ là một ảo tưởng, dù nó rất dai dẳng”. Nên thời gian không chỉ được đo bằng đồng hồ, mà còn bằng trải nghiệm và cảm nhận cá nhân. Một mùa hè thời thơ ấu, chăn trâu thả diều, tắm sông bắt cá, có thể dài bất tận. Trong khi đó, mấy năm trưởng thành lại trôi qua như một cái chớp mắt. Đi đây đi đó bao năm, về quê bước vào cổng trường cũ, ký ức lại ùa về nguyên vẹn như mới hôm qua. Ngôi trường hiện tại đã khác xưa nhiều, nhưng “ngôi trường” trong tâm trí thì vẫn ở đó, bất chấp mọi đổi thay của vật lý và đời sống. Nhưng hình như không phải chỉ có trường xưa, mà ... người xưa cũng vậy. Mình có quen biết nhiều ông anh Việt kiều, bao năm xa cách quê hương, luôn mơ ước, lặn lội về họp trường họp lớp để gặp lại người xưa. Rồi không biết có gặp được chưa, mà mấy năm nay ít khi nghe nhắc đến chuyện đó nữa :-) .

Tản mạn chút cho vui, chứ theo quan niệm của nhiều người thì thời gian đơn giản chỉ là những con số, một quy ước số học được đặt tên. Quả nhiên là vậy, tuy cùng một con số nhưng ý nghĩa thời gian luôn khác xa tùy theo cách sống của mỗi người. Năm tháng của một người trải nghiệm, dấn thân và cống hiến, khác hẳn với năm tháng của một người tự sướng, tự vỗ về để tồn tại. Thời gian của một người sống với mớ kiến thức vay mượn, lý thuyết "cao siêu", khác một trời một vực với thời gian của người sống trong tỉnh thức và thực chứng. Thời gian của những năm tháng tự do khác xa với thời gian của những năm tháng nhẫn nhục cam chịu. Thời gian của một người thèm khát danh vọng khác xa thời gian của một người sống tự tại buông xả ...v.v.  Bởi vậy có những kiếp sống ngắn ngủi nhưng trọn vẹn, để lại cho hậu thế bao giá trị đóng góp. Ngược lại, có những đời sống kéo dài trăm năm, nhưng khi ra đi cũng chẳng có gì để nhớ đến. Cho dù là ông này bà kia, chùa to chùa lớn, chức nọ chức kia, bằng này cấp nọ, mồ to mả đẹp… khi gặp “ông thần thời gian”, ai cũng phải ngả nón chào :-)

Tất nhiên, ở đây đang nói về cuộc sống đời thường, phàm phu, đầy rẫy ham muốn & dính mắc giống như mình. Chứ còn đối với các bậc trí tuệ, giác ngộ, hiểu rõ vô ngã, vô thường, thì mọi thứ chỉ là những điều kiện duyên khởi, đến rồi đi, chẳng có cái tôi cố định nào đứng đằng sau, nên chẳng có gì để dính mắc, mà cũng chẳng có ai để chứng minh, chứng đắc, hoặc ham muốn trở thành đấng nọ đấng kia.

À, bỗng nhớ đến một chuyện thú vị. Mình có anh bạn khá thân, từng dạy đại học ở nước ngoài nhiều năm, rồi về SG giảng dạy hơn chục năm trước, giờ an nhàn hưu trí ở Nha Trang. Cũng lâu lắm rồi, cách đây vài tuần mình mới gặp lại anh. Hai anh em ra vỉa hè, lai rai vài chai la-de, ngắm biển ngắm mây, nói đủ thứ chuyện rồi lan man sang Hermann Hesse: “Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này” (Und allem Weh zum Trotze bleib ich verliebt in die verrückte Welt). Vừa uống vừa cười nhớ lại một thời ngây ngô & đam mê... nhịn đói, suy tư & chờ đợi. (Siddhartha)

Và cũng rất tình cờ, hôm qua đang coi chương trình "Giấc mơ quê nhà" thì nhận được tin nhắn của anh từ Nha trang: "Rằm trên biển: Em về mấy thế kỷ sau. Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?”. Tuyệt !

Mình vốn biết mấy câu thơ này của Bùi Giáng từ trước, nhưng bây giờ nghe lại thì cảm thấy rất hay. Với anh ấy, chắc còn gì tuyệt vời bằng một đêm rằm trên biển, ngửa mặt nhìn trăng mà nghĩ đến "Mai sau em về". Còn mình, vừa mơ màng nhìn cái cổng trường cũ, vừa thắc mắc không biết đến lúc kỷ niệm 80 năm thành lập trường lần tới, có còn giống như hôm nay không? Đang miên man suy nghĩ bỗng nhận được 2 câu thơ của BG, giật mình tỉnh rụi. Câu thơ hay, hợp thời điểm, nhưng “rằng thưa khen nữa là thừa”. Có lẽ trong đời sống, ai cũng từng có những khoảnh khắc tâm trạng như vậy, đó là lúc những thứ đơn giản nhất bỗng quay quắt trở thành điều ám ảnh:

Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?
(Bùi Giáng)

“Màu ấy” là màu gì? Là màu nguyên thủy của trăng, hay là sắc màu của một khoảnh khắc cụ thể ? Và “màu ấy” của người này có giống “màu ấy” của người kia không ? Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ có câu trả lời giống nhau. (Trước hết, mình cũng chẳng dám áp đặt ý nghĩ của mình lên câu hỏi của Bùi Giáng, bởi biết đâu ông ta chỉ hỏi kiểu Sài Gòn Lục Tỉnh cho vui :-). Nhưng đời sống vốn đa dạng, từ quan điểm đúng sai, phải quấy, nhận định vấn đề, quan niệm học hành giáo dục, cho đến những chuyện nhỏ như họp trường họp lớp, tổ chức sự kiện, chương trình hát hò văn nghệ, ..v.v.. mỗi người đều có lý lẽ và cảm nhận riêng. Ai cũng có một cái “tôi” nhất định, mặc dù nhiều người chưa từng thực sự làm chủ cái “tôi” đó của mình. Nhưng dù "bản ngã" lớn hay nhỏ, nó vẫn luôn là “nhà độc tài” âm thầm quyết định mọi ý thức và hành vi của mỗi người. Bởi vậy, khi luận bàn một vấn đề gì mang tính công cọng hoặc lợi ích chung, mong đợi sự đồng thuận tuyệt đối quả là điều không dễ dàng chút nào. 

Trở lại chuyện màu trăng, ai cũng biết trăng trong thế giới tự nhiên thì luôn đổi thay, chẳng bao giờ giống nhau, dù chỉ cách nhau một giờ, một phút, huống chi là vài thế kỷ. Nên để trả lời “Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?” là những câu chuyện dài. Có người thấy trăng hôm nay vẫn y như xưa, nhưng có người lại thấy khác. Có người mong trăng sáng hơn tròn hơn, nhưng có người chỉ muốn trăng mãi giữ nguyên dáng vẻ thuở nào. Có người than rằng trăng nay không còn đẹp như thời hẹn hò mới lớn; lại có người quả quyết rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ. Có người bảo trăng của Bùi Giáng khác với trăng của Hàn Mặc Tử; lại có người bảo trăng dưới ao của Lý Bạch khác với trăng “khuyết nguyệt” của Tô Đông Pha...v.v

Rồi cũng có người cả đời mải ngắm ngón tay chỉ trăng, mà chưa từng thấy trăng màu gì. Và cũng có người cả đời chỉ biết đến vẻ đẹp của trăng qua chú Cuội, chị Hằng; qua những câu thơ, trang sách; hay qua lời giảng của một ông giáo sư, tiến sĩ, hoặc một vị “cao tăng", "đại sư” nào đó, mà chưa từng tự mình ngắm trăng một lần ! 

Đời sống là vậy, nhưng cũng biết đâu, chỉ một câu hỏi bâng quơ như vậy lại khiến ai đó đang nặng nề chữ nghĩa bỗng trở nên buông xả nhẹ nhàng, hoặc ít ra thôi không còn cuồng tín nữa. Hoặc biết đâu, từ câu hỏi “Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?” mà ngộ ra chân lý “nhìn sự vật như nó đang là”, để rồi phân biệt được cái nào thực, cái nào ảo, và không còn bám víu vào những “tin vịt tin gà” nữa. Âu cũng là chuyện hay :-).

Bởi thế, không ai có thể đoán được một hạt mầm ý niệm vô tình sẽ nảy sinh ra sao trong tâm mỗi người. Và xưa nay, những điều kỳ diệu trong cuộc sống thường bắt đầu từ những điều giản dị nhất.

Thôi, lan man chút cho vui buổi sáng cuối tuần. Chúc mọi người an nhiên, hạnh phúc.

PN

Sunday, June 08, 2025

Tản mạn: Lối mòn tư duy... (A well-worn mental path)


Khi nói đến “lối mòn tư duy”, hay những thói quen suy nghĩ và sự chấp trước của con người, có lẽ ít ai xác định được nó bắt đầu từ đâu. Có thể nó đã đồng hành với con người từ thuở sơ khai, hàng ngàn năm về trước. Với nhiều người, đó không còn là một phát hiện mới mẻ, mà gần như là một đặc tính cố hữu của con người, và chắc chắn, nó vẫn sẽ tiếp tục tồn tại cùng chúng ta trong nhiều thế hệ tới.

Tuy nhiên, gần đây, những chủ đề về thói quen suy nghĩ và khả năng phân tích vấn đề của con người được nhắc đến nhiều hơn. Song song với đó là sự xuất hiện nhiều tranh luận hoài nghi về năng lực “nhận thức” của con người, đặc biệt khi nói đến hiệu ứng đám đông và khả năng phân biệt "đúng, sai" của họ trong đời sống xã hội thường nhật. Có lẽ một phần nguyên nhân xuất phát từ việc thế giới trải qua quá nhiều biến động, xã hội bất ổn, công nghệ thay đổi chóng mặt, thông tin lan truyền nhanh chóng, thật giả lẫn lộn… Tất cả khiến lòng người trở nên hoang mang và mất phương hướng. Trong hoàn cảnh ấy, con người thường có xu hướng tìm kiếm một điểm tựa tinh thần, một nơi để đặt niềm tin, cho dù chỉ là tạm thời.

Thế nhưng mỗi người lại có một xuất phát điểm, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau. Vậy dựa vào đâu mới là đúng? Làm sao để phân biệt được "đúng, sai" giữa muôn vàn quan điểm trái chiều và mâu thuẫn, bội thực thông tin ? Chính trong những lúc như vậy, “lối mòn tư duy” lại âm thầm phát huy sức mạnh, bởi nó mang lại cảm giác quen thuộc, an toàn, không cần phải đặt lại câu hỏi hay thay đổi góc nhìn của bản thân. 😊

Thật ra, đây là một đề tài vừa sâu sắc, vừa đầy thách thức. Từ xưa đến nay, ai cũng biết lịch sử văn hóa và môi trường sống luôn ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành vi của con người. Trong những năm gần đây, khi công nghệ AI phát triển mạnh mẽ, các lĩnh vực nghiên cứu về tư duy và hành vi con người lại càng được chú trọng hơn, như một nỗ lực để hiểu rõ hơn về chính bản thân chúng ta trong một thế giới đang thay đổi từng ngày.

Nhìn lại bản thân, ngay từ khi còn nhỏ mình đã từng được “nghe”, được “biết” đến những điều mà chưa bao giờ tự mình kiểm chứng. Ví dụ như nghe dân tộc này thông minh, dân tộc kia anh hùng; người vùng này hào phóng, người vùng kia keo kiệt; miền này học giỏi, miền kia ham chơi; xứ này hay cãi, xứ kia hay co... Lớn lên một chút, lại tiếp tục bị nhồi nhét vào đầu những định nghĩa cứng nhắc cái này là đúng, cái kia là sai; làm như thế này mới là “yêu nước”, làm như thế kia mới là “anh hùng”; học giỏi như ông A, ông B thì mới được trọng vọng; trở thành bà nọ bà kia thì mới được xem là thành công; tu hành theo cách này mới là chánh pháp, theo cách kia là tà đạo..v.v.&.v.v...Và cứ thế, vô số hình tượng, khái niệm, nhận thức (dù đúng hay sai), cùng với những tập tục, thói quen, phương pháp suy luận được nạp vào đầu óc non trẻ từ rất sớm như những định đề tự nhiên, những khuôn mẫu xã hội hay quy ước vùng miền, trước cả khi mình có đủ trải nghiệm và khả năng tư duy độc lập để tự nhận thức, tự kiểm chứng xem điều gì là đúng, điều gì là sai.

Nhưng đó không phải là trường hợp cá biệt của riêng mình, mà là một thực trạng phổ biến hầu như ai cũng từng trải qua. Có người cho rằng sự khác biệt trong tư duy bắt nguồn từ việc gia đình này giáo dục tốt hơn gia đình kia, trường này có chất lượng hơn trường nọ, quốc gia này văn minh hơn quốc gia khác, hoặc thậm chí là do người này thừa hưởng “gen trội” hơn người kia..v.v. Mỗi người có thể tin vào những nguyên nhân khác nhau, nhưng xét cho cùng, phần lớn chúng ta đều được hình thành từ thuở ấu thơ bởi một “mớ” kiến thức được tích lũy từ gia đình, địa phương, nhà trường và môi trường sống xung quanh, những điều mà ta vẫn lầm tưởng là “trí tuệ” của chính mình.

Thực ra, chính ở giai đoạn tuổi thơ và thời tiểu học, trung học (bậc giáo dục phổ thông) mới là thời điểm quan trọng, bởi khi đó cái “tôi”, cái “riêng”, tức là hạ tầng tư duy, quan niệm và nhận thức, bắt đầu được định hình. Nó giống như một hệ điều hành âm thầm được cài đặt vào bộ máy tư duy của mỗi con người. Và phần lớn chúng ta lớn lên, mang theo hệ điều hành ấy như một điều hiển nhiên, ít ai nghi ngờ hay đặt lại câu hỏi. Tất nhiên, khi càng trưởng thành, càng học rộng hiểu nhiều, càng gặt hái nhiều thành tựu, càng trải nghiệm nhiều với những được mất trong đời, thì vị trí của cái “tôi” trong mỗi con người càng được củng cố và bảo vệ. Đó là điều hết sức bình thường trong quá trình phát triển cá nhân. Tuy vậy, cũng không thiếu những trường hợp ngược lại, chính vì cái “tôi” quá lớn, quá cố chấp mà dẫn đến thất bại, mất mát, thậm chí là cuộc sống bất an, hoài nghi, đầy oán trách, và dằn vặt. Khi cái tôi không được nhìn lại, không được đặt đúng chỗ, nó có thể trở thành rào cản ngăn con người sống nhẹ nhàng, rộng mở và cảm thông với chính mình lẫn người khác. Một số ít khi bị thất bại hoặc trở ngại trong cuộc sống, đôi lúc quá bận rộn tìm cách đổ thừa hoặc oán trách người khác, mà đã quên nhìn lại cái "tôi" hoặc lối mòn tư duy của mình, nên mất đi cơ hội hiểu thêm về bản thân, quả là đáng tiếc. Bên cạnh đó, cũng tồn tại sự nhầm lẫn giữa tự ái và tự trọng gây ra nhiều phiền phức. Trên thế giới có những dân tộc lòng tự trọng rất cao, nhưng cũng có những đất nước giàu lòng "tự ái", nên dẫn đến những văn hoá ứng xử khác nhau. Và đó cũng là những chuyện thường gặp trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Mở ngoặc chút, trong Duy Thức học, có giải thích “cái tôi vĩ đại” của con người có liên quan trực tiếp đến Mạt Na thức (thức thứ 7), bạn nào muốn nghiên cứu thêm về lãnh vực này thì nên đọc, rất hay. Còn đối với một số người tu học chân chính theo PG, họ thường thực hành theo những phương thức khác nhau như thiền tuệ, buông xả, sống tỉnh thức, chánh niệm v.v.. Cốt lõi không phải để đạt được điều gì to tát hứa hẹn, hoặc để chứng đắc quả gì, hoặc thần thông hay công đức gì, mà chỉ đơn giản là để tự nhận ra sự thật từ bản thân - vốn không có một cái tôi cố định nào đứng đằng sau những thực thể và cảm xúc "cá nhân" của họ, mà đó chỉ là những “điều kiện” đến rồi đi. Không có ai để đạt được điều gì, mà cũng không có ai cần để chứng minh hay thể hiện điều gì. Khi thấy ra nhận ra được điều đó lần hồi những dính mắc và tham ái cũng không còn chỗ để bám víu nữa. Vậy thôi. Và đó cũng là phần quan trọng của khái niệm "vô ngã", mấu chốt nhất trong giáo lý PG).



Trở lại chuyện đời thường. Khi quan sát và hiểu thấu bản thân nhiều hơn, không ít người nhận ra rằng chính những tri thức được xây dựng trên nền tảng tư duy mặc định mang tính lý thuyết, vốn được tiếp nhận một cách vô thức từ môi trường sống, đã đưa con người ngày càng tiến gần hơn đến quan điểm “nhị nguyên” với những cặp phạm trù đối lập như đúng sai, thắng thua, đẹp xấu, được mất, thành bại, hạnh phúc khổ đau..v.v... Những cặp phạm trù tưởng chừng như tự nhiên ấy dần dà trở thành khuôn mẫu chi phối cảm xúc, hành vi, và cách nhìn đời. Và cũng từ đó, bao nhiêu tham, giận, sân, si âm thầm sinh khởi, len lỏi và vận hành trong suốt hành trình cuộc sống, hiện diện khắp nơi, đôi khi rất mạnh mẽ, mà ta lại hoàn toàn không hay biết.

Từng ngày, từng giờ, cuộc sống quanh ta vẫn đầy rẫy những nhận thức và suy nghĩ xuất phát từ những “lối mòn tư duy” nào đó, vốn được xây dựng từ nền tảng cái tôi cá nhân và hệ điều hành tinh thần mà ta vô thức thừa hưởng. Bạn bè, người thân, gia đình, và cả chính bản thân mình, không ai thật sự thoát khỏi sự chi phối của những khuôn mẫu tư tưởng ấy.

Từ những chuyện tưởng chừng rất đời thường như con cái học ngành gì, cưới hỏi ra sao, nhà xây mấy tấm, tiệc đãi mấy bàn… cho đến những câu chuyện xa xôi hơn, đi mây về gió bên Tây, bên Mỹ, xứ người. Nhiều người cả đời đã phải gồng mình chịu áp lực từ công việc mưu sinh, tha phương cầu thực, nhưng trong lòng vẫn cánh cánh một gánh nặng mang tên "quê nhà", nơi mà sĩ diện, hơn thua, và những nhu cầu “liền chị liền em” đã trở thành những chuẩn mực vô hình. Bởi vậy, dù mỗi người có hoàn cảnh và cách nghĩ khác nhau, nhưng tựu trung, tất cả đều ít nhiều mang theo dấu vết của những lối mòn tư duy cũ kỹ , như đã ăn sâu vào tiềm thức từ rất lâu. Những chuẩn mực ấy không chỉ tạo ra áp lực tâm lý nặng nề, mà còn tiếp tục đè nặng lên thế hệ sau bằng cách định hình một lối mòn suy nghĩ và hành xử, y như cái khuôn mà thế hệ trước từng bị đóng vào. Trong dòng chảy đó, không ít người đánh mất chính mình, sống theo ánh nhìn và sự khen chê của người khác, chạy theo kỳ vọng của đám đông mà không còn nghe thấy tiếng nói từ nội tâm. Họ lầm tưởng rằng mình đang gìn giữ “giá trị truyền thống”, nhưng thực chất, nhiều người chỉ đang vô thức trở thành nô lệ của những “di sản” tư duy lối mòn, một thứ ràng buộc vô hình. Những xiềng xích ấy lẽ ra cần được tháo gỡ, nếu ta thật sự mong muốn tìm lại sự tự do đích thực trong tâm hồn.

Nguy hiểm hơn, lối mòn tư duy không dừng lại ở những lựa chọn cá nhân nhỏ nhặt. Nó còn ngấm ngầm điều phối cả những vấn đề lớn lao hơn trong đời sống. Từ cách ta nhìn nhận người khác, đến cách ta phán xét, quy chụp, lập luận, thậm chí dẫn dắt dư luận đi đến những kết luận sai lầm. Đáng lo ngại là nhiều người phát ngôn hoặc lan truyền những suy nghĩ lệch lạc hoặc tin tức sai trái, lại không hề nhận ra sự sai lệch trong tư duy của chính mình. Khi tư duy bị đóng khung mà không được phản tỉnh, nó không chỉ giới hạn cá nhân, mà còn có thể trở thành rào cản cho cả sự phát triển của một cộng đồng.

Hãy thử quan sát kỹ một hiện tượng cuồng tín trong xã hội, một cuộc bầu cử ở một quốc gia dân chủ, hay một cuộc tranh luận về vấn đề “hòa hợp hòa giải dân tộc”… thậm chí chỉ là những bất đồng trong buổi họp lớp, họp đồng hương, hay thậm chí một cuộc họp mặt gia đình. Ở đâu cũng thấp thoáng bóng dáng của những lối mòn tư duy. Có thể cùng hướng hoặc trái chiều, nhưng đều xuất phát từ những khuôn khổ nhận thức đã được định hình bởi địa phương, văn hóa, hay hoàn cảnh sống mà chúng ta ít khi ngoái đầu nhìn lại.

Tất nhiên, Đông hay Tây, đã là con người thì khó tránh khỏi những rào cản tâm lý này. Ngoại trừ một số ít những bậc giác ngộ, còn lại từ bậc trí giả đến kẻ phàm phu, từ người quyền quý đến người nghèo khổ, thật ra cũng không ai giỏi giang gì hơn ai về mặt “thoát khỏi khuôn mẫu”. Mỗi người chúng ta đều có một hoặc nhiều "lối mòn tư duy" khác nhau, không ai hơn ai, chỉ là người nào khác ta, thì ta cho rằng họ sai ta đúng mà thôi :-). Thậm chí, người "học rộng hiểu nhiều" có khi lại càng bị trói buộc trong lối mòn tư duy sâu thẳm so với người bình dân. Lắm khi, càng đạt được những “thành tựu” theo chuẩn mực của đời thường, thì cái tôi lại càng phình to ra, lối mòn tư duy càng trở nên trơn tru, khó lòng nhận diện.  

Mình nhớ có một ông chú quen đồng hương, học vị khá cao, tên tuổi nhiều người biết đến. Mỗi khi hỏi chuyện về ai đó ở quê nhà, chú thường hỏi: “Nó là con ai, cháu ai?” Mình thấy lạ vì ở nước ngoài it gặp chuyện như vậy. Có lần mình thắc mắc: “Vậy con ai, cháu ai thì có liên quan gì đến giá trị mà người đó đóng góp cho xã hội? Chẳng lẽ gen di truyền, tài sản ông bà, hay chức vụ cha mẹ lại quyết định hết thảy giá trị một con người?” Với trình độ và hiểu biết như chú, chắc chắn chú cũng biết rằng rất nhiều nhân vật kiệt xuất trên thế giới từng có xuất thân hết sức bình thường. Và ngược lại, ngay chính trên quê hương của chú, chắc cũng không thiếu những người có lý lịch "tốt đẹp" nhưng lại chẳng làm nên điều gì đáng nói ? Tuy nhiên hỏi là hỏi vậy, chứ thực ra cả hai đều đã nhanh chóng nhận ra nguyên nhân vấn đề "thích truy tìm nguồn gốc" của chú. Âu đó cũng là một lối mòn tư duy :-).

Thực tế, ở phương Tây hoặc tại một số quốc gia châu Á phát triển, người ta thường chú trọng đến năng lực và tư cách đạo đức của con người ở thời điểm hiện tại hơn là xuất thân hay quá khứ. Họ có xu hướng quan tâm đến những sự việc và sự kiện cụ thể đang diễn ra trước mắt, thay vì tin vào tin đồn, suy diễn, hoặc những lời truyền miệng thiếu kiểm chứng. Trong khi đó, tại VN, đặc biệt là ở một số vùng miền nhất định, tư duy "nghe ngóng", "đoán già đoán non", thậm chí là khả năng “nghe một đoán mười” lại được xem là biểu hiện của sự lanh lợi, khôn ngoan. Nhưng ít ai đặt câu hỏi liệu đó có thực sự là sự nhạy bén, hay chỉ là biểu hiện của một kiểu tư duy lệch lạc, cảm tính và đầy định kiến chủ quan. 

Còn chuyện điều tra “lý lịch ba đời” thì vẫn tồn tại như một thói quen, thuộc tính cố hữu của một số vùng miền. Dù lý lịch ấy không nói lên được điều gì cụ thể về năng lực hay đạo đức, nó vẫn được xem như một chuẩn mực mặc định để đánh giá con người. Điều đáng nói là ngay cả khi đã sống ở nước ngoài nhiều năm, không ít người vẫn mang theo lối tư duy đó như một "hành trang" vô hình, một lối mòn tư duy chưa từng được nhìn lại.

Thôi dài quá rồi, mình xin dừng lại nơi đây. Nôm na, buổi sáng hôm nay bắt đầu thật nhẹ nhàng, dự định uống cà phê, ngắm hoa, nghe chim hót, rồi cắt mớ rau muống vô nấu canh bún riêu cua. Thế mà tình huống dẫn dắt thế nào, câu chuyện lại lan man sang buổi chiều với những suy ngẫm về “đường xưa lối cũ”. 

Thực ra, lâu nay mình cũng ít khi theo dõi tin tức chính trị thời sự bên Mỹ. Thế nhưng mấy hôm nay, quý ông bạn già của mình ở đây, rôm rả nhắn tin, gọi điện, bàn tán hào hứng về vụ ông tỷ phú Musk chia tay "ly dị" với ông tt Trump. Có người độc đảng (chỉ thích cơm hoặc phở), có người lưỡng đảng (khoái cả 2 bên), có người "vô đảng" (không theo phe nào), có người “du đảng” (lúc theo bên này, lúc thích bên kia), và có cả ông “lãng đãng” (lúc nhớ lúc quên), cho nên những câu chuyện trở nên màu mỡ, lối mòn dẫm chéo lên nhau, tô vẻ đầy màu sắc !

Nhưng đã gọi là “lối mòn tư duy” thì đâu thể chỉ dừng lại ở “chuyện hai đứa chúng mình của ông Trump và Musk”. Câu chuyện của các anh, các chú, thường phải đi một vòng từ xóm thượng xuống xóm hạ, từ cánh phải sang cánh trái, có đầu có đuôi, kỳ nhông ông kỳ đà, kỳ đà cha cắc ké, cắc ké mẹ kỳ nhông… Nói chung là từ thời tiền MAGA năm trước, cho đến hậu MAGA hôm nay, không thiếu một chỗ nào. May là mấy hôm nay trời mưa, mình không phải tưới rau, ngồi nghe :-).

Riêng mình, lâu nay vẫn tin vào thuyết duyên khởi, đạo lý nhân quả & vô thường. Nên mọi chuyện xảy ra trên đời, theo mình đều là kết quả của những điều kiện hội đủ, đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan, không có gì ngoại lệ.

Vậy nên mình ngày càng ít quan tâm đến mấy chuyện chính trị chính em, đặc biệt là kiểu chính trị chửi bới, đâm chọt, dựng chuyện, gieo rắc thù hằn và chia rẽ lẫn nhau. Dù bên nào thắng hay thua, ma da hay ma cà rồng, thì với mình, điều đó chưa hẳn phản ánh trí tuệ hay đạo đức thực sự của họ. Theo quan niệm của mình, chê bai người khác là “xấu” không đồng nghĩa với việc mình là “tốt”. Lại càng không thể dựa vào những câu chuyện ngớ ngẩn vô căn cứ trên mạng, hay lối tư duy thiển cận để nhục mạ, bôi nhọ người khác rồi xem đó như một minh chứng cho sự hiểu biết của bản thân. Vì thực ra, hành vi đó thường chỉ nói lên điều ngược lại, rằng người cố tình phát ngôn phát tán tin tức lệch lạc đang thiếu đi chính điều mà họ cố tỏ ra mình sở hữu.

Chính vì thế, không nhất thiết phải lao vào những cuộc tranh luận một chiều. Thay vào đó, nên lùi lại quan sát, lắng nghe và nhận biết vấn đề một cách khách quan. Bởi sau cùng, kết quả thực tế mới là câu trả lời rõ ràng nhất. Mình chỉ mong rằng ai thắng cũng lo được việc cho đất nước, làm điều tốt, đừng gây thêm khổ lụy cho người dân đen dễ tin, dễ biểu, và thấp cổ bé họng.

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
(Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo)
Nguyễn Trãi

Nhìn lại cái đạo lý trị nước an dân của các tiền nhân ngày xưa như cụ Nguyễn Trãi quê ta, hoặc cách thức an dân kiến quốc của những vị tổng thống tài ba của đất nước HK ngày trước, rồi nhìn thực tế hôm nay quả nhiên là xa lạ. Tuy nhiên cũng có một thứ hơn hẳn ngày xưa, đó là bất kỳ lúc nào, những kênh truyền thông chính thống trên thế giới và các kênh YouTube tạp nham đều có những tin tức hoặc đề tài giựt gân, giựt tít, để đăng tải và câu viu :-).

Tản mạn chút cho vui, nhưng tất nhiên hy vọng lớn nhất vẫn là sẽ có lúc nào đó, mỗi người chúng ta chịu dừng lại để lắng nghe, để quan sát, để thấu hiểu bản thân nhiều hơn, để soi lại những lối mòn tư duy đã in hằn trong tâm trí lâu nay. Để cuộc sống cân bằng hơn, bớt đi định kiến, bớt đi lệch lạc, và mỗi sớm mai thức dậy có thể uống ly cà phê với tâm hồn nhẹ nhõm, tỉnh táo, và an nhiên hơn.

Chúc mọi người một cuối tuần an vui và đầy nắng ấm.

PN



Sunday, March 16, 2025

Tản mạn - Tùy Duyên



Tuần trước, mình có dịp ghé thăm một người bạn vong niên, người Mỹ, sống ở Chapel Hill, một thành phố cách đây không xa lắm. Buổi ăn trưa kéo dài vài tiếng đồng hồ, ngồi nghe ông chia sẻ về văn học, ca dao dân ca Việt Nam. Dù là người Mỹ, nhưng sự am hiểu của ông về Hán văn và tiếng Việt luôn khiến mình kinh ngạc. Ông là giáo sư chuyên ngành Trung văn cổ đại, lại có năng khiếu đặc biệt về ngôn ngữ, nên khi trò chuyện bằng tiếng Việt hay các ngôn ngữ khác, ông luôn thể hiện sự sâu sắc và phong phú trong cách dùng từ, vượt xa những từ ngữ giao tiếp thông thường. Điều này thật đáng kính trọng.

Mình say sưa nghe ông diễn giải những mẫu chuyện từ thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Trung Quốc cho đến "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" của Nguyễn Đổng Chi, "Tục ngữ phong dao" của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc... Ngồi nghe mà cảm giác lạ lẫm, một người Việt nghe một người Mỹ phân tích kho tàng ngôn ngữ và văn hóa dân tộc mình. Thực ra, đây không phải lần đầu mình có cảm giác này. Mấy năm trước, khi nhận ra thư viện văn học đầy đủ nhất về Việt Nam lại nằm ở đại học Cornell (New York, Mỹ), chứ không phải là một thư viện trong nước hoặc của cộng đồng người Việt hải ngoại, thì mình cũng rất bất ngờ. Như thể phát hiện ra "Tàng Kinh Các" không ở Thiếu Lâm Tự vậy. :-)

Rồi tự an ủi rằng ngôn ngữ là tài sản chung của nhân loại, ai cần thì xử dụng, ai hiểu được giá trị thì gìn giữ. Đơn giản vậy thôi. Tham lam quá có khi lại như Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn, cả đời ẩn thân vào kinh điển của "Tàng Kinh Các" mà bị "tẩu hỏa nhập ma". Ngược lại, Vô Danh Thần tăng, suốt đời chẳng cần tên tuổi, không cần cạnh tranh với ai, chẳng dính mắc gì, chỉ lo quét lá, lau chùi, dọn dẹp, mà lại có thể hóa giải được mối hận thù truyền kiếp của những người tên tuổi lẫy lừng.

Nhắc lại, mình cũng từng hỏi ông bạn già E.H về việc dịch các tác phẩm lịch sử cổ đại Việt Nam như "Lĩnh Nam Chích Quái" và "Việt Điện U Linh Tập" sang tiếng Anh. Dẫu biết ông đã bắt tay vào công việc này từ lâu, nhưng không biết đã hoàn thành chưa. Mình lâu nay vẫn thắc mắc về việc đất nước ta vốn đầy rẫy nhân tài, thậm chí thặng dư, nhưng chẳng thấy ai dịch những tác phẩm này ra tiếng Anh. Nay lại thấy ông bạn già ngoại quốc miệt mài làm việc này, nên mình thường đùa rằng ông "mắc nợ" dân Việt Nam. Tuy nhiên cũng có chút xấu hổ vì bản thân bất tài, không giúp ích được gì, nên thỉnh thoảng mời ông uống cà phê, hỏi thăm có cần hỗ trợ gì không. Nhưng lần nào ông cũng chỉ trả lời gọn lỏn: "Không, tôi đã có tất cả, chỉ thiếu thời gian!". Mình biết ông bận rộn với bao công trình dịch thuật khác, từ văn học, âm nhạc đến nghiên cứu văn hóa, nên thôi, coi như tuỳ duyên vậy. Cái gì đến sẽ đến, lâu lâu ghé thăm, mời ly nước bữa trưa, cũng là cách trả ơn "vác ngà voi" cho ông :-).

Dù vậy, mình cũng từng tự hỏi, liệu có bao nhiêu người VN hiện nay biết đến hoặc quan tâm đến những tác phẩm như "Lĩnh Nam Chích Quái" hay "Việt Điện U Linh Tập"? Nhớ có lần xem chương trình "Ai là triệu phú" ở Việt Nam, có câu hỏi về "Tự Lực Văn Đoàn". Người chơi trả lời là một gánh hát cải lương, và cô ấy hình như là giảng viên đại học. Nghe mà rụng rời, nhưng đó lại là chuyện "thường ngày ở huyện". Thực ra, chữ nghĩa, văn hóa, văn chương ngày nay đã khác nhiều so với trước. Tất nhiên, ai cũng có giới hạn và phạm vi hiểu biết của riêng mình. Nhưng nguy hiểm hơn cả là sự truyền tải sai lệch thông tin, vô tình hay cố ý, dẫn đến những hiểu lầm và suy diễn sai trái trong cuộc sống. Ngôn ngữ bị lạm dụng, khái niệm bị đánh tráo. Phương tiện truyền thông ngày nay quá đa dạng và tiện nghi, dễ dàng tạo ra sự hỗn độn khó phân biệt đúng sai. Đặc biệt trong các vấn đề tôn giáo và văn hóa xã hội, nơi lòng tin được hình thành và nuôi dưỡng, lại bị chi phối quá nhiều bởi lợi nhuận và vật chất, hình tướng, dẫn đến tâm lý nghi ngờ, hoang mang, sinh ra nhiều nghi vấn và thất vọng trong xã hội. Ngày càng nhiều những hiện tượng cuồng tín, chia rẽ, a dua, công kích, hận thù... xảy ra trong đời sống. Nhưng lại hiếm hoi những sự quan sát độc lập, phân tích khách quan, sáng suốt, trung thực dựa trên sự thật. (À, mà nếu có, chắc gì thiên hạ lại chịu nghe :-)). Tất nhiên lâu nay, "đám đông" (mặc dù không phải là đa số) và các ứng dụng công nghệ, luôn là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến những hiện tượng này. Mà một khi nói đến hiệu ứng của dư luận, lời đồn, hoặc tin tức nghe ngóng từ 'đám đông", thì ôi thôi tây ta gì cũng thế, muôn hình vạn trạng. Đơn giản từ một cuộc bầu cử cho đến những sự kiện cuồng tín vô căn cứ, tạo ra công kích và chia rẽ hận thù, đều xuất phát từ những nguyên nhân sâu xa giống nhau, mặc dù hình thức có khác. Albert Einstein có câu "Just because you believe in something does not mean that it is true". (Tạm dịch: Anh tin vào điều gì đó không có nghĩa đó là sự thật). Trong lịch sử nhân loại xưa nay, đám đông không phải lúc nào cũng đại diện cho trí tuệ, nhưng sức mạnh và hệ lụy của nó tạo ra lại vô cùng nguy hiểm. Ông Mark Twain cũng có một câu rất nổi tiếng là "Whenever you find yourself on the side of the majority, it may be time to stop and reflect". (Tạm dịch: Khi nhận ra mình đang đứng về phía đám đông, thì nên dừng lại và chiêm nghiệm lại vấn đề). Nhưng thực ra nếu cứ khăng khăng cho mình là đúng, tự hào là “đỉnh cao” của nhân loại, thì dù có chiêm nghiệm bao nhiêu cũng chẳng ích lợi gì!



Trở lại đề tài chính mà mình và ông bạn già trao đổi hôm trước, đó là nhân duyên. Mình và anh bạn đều cho rằng mọi thứ có được, hoặc thành tựu trên đời, từ lớn đến nhỏ, đều do "nhân & duyên" (causes & conditions), chứ không phải do bất kỳ thiên tài hoặc vĩ nhân nào một mình có thể tạo ra. Mọi thứ sinh ra đều do duyên khởi, lệ thuộc vào nhiều yếu tố cần thiết khác nhau. Và tất cả các sự vật luôn biến đổi (vô thường), có sinh tất có diệt. Cho nên cũng chẳng có gì cần phải ầm ĩ, xưng tụng cho lắm :-). Thực ra ngay từ buổi sơ khai của vũ trụ, Big Bang cho đến giai đoạn các loài sinh vật hình thành, thì nguyên lý vô thường và duyên khởi đã tồn tại. Nghĩa là trước khi thái tử Tất Đạt Đa ra đời hàng ngàn triệu năm thì "nhân & duyên" đã hiện diện ở thế giới này. Những quy luật nhân quả, vô thường, luôn chi phối vạn sự, vạn vật trong vũ trụ, xưa nay không có ngoại lệ. Và ngày nay khoa học hiện đại cũng chứng minh rõ ràng điều đó. Tuy nhiên, cho đến thời kỳ Đức Phật Thích Ca xuất hiện, Ngài mới bắt đầu giảng thuyết về những chân lý sự thật trong đời sống, chỉ ra những nguyên lý vận hành tự nhiên của vô minh tham ái, sinh tử dính mắc, để hướng dẫn chúng sinh thực hành tự tìm đến con đường giải thoát. Từ đó về sau, trong các kinh điển truyền thừa PG thường nhắc đến những tư tưởng và từ ngữ như vô thường (impermanence), nhân quả (cause & effect), nhân duyên (causes & conditions), duyên khởi (causation) .v.v.. Bởi vậy có một số ít người hiểu lầm cho rằng đó là những sản phẩm của đạo Phật tạo ra. Thực ra thì không phải vậy, đó là những chân lý sự thật của vũ trụ. Cho dù Đức Phật chưa hề xuất hiện ở thế gian này, hoặc Ngài chưa hề thuyết giảng về những điều đó, thì những chân lý đó vẫn tồn tại và vận hành như vậy. Bạn có thể không tin nhân quả, không tin vô thường, nhưng quy luật nhân quả và vô thường thì vẫn cứ vận hành đúng theo chiều hướng mà nó phải vận hành. Nôm na, những người hiểu chuyện thường cho rằng đó là cách vận hành của "pháp".

Ví dụ, một ông xây được cái nhà, là do hội đủ nhiều điều kiện như tài chánh, thợ thầy, thiết kế, gạch, đá, xi măng, vợ chồng đồng thuận, đền bù giải tỏa êm thắm ..v.v...hoặc lung tung gì đó. Một đứa con học được ra ông này bà nọ, là do cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng, do thầy cô, bạn bè, xã hội, ông bán hủ tíu, bà bán xôi, người phu trường, cái ăn, cái mặc .... Một ông lãnh đạo được thăng quan tiến chức, quyền cao chức trọng, thì cần phải hội đủ nhiều điều kiện hơn, phải nhờ vào quần chúng nhân dân, nhờ thuộc cấp làm việc hiệu quả, nhờ quan hệ bạn bè, nhờ sếp chiếu cố, nhờ vợ con ủng hộ…Một ông sư đi bộ bao năm bỗng chốc nổi tiếng, là ngoài công phu rèn luyện bản thân còn phải đủ duyên với các yếu tố khác như nhờ có Youtube, nhờ có các Youtuber đa thành phần, hổ lốn đúng sai, nhờ TV, nhờ smartphone, nhờ những người có thời gian theo dõi và truyền tải, nhờ những người hám danh hám lợi làm tấm gương phản chiếu, nhờ có người lạy lục đu bám, nhờ có những người tin vào công đức ...v.v..và v.v. Nhưng quan trọng nhất là nhờ pháp tu khổ hạnh Dhuta (đầu đà) của các vị Tổ ngày xưa truyền lại. Tất nhiên nếu có một ông sư khác cũng tu khổ hạnh y chang như vậy, hoặc giả phẩm hạnh căn cơ tốt hơn, hoặc ăn nói hay hơn, cũng chưa chắc gây được những sự chú ý như thế. Bởi vậy mới nói là do nhân duyên khác nhau, tùy duyên tạo tác. Những bậc giác ngộ, hoặc người thấu hiểu được các nguyên lý duyên khởi, vô thường, thường chọn lối sống trí tuệ, không khoe khoang, không xưng công trạng, không dính mắc, không ngã mạn, không đề cao bản thân (vì hiểu có được là do nhân duyên), và không bám trụ vào những thứ mà người đời cho là "bất di bất dịch". Nhớ hôm gần Tết, mình hỏi đứa con "Con thấy nhiều người quỳ mọp lạy mấy tu sĩ xin rờ chân, rờ đầu, nghĩa là họ đang lạy ai ? Lạy ông sư đi bộ, hay lạy Hạnh đầu đà của Ngài Ca Diếp ? Họ lạy để được phước báu công đức, lạy để thể hiện sự tôn kính nhà sư, hay lạy vì tỉnh thức giác ngộ ? Người đến chùa chắp tay lạy một chú tiểu quét chùa, là lạy chú tiểu, lạy Tam Bảo, hay lạy chính bản thân họ ?". Đứa con sinh ở Mỹ, trả lời, làm mình ngạc nhiên !

Nhớ có lần mình được nghe một bài giảng pháp của HT Thích Thanh Từ nói về "chữ KHÔNG trong kinh Bát Nhã". Rất hay, và rõ ràng là để hiểu được chữ "KHÔNG" đó một cách đúng đắn, cần phải hiểu biết về thuyết nhân duyên. Nếu không e rằng lại nhầm lẫn giữa "emptiness" (tánh không) và "nothingness" (không có gì). Nói đến đây bỗng nghĩ đến một bài thơ xưa rất hay của thiền sư Từ Đạo Hạnh thời nhà Lý.

Hữu không

Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thuỷ nguyệt,
Vật trước hữu không không.
(Thiền sư Từ Đạo Hạnh)

Tạm dịch:

“Có” thì hạt bụi cũng có
“Không” thì thế giới thảy đều không
Có, không, như ánh trăng dưới nước
Đừng bám hẳn vào cái có, cũng đừng cho cái không là không.
(Từ Đạo Hạnh thiền sư)

Thế nhưng trong cuộc sống thì không phải ai cũng hiểu được những nguyên lý này. Thậm chí có ông leo lên đến hàng lãnh đạo của những quốc gia hàng đầu trên thế giới, mà vẫn sáng nắng chiều mưa, đụng đâu cũng bi bô về cái tôi "vĩ đại". Thông thường thì những người đề cao bản thân thái quá, cũng là những người đổ thừa cho người khác nhiều nhất khi thất bại hoặc bị bế tắc. Họ hiếm khi biết nghĩ cho người khác, vì thực sự họ không quan tâm ai hơn cái "tôi" của họ. Một nhà lãnh đạo tài ba, nhìn xa trông rộng, là người tạo được sự đoàn kết đồng lòng, chứ không phải tạo ra chia rẽ hận thù. Nhưng âu đó cũng là nhân duyên, ai cũng phải có những bài học cho riêng mình để trải nghiệm. Và quốc gia dân tộc cũng vậy, đất nước nào cũng cần phải có những "vận nước" cần thiết để học hỏi và trưởng thành. Mình nghĩ vậy. Thôi xin tạm dừng nơi đây, chúc quý anh chị và bạn hữu một ngày chủ nhật an vui hạnh phúc cùng gia đình.

PN (03/2025)




Saturday, February 15, 2025

"Nhìn" và "Thấy"

"Nhìn" và "Thấy"
(Thành kính tri ân Thầy)

Gần 30 năm trước, cộng đồng người Việt tại một thành phố ở Mỹ mời Thầy Abhinyana đến nói chuyện (một số người gọi là giảng pháp). Hôm đó, nhân dịp Thầy từ Úc sang và ghé thăm tôi vài ngày, tôi có cơ duyên đưa Thầy đến buổi nói chuyện. Đề tài hôm ấy là "Nhìn" và "Thấy".

Thực lòng mà nói, lúc đó tôi chưa hiểu biết nhiều về tôn giáo hay đạo pháp. Tôi cũng không rõ tại sao Thầy không giảng pháp như những vị sư khác mà lại chọn một đề tài có vẻ "đời thường" như vậy. Liệu điều này có liên quan gì đến Phật giáo không? Vì thế, tôi chỉ chú ý đến cách lập luận của Thầy, nghe một lúc rồi lại ra ngoài hút thuốc, đợi Thầy nói chuyện xong để đưa về.

Mãi đến bây giờ, tôi mới dần hiểu được ý nghĩa sâu xa của bài giảng năm ấy. Hôm nay, khi Thầy đã viên tịch, nhân lúc có nhiều bạn bè, người thân thắc mắc về các hiện tượng "tín ngưỡng" và "cuồng tín" trong tôn giáo và đời sống hiện nay, tôi muốn viết vài dòng tri ân Thầy – cũng như coi đây là một lời sám hối của đứa trẻ u mê năm nào.


Trước tiên tôi xin có đôi lời là những gì tôi viết ở đây hoàn toàn dựa trên sự hiểu biết chủ quan của mình. Một bài viết ngắn khó có thể truyền tải hết chiều sâu của đề tài này. Tôi vốn không muốn phụ thuộc vào kinh sách hay theo một tông phái nào cụ thể, nhưng ngôn ngữ là công cụ duy nhất để diễn đạt, nên khó tránh khỏi sự trùng lặp với những gì đã có trong kinh điển. Nếu bạn bè nào cảm thấy hứng thú, hãy đọc cho vui. Nếu ai thấy đồng cảm và muốn tìm hiểu thêm, ngày nay tài liệu về Phật pháp có rất nhiều. Còn nếu muốn tranh luận, thì tôi e rằng bài viết này không phải là nơi phù hợp.

Từ nhỏ, tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình theo đạo Phật. Ngày rằm, mùng một ăn chay, theo ông bà cha mẹ đi chùa. Hình ảnh sư sãi, chùa chiền vốn gắn liền với cuộc sống, nhưng tôi không thực sự hiểu đúng sai thế nào. Kiến thức của tôi về Phật giáo khi ấy chủ yếu xoay quanh nghi lễ, cúng bái, theo truyền thống gia đình và xã hội.

Sau năm 1975, Phật giáo, cũng như tín ngưỡng tôn giáo nói chung, dường như bị chững lại vì ai cũng lo lắng chuyện miếng cơm manh áo. Một số ít không phải lo toan sinh kế thì lại chẳng tin vào tôn giáo, thần linh. Chùa chiền vắng bóng, sư sãi hoàn tục kiếm sống. Đến khi nước nhà mở cửa, kinh tế khá hơn, của ăn của để, nhiều người quay lại tìm kiếm đời sống tâm linh. Chùa to, tượng lớn mọc lên, và kèm theo đó là đủ loại phong thủy, cúng bái, bói toán, kinh doanh, du lịch tâm linh, phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, những phương thức quản lý tôn giáo như giáo hội, hội đoàn, uỷ ban, chính sách định hướng ... cũng nhanh chóng được hình thành.

Những người chưa bao giờ tin Chúa tin Phật bỗng nhiên trở thành tín đồ ngoan đạo. Nhiều người keo kiệt bỗng chốc hào phóng cúng dường. Nhiều gia đình đang yên ổn với mồ mả tổ tiên, bỗng nhiên thấy "phong thủy" có gì không ổn, phải rước thầy về sửa lại để cầu phúc lộc. Và dĩ nhiên, khi có thóc thì có chim – vô số hiện tượng mê tín, cuồng tín cũng từ đó ra đời. Một số chùa chiền, sư sãi, đã thay đổi để bắt kịp trào lưu xã hội và phù hợp với văn hoá tín ngưỡng địa phương vùng miền. (Tất nhiên cũng có nhiều chùa chiền, tăng ni, vẫn còn tinh tấn giữ được hạnh tu của họ).

Trong sự hỗn độn này, hình thức dần lấn át những nội dung cốt lõi. Phật giáo bị biến tướng đến mức nào, không ai có thể chắc chắn. Đức tin bị lạm dụng. Tôn giáo bị chia cắt thành muôn vàn cách hiểu khác nhau, ai cũng cho rằng mình đúng. Hết tông phái này đến tông phái kia, hết thiền này đến thiền nọ, hết đạo này đến đạo kia, hết chùa này đến sư nọ…Như một chiếc bánh chung, mỗi người cắn một miếng và lý giải theo cách hiểu của riêng mình. Nhưng suy cho cùng, đó cũng là quy luật tự nhiên, có cái này ắt có cái kia, có sinh thì có diệt.

Thời buổi đó, như nhiều người khác, tôi cũng cảm thấy lạc lõng trong mê hồn trận của tín ngưỡng và nhận thức xã hội. Tôi bắt đầu tìm tòi học hỏi. Khi ra nước ngoài, tôi may mắn gặp được nhiều vị tăng ni từ các quốc gia khác nhau, tiếp cận với nhiều kinh điển từ những nguồn khác nhau. May mắn hơn nữa là kinh sách ở nuớc ngoài thường có phiên bản tiếng Anh, được dịch trực tiếp từ tiếng Pali hoặc Sanskrit, nên ít bị ảnh hưởng những từ ngữ Hán Nôm hoặc tiếng TQ phiên âm mà tôi thường nghe từ bé nhưng không hiểu. Cũng trong thời gian đó, tôi có cơ duyên gặp được Thầy Abhinyana. Thầy không có danh tiếng, không trụ trì, không có chùa, không tài sản, không cả mộ phần. Nhưng điều Thầy để lại là một dấu ấn sâu sắc trong lòng những ai từng được gặp Người.

Tuy nhiên, đời sống thường nhật cuốn tôi đi. Tôi mải mê công việc, bạn bè, rượu chè, hưởng thụ, và quên đi khát vọng học hỏi về đạo pháp. Mãi đến những năm gần đây, tôi mới có cơ hội nghiên cứu nhiều hơn. Càng tìm hiểu, tôi càng thấy kiến thức của mình nhỏ bé và sai lệch. Những thứ tôi từng tự hào hóa ra chỉ là trở ngại, chỉ làm tăng thêm sự tự mãn và lý luận rối rắm. Càng học, càng buông bỏ, càng thấy đơn giản, và cũng càng cảm nhận sự an lạc nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống. 

Nhìn lại, từ những lời giảng dạy đơn giản của Bụt ngày xưa, đến nay đã hình thành vô số kinh điển, luật luận, tông phái, và các pháp tu tập truyền thừa. Từ Luật tông, Tịnh Độ tông, Thiền tông, Pháp Tướng tông (Duy Thức tông), Mật tông (Chân Ngôn tông), Thiên Thai tông (Pháp Hoa tông), Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Câu Xá tông, Thành Thật tông..v.v.. cho đến sự phân biệt giữa hạnh nọ hạnh kia, đầu đà (dhuta), khất sĩ, Tiểu thừa, Đại thừa, Nam truyền, Bắc truyền... Ngôn ngữ, khái niệm, định nghĩa, hình thức, nghi lễ, cứ thế đan xen và biến đổi qua từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng đất nước khác nhau. Trong dòng chảy ấy, không ít người lẫn lộn giữa phương tiện và mục đích, giống như câu chuyện ngón tay chỉ mặt trăng ngày xưa, khi người ta chỉ chăm chú vào ngón tay mà quên mất mặt trăng.

Và một ngày nọ, tôi chợt nhớ lại bài giảng năm xưa của Thầy, "Nhìn" và "Thấy". Tôi mới hiểu rằng "Nhìn" là sự nhận biết của các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và ý (mind). Nhưng cái "Thấy" mà Thầy muốn nói không phải là sự phân biệt theo tưởng tri hay thức tri, mà là sự nhận thức bằng trí tuệ. "Thấy" trong Phật giáo là tuệ tri, là sự nhận biết không bị che mờ bởi thành kiến, kiến thức hàn lâm, hay lý thuyết cao siêu. Có lẽ đây là một trong những tư tưởng quan trọng nhất của Phật giáo mà tôi từng được nghe.

Đức Phật vốn không lập ra tôn giáo để thờ phụng hay mê tín. Ngài chỉ có một mục đích duy nhất là tìm con đường diệt khổ cho chúng sinh. Khi tìm ra con đường ấy, Ngài được gọi là Bậc Giác Ngộ (Buddha). Chữ Buddha trong tiếng Phạn chỉ đơn giản có nghĩa là người tỉnh thức (the enlightened one/the awakened one), chứ không hề mang màu sắc thần thánh hay phép thuật siêu nhiên. Chữ Buddha tiếng Sanskrit có gốc từ chữ Budh (Bụt), nghĩa là tỉnh thức (to wake up), hoặc biết (to know).

Tất nhiên, ở đây đang nói đến cái "thấy đúng" và "biết đúng" của bậc Giác Ngộ. Còn như mình, cứ nhìn gà hóa thành cú, "thấy" gì cũng qua lăng kính "thiên tài" của bản thân, thì cao siêu lắm cũng chỉ là ảo giác và ngộ nhận 😊. Trong PG, có sự phân biệt rõ ràng giữa "tướng biết" và "tánh biết". "Tướng biết" là cái biết chủ quan, dựa trên hình tướng bên ngoài, bị che lấp và bóp méo bởi vô minh. Còn "tánh biết" là sự nhận thức trong sáng, rỗng rang, tịch tịnh của trí tuệ. Đây chính là trí tuệ (wisdom) vốn sẵn có trong mỗi con người, không ai tạo ra nó, cũng không ai có nhiều hay ít hơn ai. Nhiều vị thiền sư đắc đạo ví von rằng: Chỉ cần những đám mây tan biến, thì bầu trời xanh sẽ hiện ra - Kiến tánh thành Phật. Cho nên điều này không nhất thiết cứ là kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ, giáo sư, nhà nghiên cứu... hoặc giàu có, học thức, địa vị xã hội, quyền cao chức trọng linh tinh gì đó thì có thể đạt được. Câu chuyện giữa Ngài Huệ Năng và Ngài Thần Tú chính là một minh chứng rõ ràng cho chân lý này. Nhưng trong đời sống thường nhật, chúng ta vẫn bị cuốn vào những vòng xoáy vô minh. Ai cũng mang theo lớp vỏ của thành kiến, danh vọng, tiền tài, và những mê muội cá nhân. Rốt cuộc, cái "Thấy" của chúng ta vẫn chỉ là cái thấy đầy chấp trước và ngộ nhận.

Trở lại với đời thường, mỗi ngày chung quanh chúng ta nhan nhản những cái "nhìn", cái “thấy" đầy thiên kiến lệch lạc. Và tất nhiên là cho dù cố gắng tỉnh táo đến đâu, thì ít nhiều mình cũng sẽ bị ảnh hưởng, bởi cuộc sống vốn là một bữa tiệc buffet phong phú - Gần ông lý luận, nghe toàn chuyện lý sự, thuyết nọ thuyết kia. Gần ông hám danh, nghe toàn những bánh vẽ ảo vọng, con cóc cũng có thể hóa thành ông trời. Gần ông cơ hội, hôm nay kết thân với người này, mai kề cận với người kia, bao nhiêu câu chuyện làm quà. Gần ông ham tiền, suốt ngày chỉ nghe nhắc đến chuyện tiền tỉ, tiền ức. Gần ông mê chính trị thì ra rả suốt ngày nghe chuyện hơn thua, mưu kế, thủ đoạn xấu xa. Gần ông bùa phép mê tín thì nghe toàn chuyện oan gia trái chủ, ma quỷ, địa ngục thiên đường. Gần ông nông dân, thì đơn giản chỉ có cái cày, cái cuốc...v.v.. Cứ thế, thích món nào thì chọn món đó, ai thuận ta thì “đúng” ai nghịch ta thì “sai”, rồi dính mắc vào nhau !

Nhiều người rất đa nghi nhưng lại dễ tin, nghe có vẻ mâu thuẫn và hài hước, nhưng lại là sự thật. Cho nên nếu không đủ tỉnh táo, có khi ta lại rước cả cái vô minh của thiên hạ vào mình; và những đám mây đen, mây đỏ, che lấp bao quanh đã dày lại càng dày thêm. Bản thân tôi cũng vậy, cứ thỉnh thoảng hết nghe bà vô thượng sư này lại đến ông thần y kia, hết ông "Phật sống" này đến bà “Bồ tát” kia, hết nhà nghiên cứu này đến ông chuyên gia nọ, hết ông tiến sĩ này lại đến giáo sư kia, hết người thông thái này đến gã phi thường nọ.... Đọc hoài câu "ưng vô sở trụ", nhưng cứ gặp chỗ nào hơi cộm chút là lại bám vào chỗ đó. Thành ra cái "thấy", cái "biết" của mình vẫn cứ mãi là một ly nước đầy vẫn đục của kẻ phàm phu 😊. Ngược lại, những người hồn nhiên, trong sáng, không bị dính mắc, họ lại sống an nhiên, tỉnh thức, và hạnh phúc hơn nhiều !

Thôi dài quá, xin tạm dừng nơi đây. Đã lâu không viết lách, mới viết lại tuần rồi nên giờ gõ máy chút đỉnh đã thấy mỏi tay :-). Xin mến chúc tất cả một cuối tuần an vui và hạnh phúc .

PN
(02/2025)



Sunday, November 26, 2023

Phiếm: Chuyện Tề Thiên ....

 


Cách đây vài tuần, đi với mấy ông anh lên Đà Nẵng ăn mì Quảng. Chạy ngang Non Nước (Ngũ Hành Sơn), trời mưa như trút nước. Trong xe có người nhắc đến chuyện một ông quan địa phương nào đó đã từng đề nghị xây dựng một công trình du lịch hoành tráng ở Ngũ Hành Sơn, vì nghĩ rằng năm xưa Tề thiên bị Phật Tổ bắt nhốt ở đây. Hài hước thật, nhưng mình lại cảm thấy rất khâm phục tài năng của tác giả "Tây Du Ký". Viết một câu chuyện hư cấu hoàn toàn, mà bao nhiêu năm sau, bao nhiêu thế hệ trôi qua, vẫn có người cứ tin như thật !

Dài dòng chút, Tây Du Ký ra đời vào thời nhà Minh TQ (khoảng thế kỷ 16), mặc dù truyện viết về bối cảnh của Thầy Huyền Trang thời Đường đi thỉnh kinh, một câu chuyện xảy ra cả ngàn năm trước đó (thế kỷ thứ 6). Tức là theo chính sử thì Tây Du Ký ra đời sau thời Hồ quý Ly Hồ Nguyên Trừng, Lê Lợi Nguyễn Trãi của quê ta. Còn ai mà mê kiếm hiệp, thì tính theo lịch là sau thời của Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn quận chúa :-) . (Bởi trong truyện "Cô gái Đồ Long" thì Chu Nguyên Chương, vị vua sáng lập lên triều đại nhà Minh TQ, lúc này còn làm nghĩa quân trong Minh giáo, giả dạng nằm vùng làm phu xe kéo để hoạt động cách mạng). Nôm na là bộ truyện TDK xuất hiện vào khoảng năm 1592 với tác giả ẩn danh. Sau đó cũng gây ra nhiều tranh cãi, cuối cùng tạm kết luận là tác phẩm của Ngô Thừa Ân, sau khi ông qua đời nhiều năm. Tây Du Ký được truyền bá rộng rãi ở các nước châu Á. Mãi đến thời trước đệ nhị thế chiến, một dịch giả người Anh là Arthur Waley dịch truyện này ra tiếng Anh, và được nhiều người phương Tây biết đến. Nói chung, TDK là một bộ truyện hư cấu hoàn toàn, nhưng rất hay, đậm nét văn hoá đông phương và mang nhiều triết lý tư tưởng tôn giáo sâu sắc, không chỉ riêng gì PG Bắc truyền, mà có cả Đạo giáo và Nho giáo trong đó. 

Nhớ hồi nhỏ đi học, ghiền truyện tranh, khoái lắm bộ truyện tranh Tề thiên đại thánh. Bẵng đi bao nhiều năm, trở về lại quê nhà, ngạc nhiên khi thấy ai ai cũng mê cũng thuộc Tây Du Ký, Bao Công ... Mới biết ra là TV nhà ta giờ phát hành phim ảnh TQ rộng rãi. 

Nhưng tất nhiên là hôm nay không ngồi đây kể chuyện Tề thiên Đại thánh, mà chỉ muốn nói đến câu chuyện cái lò luyện linh đan của Thái Thượng Lão Quân và Tôn Ngộ Không.

Một khi nói về Thái Thượng Lão quân (TTLQ), thì có rất nhiều giả thuyết. Từ Đạo giáo Tam Thanh bên TQ cho đến các vị Cao Đài của VN ta, đều cho rằng quyền uy của Ngài TTLQ là tối thượng trên cõi Thiên đàng. Có nhiều nơi còn gọi tôn hiệu của Ngài là Vô cực chí tôn, Vô cực lão tổ. Mình thì không rành rẽ các chức sắc hoặc danh hiệu mà các đạo giáo dành cho Ngài, nhưng trộm hiểu rằng nếu Ngài mà một tay nắm giữ linh đan, sinh sát ở cõi Trời, thì từ thiên binh thiên tướng cho đến ông Ngọc Hoàng cũng phải nghe lời Ngài chứ chẳng phải dạng vừa. Bởi vậy trong Tây Du Ký, khi mọi giải pháp dựa vào vũ lực, mềm mỏng, dụ ngọt, luật pháp, hành pháp ... trên cõi Trời đều bó tay trước Tôn Ngộ Không, thì Ngọc Hoàng và các chư thiên chư tướng phải nhờ đến Thái Thượng Lão quân ra tay cứu giúp. Và chắc là ai cũng biết nhờ cái vòng "Kim Cương Trác" của Thái Thượng lão quân, mới bắt được Tề thiên đại thánh. Tuy nhiên, cái vũ khí ghê gớm nhất của Thái Thượng Lão quân không phải là cái vòng Kim cương, mà là cái Lò, lò luyện linh đan cho cõi Trời !

Cho nên sau khi bắt được Tôn Ngộ Không, Thái thượng lão quân bàn với Ngọc Hoàng rằng: "Con khỉ ấy ăn đào tiên, uống rượu ngự, xơi cả linh đơn. Rượu thuốc, rượu ngâm, ngọc linh, rắn hổ, đông trùng hạ thảo, mật gấu, hổ cốt, gì cũng uống qua hết. Nó lại luyện thân thể bằng thứ lửa tam muội nữa, nên người tựa một khối kim cương rắn chắc, không vật gì hại được. Hay là để thần mang nó về bỏ vào lò Bát Quái, đốt nó bằng cái thứ lửa thần kỳ mà thần thường dùng để luyện linh đơn, thì người nó nhất định sẽ biến thành tro bụi". Ngọc Hoàng nghe vậy, ưng cái bụng, lập tức sai thần Lục đinh Lục giáp giải Tôn Ngộ Không đến Lò của Thái Thượng lão quân.

Còn nhắc đến cái Lò của TTLQ thì khỏi nói rồi, xưa nay độc nhất vô nhị. Ngoài thì thiên binh thiên tướng, lục đinh lục giáp ngày đêm canh gác cẩn thận. Trong thì bố trí thiên la địa võng, phong thuỷ, ngũ hành bát quái, vô cùng phức tạp. Mờ mờ ảo ảo, nhìn vô không thấy mà nhìn ra cũng mịt mù, nếu có giải thích thì cũng chẳng có mấy ai hiểu nỗi !

Về đến Cung Đâu Suất, TTLQ sai người gom củi, đốt lò quạt lửa, khí thế ngút trời. Tiếng lành đồn xa, lại thêm các ngài thiên lôi vác loa thông báo, cõi trời cõi đất, mấy vạn cõi sinh linh gần xa nghe qua đều khiếp vía. Nhưng cũng có nhiều người vừa sợ vừa lo, bán tín bán nghi, cố chờ đợi kết quả xem sao. Nghi lễ rình rang, TTLQ đem thả Tôn Ngộ Không vào lò, then cài chốt kỹ, thêm lửa thêm củi, rồi yên tâm chờ đợi đến 49 ngày sau. 

Ai dè, điểm mạnh nhất của cái Lò là phương vị Bát quái, thì cũng chính là cái điểm yếu nhất. Bởi nguyên thuỷ, lò này được cấu trúc tám ngăn dựa theo các cung quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Tôn Ngộ Không khôn ngoan chui ngay vào ở cung Tốn. Tốn là gió, mà phàm có gió thì không có lửa. Cùng lắm thì lâu lâu có chút khói thổi vào cay mắt, dụi dụi là xong. Tôn Ngộ Không vốn có sở trường là nhổ nắm lông rồi biến hoá đủ thứ, nên món gì lại chẳng có. Cho nên cũng không ai biết được rõ ràng cuộc sống thực sự của Tôn Ngộ Không trong lò Bát quái là như thế nào. 

Đúng 49 ngày sau, TTLQ sai người mở nắp Lò ra, đinh ninh là Tôn Ngộ Không đã thành tro bụi rồi, còn sống thì chắc cũng sẽ quỳ lạy xin chừa. Nào ngờ đâu không phải như vậy. Còn kết quả sau đó thì ai cũng biết rồi !

Tất nhiên, ngay sau đó cả cõi Trời rúng động, Ngọc Hoàng liền triệu tập bộ sậu họp kín khẩn cấp để nghe TTLQ giải trình. Thiên đình đóng cửa, nội bất xuất ngoại bất nhập, chốt đóng then cài. Thiên binh thiên tướng, Nam tào Bắc Đẩu, lục đinh lục giáp ... vừa hồi họp vừa tò mò, đứng bên ngoài rình rập nghe ngóng. Kẻ áp má người nghiêng tai, kẻ dùng thiên lý nhãn người dùng thiên lý nhĩ, nhưng tuyệt nhiên không một tiếng động nào lọt ra ngoài. Mấy ngày sau, cửa thiên đình đột nhiên mở rộng, một chiếc bóng bay vèo ra. Các thiên binh thiên tướng cõi Trời chỉ kịp nhìn thấy cái bóng dáng liêu xiêu của cây phất trần phất phơ trong gió. Ngài TTLQ che mặt phi thân như một tia chớp về hướng Cung Đâu Suất, và sau đó không ai thấy Ngài đi ra nữa ...

Cõi Trời cõi Đất lại một phen dậy sóng. Nghe đồn rằng ai cũng sợ không dám lên tiếng hỏi han hó hé gì cả, nhưng đêm về vẫn cứ thầm thì, lén lút to nhỏ với nhau. Mấy ông ở quan trường, thiên binh thiên tướng, chiều về thường rủ nhau đi hái đào tiên, lai rai vài ly thiên tửu, lân la dò hỏi, nghe ngóng tin tức. Nhưng tin đồn thì vẫn cứ mãi là tin đồn, tam sao thất bổn, chẳng trúng trật gì. Tuy nhiên ai cũng có một nỗi lo chung, và dường như đó là mối quan tâm lo lắng nhất, không biết Lão Tôn có bỏ lại mấy nhúm lông trong lò hay chăng ? Nếu có, thì e rằng còn bao nhiêu Lão Tôn nữa chưa ra lò, mà không ai có thể đoán biết hết được !

Những thiên tướng quyền cao chức trọng thì không dành thời gian đoán già đóan non như hàng thiên binh thiên mã đồn đãi, mà họ lại nghĩ đến những điều "tư duy" hơn, hệ thống hơn. Đồn rằng có một số ít rất thông minh và trí tuệ, quan tâm đến trạng thái của TTLQ lúc rời khỏi thiên đình sau khi họp kín với Ngọc Hoàng. Tuy nhiên, thông tin chẳng bao giờ rõ ràng, có người thề thốt cho rằng đã thấy TTLQ mĩm cười một cách mãn nguyện, nhưng một số người khác lại nói chính mắt thấy TTLQ đưa tay che mặt khóc tức tưởi. Tất nhiên đó chỉ là tin tức hành lang, lời đồn đãi của những câu chuyện làm quà. Cũng có thể đây sẽ là một bí mật muôn đời mà không ai biết được, trừ khi Ngô Thừa Ân sống lại .... :-).

Và kể từ sau lần thử thách thất bại đó, sinh linh trong các cõi cũng không còn mặn mà nhắc đến chuyện cái Lò nữa. Những lời đồn đãi ca tụng của các thiên lôi, thiên tướng cũng thưa dần. Còn đám thiên ngưu, thiên mã vẫn hàng ngày đi gom củi đốt lò luyện linh đan, nhưng không còn cờ xí như xưa. May là cuối cùng Phật Tổ đã thu phục được Lão Tôn và bắt nhốt ở Ngũ Hành Sơn (mà ông quan nào đó cho là ở Non Nước, Đà Nẵng :-)). Nhưng nhiều người hiểu chuyện thì cho rằng Ngô Thừa Ân muốn nói đến chính tính cách tự cao tự đại, ảo tưởng "kiêu binh" của Tôn Ngộ Không đã tự hại bản thân Ngài, chứ không ai có thể làm phương hại đến Đại Thánh được. Ngẫm lại âu cũng là một mẫu chuyện hay !

Thôi cuối tuần phiếm chút cho vui. Chúc tất cả một tuần mới an lành.

PN



Thursday, November 23, 2023

Lan man ngày lễ Tạ ơn

 


Với mình, trong năm có 2 thời điểm im ắng và sâu lắng nhất. Đó là chiều ngày lễ Tạ ơn ở Mỹ, và tối 30 Tết đợi cúng giao thừa. Pha một ly cà phê hoặc làm một ly rượu ngon, ngồi lan man với chính mình về những thứ qua đi, còn lại, rồi viết lách một vài ý tưởng linh tinh gì đó đợi chờ gà chín, vậy là cũng thấy vui rồi. Chiều nay bỗng nhớ đến một đoạn du ca do Thái Hiền hát trong phim Trường Tôi ngày xưa....

Nằm vắt tay lên trán ta nghĩ đến chuyện cuộc đời
Ngồi bấm đốt ngón tay ta nghĩ đến chuyện ngày qua
Nằm vắt tay lên trán ta nghĩ đến chuyện bây giờ
Ngồi bấm đốt ngón tay ta nghĩ đến chuyện ngày mai ...

Thời gian qua nhanh thật, lại một năm trôi qua. Mới mùa xuân hoa lá rực rỡ hôm nào, nay lại đến mùa thu, lo quét lá vàng, dọn vườn dọn rác. Ngồi nhìn lại, bao năm lang bạt xứ người, bao nhiêu mùa lễ Tạ ơn qua đi, bao nhiêu ân sủng của tạo hoá, bao nhiêu ân tình của gia đình, bạn bè, xã hội, con người.... quyện lẫn vào nhau khó mà tách biệt ra được. Bởi vậy hàng năm đến ngày lễ Tạ ơn, thấy lòng mình chững lại, rộng mở, buông bỏ, cho đi, và biết ơn những gì có được. Mà đó cũng là tâm trạng chung của nhiều người vào dịp lễ Tạ ơn. Tất nhiên là trong đời sống chúng ta, mỗi người đều có gia đình, người thân, anh em bạn bè, và những thứ riêng tư cần phải tri ân, mà không phải đợi đến ngày lễ hội này.

Mới hôm rồi ở sân bay bên Nhật, ngồi đợi máy bay chuyển tiếp, gặp ông VK kia quen, hỏi mình chữ đi, về. Đã lâu, mình không còn để ý đến những chi tiết chi li của từ ngữ nữa. Nói sao hiểu được thì thôi, mỗi người, mỗi địa phương đều có cách hiểu vấn đề và cách trình bày khác nhau. Cuối cùng thì ngôn từ cũng chỉ là những phương tiện để suy nghĩ và diễn đạt thôi. Trừ khi nói ra mà người khác không hiểu mình nói gì thì là phải coi lại cách sắp đặt ý tưởng và chữ nghĩa của mình thôi. Tất nhiên là có nhiều người không đồng quan điểm này, nhưng đành chịu vậy. Bởi thế, nếu hỏi mình là đi Mỹ hay về Mỹ, đi VN hay về VN, đi SG hay về SG ...v.v... thì mình thường trả lời không biết. Ăn thua khi nào nhận ra được  "nơi nao là chốn quê nhà" thì nhớ nói là "về quê", "về nhà" .... chứ đừng nói "đi quê", "đi nhà" là ngon lành rồi :-).

Thực ra, đôi lúc đi qua cửa khẩu di trú/hải quan sân bay mình có thoáng nghĩ qua chuyện "đi, về", bởi có một điều khác nhau nho nhỏ giữa quê ta và các nước khác. Ví dụ như khi đi qua cổng an ninh sân bay Mỹ, sau khi xét giấy tờ, họ chào mình "Welcome home" (chào mừng trở về nhà). Còn khi qua cổng an ninh sân bay VN quê ta, thì ngược lại rất căng thẳng và "hành sự", không hề chào hỏi nhau tiếng nào. Thầm nghĩ có lẽ họ không coi mình là người VN nữa rồi, có thể để dành những lời chào hỏi "Welcome home" ấm áp đó cho những người mang hộ chiếu VN chăng ? Hy vọng là vậy. Tất nhiên câu chào hỏi đó chỉ là một văn hoá lịch sự tối thiểu, chứ không thể làm nên cái "home", cái "quê nhà" trong lòng mỗi người. Ai cũng có một quê hương, ai cũng biết ơn đất nước đã sinh ra họ, nhưng bên cạnh đó chắc chắn họ cũng biết ơn những xứ sở đã từng cưu mang họ trong suốt cả một hành trình.

Còn đào sâu chi chiết đến chuyện tạ ơn, thì cả đời nói không hết chuyện, đúng sai ai biết ? Tục lệ là tục lệ, còn chuyện tranh luận người Mỹ tạ ơn ai, người Canada tạ ơn ai, người Do thái tạ ơn ai, người VN tạ ơn ai ... nói sao cho hết. Mà nói cho cùng thì đó cũng chỉ là quan niệm cá nhân hoặc quy ước chung của xã hội. Vậy mà trà dư tiểu hậu, năm nào trên mạng cũng có những tranh luận sôi nổi, nhưng hết hồi lại thôi. Hôm rồi mới về VN, ngồi uống cà phê với mấy đứa bạn cũ, có đứa trong nước, có đứa VK ngoài nước, cũng nói đến mấy đề tài này ....

Đứa thì cho rằng người Mỹ biết ơn người "native" bản xứ, nên ngày nay có nhiều quy chế ưu tiên đặc biệt đi làm đi học, có những khu "American Indian reservation" dành riêng cho người bản xứ. Còn VN ta, từ khi "giải phóng" miền Nam, thì không thấy người miền Nam ra Bắc sống, mà chỉ thấy người Bắc vào Nam lập nghiệp. Từ các tỉnh vùng núi cao nguyên, đồng bằng, hang cùng ngõ  hẽm, đâu đâu cũng thấy người Bắc xuôi Nam. Các dân tộc vùng núi, cao nguyên, làng quê hẻo lánh, đều cảm thấy đất đai xóm làng của tổ tiên lần hồi bị mất đi. Nhưng ngược lại không thấy quy chế ưu đãi gì, mà miền Nam phải chịu nhiều thiệt thòi, từ các công trình đường sá giao thông, cho đến các dự án trọng điểm, ngân sách cải tiến nông thôn ..v.v. Nhiều dân địa phương còn cảm thấy văn hoá ứng xử, tục lệ địa phương bị xâm phạm nặng nề. Thế thì họ phải tạ ơn ai ? 

Đứa thì cho rằng nhiều ông VK quanh năm sống với đời thực bên Tây bên Mỹ buồn tẻ, về VN vài tuần như cá gặp nước. Có nhiều người làm công chức, nhân viên bình thường ở nước ngoài, lãnh lương cần kiệm, cung cúc tận tuỵ. Mỗi năm về VN vài tuần, lên đời, sống ảo với chức này chức nọ, giám đốc giám điếc, hàm thứ trưởng, bộ trưởng, Nasa, Harvard .... Bạn bè, người thân, em út hâm mộ, mắt mũi tròn xoe, nói gì cũng nghe. Vậy họ phải tạ ơn ai ?

Đứa thì nói có nhiều ông quan chức bên VN hét ra lửa, chức này chức kia, hô hào vận động khí thế bừng bừng, rồi lại âm thầm sắm nhà sắm cửa hoành tráng bên Tây bên Mỹ, đưa con cái sang lập nghiệp chuẩn bị tương lai. Vậy họ phải tạ ơn ai ? 

Đứa thì nói mấy tuần nay theo dõi tin tức vụ án VTP bên nhà, cũng là hình thức "tạ ơn". Có người đưa bìa thư, có người gởi thùng xốp, nhưng có người được gọi là tiền cảm ơn, người khác lại bị gọi là tiền hối lộ. Vậy thì họ phải tạ ơn ai ?

.....vv và vv...

Thiệt là nếu ngồi nghe cả ngày thì vẫn không hết chuyện. Mình thì vốn quan niệm mỗi người đều có một vòng tròn tư duy dành cho riêng họ. Vòng tròn đó lớn hay nhỏ là tuỳ vào khả năng "nhận biết" của chính bản thân mỗi người. Thông thường thì ai cũng thấy vòng tròn của mình là to nhất, nên đại đa số đều hài lòng với mớ kiến thức của mình. (Tuy nhiên, đôi lúc sự đồng tình và ngộ nhận của những người chung quanh cũng vô tình tạo nên một số ảo giác sai lệch về kích cỡ của những chiếc vòng tròn vô tội đó). Và tất nhiên trong cuộc sống của mỗi chúng ta, sự biết ơn là vô cùng cần thiết, nhưng nó lại hoàn toàn lệ thuộc vào những chiếc vòng tròn tư duy lớn nhỏ ấy. Quy tắc ứng xử của mỗi người cũng vậy, đều dựa vào cái "biết" của họ, không ai giống ai, nên không cần thiết phải tranh cãi với nhau.

Hay là cứ quan niệm ơn nghĩa đời thường theo Du Tử Lê cho nhẹ nhàng :-)
...

ơn em, ngực ngải môi trầm
cho ta cỏ mặn trăm lần lá ngoan
ơn em, hơi thoảng chỗ nằm
dấu quanh quẩn dấu nỗi buồn một nơi .. (DTL)


Và cũng nhân nói đến chuyện ơn nghĩa, ham muốn, khổ luỵ, mình xin lấn sân qua chuyện kinh sách PG một chút. Không biết quý Thầy và các nhà nghiên cứu bên VN giảng giải như thế nào về nguồn gốc của phiền não & khổ đau. Nhưng kinh sách bên phương Tây thì chỉ nói đơn giản là do desire (ham muốn) và attachment (gắn bó). Còn ai muốn biết thêm chi tiết về 2 thứ này thì cứ hỏi bác Google là ra thôi, thông tin bây giờ có rất nhiều. Thực ra mỗi khi người Á đông nói đến "desire", thường chỉ nhắc đến chuyện hám danh, hám lợi, hám sắc ... chứ thực ra là còn rất nhiều thứ ham muốn khác nữa, kể cả chuyện ham được phước báu, ham muốn thành Phật, ham kiếp sau giàu có, ham kiếp sau thành vợ chồng ...v.v. Mà mấy chuyện này thì thực ra không ai có thể biết trước được, cũng chẳng có quan toà hoặc thần thánh nào hứa hẹn chuyện này cả. Đức Phật thì lại càng không thể hứa hẹn những chuyện ham muốn của con người, vì Người cho rằng chỉ có chính bản thân của mỗi người mới tự giải quyết được chuyện nghiệp lực của họ mà thôi. 

PG cho rằng có 3 nguyên nhân chính níu giữ con người lẩn quẩn trong cái vòng xoáy luân hồi của samsara (dục giới), đó là Kāma-taṇhā, Bhava-taṇhā, và Vibhava-tanhā. 

Nói một cách đơn giản nhất, Kāma-taṇhā là sự ham muốn những thứ khoái lạc, vật chất. Bhava-taṇhā là ham muốn trở thành cái này cái kia, thành ông này ông nọ, hoặc thần thánh gì đó. Còn Vibhava-tanhā là không muốn trở thành cái này cái kia, thứ này thứ nọ, ngược lại với Bhava-taṇhā. 

Ngẫm lại như bản thân mình vẫn còn ham muốn đủ điều, ngập lặn trong cơm áo gạo tiền mỗi ngày, nếu kể ra chi tiết thì cả đời cũng kể chưa hết chuyện. Cho nên chỉ hiểu được tới đâu thì hiểu, làm được tới đâu thì làm, mong giảm được thứ nào thì bình an thứ đó. Còn nhiều người rành rẽ cho rằng tạ ơn mà muốn được lại quả, làm thiện mà ham được phúc đức, nói bậy mà muốn người ta tin, làm bậy mà muốn người ta không biết, nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng mà muốn sống lâu trăm tuổi,.... thì cũng là những thứ ham cho có ham, muốn cho có muốn, chứ duyên nghiệp thì vẫn cứ thế mà xoay vòng theo quy luật nhân quả của tạo hoá :-). 

Thôi chắc cũng sắp tới giờ lấy con gà Tây ra. Thân chúc quý bạn bè, anh em, bằng hữu một ngày lễ Tạ ơn an lành, bình an và hạnh phúc cùng với gia đình. Mến chúc những người bạn bên VN một ngày mới tốt đẹp. Xin chân thành cảm ơn các bạn đã theo dõi blog này, và email trao đổi trong thời gian qua. Hy vọng mai mốt chúng ta lại có dịp trao đổi những đề tài mới mẻ và gần gũi hơn.

Thân mến,
PN