Showing posts with label Chuyện tào lao. Show all posts
Showing posts with label Chuyện tào lao. Show all posts

Saturday, October 04, 2025

Tản mạn: Tìm gì, ở đâu ?

 


Mới đó đã mùa Thu. Ngoài đường đã bày bán bí đỏ bí ngô, hoa cúc, đủ loại, đủ màu đủ sắc. Tuần rồi, có vợ chồng đứa em quen ở VN qua FL, ghé thăm. Thấy mấy chậu cúc "mâm xôi" ở nhà mình, hỏi thăm chưa tới Tết sao cúc đã trổ hết rồi ? Bên này cúc nở vào mùa Thu, chứ không phải mùa Xuân như ở VN. Mỗi nơi xuân về sẽ có những loài hoa trái khác nhau. Cho nên nếu hồi đó 3 ông Trịnh, Lâm, Ngân, mà ở Tây ở Mỹ thì bây giờ không có câu ca bất hủ " Mẹ ơi, hoa cúc hoa mai nở rồi". Tuỳ duyên là vậy :-).

Tán gẫu chuyện thời sự bên Mỹ cũng vậy, ông tổng thống hiện tại lên ngôi cũng được chục tháng rồi, chưa kể là trước đây ông cũng từng làm qua 4 năm tt nữa. Nên ít nhiều thì người ta cũng được nhìn thấy người thật việc thật, cảm nhận, hiểu biết thêm về tài năng lãnh đạo, và đạo đức tư cách của con người ông. Mình không muốn bàn đến chuyện tốt xấu, đúng sai ở đây, bởi mỗi người đều có tư duy, hiểu biết, và cái nhìn riêng biệt để suy luận. Ai cũng có quyền diễn đạt tư tưởng cá nhân, ai cũng có quyền chọn lựa đức tin cho riêng mình, và ai cũng cần có trách nhiệm với bản thân về sự chọn lựa của họ. Có điều mình tưởng rằng trong cuộc sống hàng ngày, một khi thiên hạ thấy biết một điều gì đó rõ ràng hơn, thì họ sẽ ít tranh cãi hơn. Giống như đã được thấy con voi rồi, thì không cần tranh cãi với nhau bộ phận nào to nhất nữa. Thế nhưng thực tế không phải vậy, nhìn lại cuộc sống chung quanh, những cuộc tranh cãi vẫn còn cứ tiếp diễn, sôi nổi và nóng bỏng. Tin thật tin giả, chính thống, nổi trôi, nửa gà nửa vịt, vẫn cứ đầy rẫy khắp nơi, trên mạng, quán cafe, quán nhậu, vũ trường, và ... quốc hội :-) .

Đôi khi mình cũng thắc mắc, cuối cùng thì con người thực sự tìm kiếm điều gì, và tìm ở đâu ? 

Có một nghịch lý tồn tại trong đời sống nhận thức của con người, đó là ai cũng nói rằng mình yêu chân lý, nhưng khi sự thật hiện ra, không phải ai cũng đủ can đảm để đối diện với nó. Bởi lẽ, con người thường không tìm kiếm sự thật, mà chỉ tìm kiếm điều gì khiến họ cảm thấy dễ chịu, an toàn, hoặc phù hợp với niềm tin sẵn có của mình.


Trong sâu thẳm tâm lý, mỗi người đều có một “bản đồ” về thế giới, một hệ thống niềm tin, định kiến, và kinh nghiệm được tích lũy qua thời gian. Khi đứng trước một thông tin hay hiện tượng mới, người ta thường vô thức so sánh nó với "bản đồ" ấy. Nếu nó khớp, ta dễ dàng chấp nhận; nếu nó trái ngược, ta lập tức phản bác, thậm chí né tránh. Chính điều đó tạo nên hiện tượng mà các nhà tâm lý học gọi là “thiên kiến xác nhận”. Con người có xu hướng chỉ tin những gì củng cố cho quan điểm của mình, thay vì thử thách nó bằng sự thật.

Nhìn quanh đời sống xã hội, ta thấy điều này diễn ra ở khắp nơi. Trong các cuộc tranh luận, người ta không lắng nghe để hiểu, mà lắng nghe để phản biện. Trong việc học hỏi, nhiều người chỉ chọn đọc những gì mình đã tin, và gạt bỏ những gì khiến mình phải suy nghĩ lại. Thậm chí trong tôn giáo, khoa học hay chính trị, sự thật đôi khi không phải là điều được tôn vinh cao nhất, mà là một "phiên bản của sự thật" phù hợp với số đông, với quyền lực, với "dao to búa lớn", hoặc với cảm xúc của con người.

Thế nhưng, sự thật thì không cần ai tin để trở thành sự thật. Nó tồn tại độc lập với niềm tin của chúng ta. Sự trưởng thành trong nhận thức bắt đầu khi con người dám đặt câu hỏi cho chính mình như : Điều ta đang tin có thật là đúng không ? hay ta chỉ tin vì nó khiến ta thấy dễ chịu? hay ta tin vì bạn bè ta tin như vậy ? hay ta tin vì ông giáo sư tiến sĩ kia nói vậy ? hay ta tin vì ông sếp ta cũng tin như vậy? hay ta tin chỉ vì quyền lợi? hay ta tin chỉ vì muốn chứng tỏ ..v.v..và ..v.v.

Thông thường người trí tuệ không tìm sự dễ chịu, mà tìm sự thật, dù đôi khi nó cay đắng, cô độc, hoặc khiến họ phải từ bỏ những điều đã từng nâng đỡ hoặc đem lại quyền lợi cho họ trước đây. Đức Phật cũng từng dạy rằng: “Đừng tin vì nghe truyền lại, vì thấy hợp lý, hay vì người đáng kính nói ra. Hãy tự mình quán chiếu để thấy đó là sự thật.” Câu nói ấy không chỉ là lời khuyên cho người tu hành, mà cho mọi ai muốn sống thật với chính mình. Bởi chỉ khi ta dám nhìn thẳng, vượt qua cái tôi và định kiến, ta mới có thể chạm đến điều chân thật trong thế giới, và trong chính lòng mình.

Carl Jung, một nhà tâm lý học nổi tiếng của thế giới, cho rằng sự thật không nằm ở một hệ thống tri thức tuyệt đối bên ngoài, mà ở sự đối diện trung thực với chính vô thức của con người. Ông nói con người không thật sự “tìm kiếm sự thật”, mà chỉ đi tìm những hình ảnh giúp họ duy trì cảm giác an toàn trong tâm hồn. Phần lớn chúng ta sống trong thế giới của ảo tưởng bản ngã (ego), tự cho rằng mình hiểu biết, trong khi những động lực sâu xa của hành vi lại nằm trong vô thức tập thể (collective unconscious), nơi chứa các biểu tượng, nguyên mẫu và bản năng nguyên thủy.

Với Jung, “sự thật” không chỉ là điều được lý trí công nhận, mà là sự hòa hợp giữa ý thức và vô thức, giữa cái mà ta tin và cái mà ta sợ. Con người chỉ thực sự chạm đến chân lý khi dám đối diện với “bóng tối” của mình, tức phần tâm lý bị che giấu, bị chối bỏ,  và dung hòa nó vào cái toàn thể. Ông từng nói: “Con người không được soi sáng bằng cách tưởng tượng ra ánh sáng, mà bằng cách làm cho bóng tối trở nên có ý thức.” Vì thế, với Jung, sự thật không phải là điều ta tìm thấy bằng tri thức, mà là điều ta trở thành khi dám nhìn sâu vào chính mình.


Từ xa xưa đến nay, trong cuộc sống hàng ngày luôn có những dị biệt, từ chuyện to đến chuyện nhỏ, từ thế giới quan cho đến nguyên tắc sống. Nguyên nhân không phải chỉ dừng lại ở sự khác biệt về trình độ, kiến thức, tôn giáo, hoàn cảnh ..... Mà thực chất là ở cái nhìn phiếm diện và cách hiểu chủ quan của từng người. Ví dụ như những năm gần đây, quan sát hiện tượng phân hoá và xung đột mâu thuẩn chính trị ở những nước dân chủ văn minh như Mỹ khiến người ta ngao ngán và thất vọng. Có lúc băn khoăn không biết ai nói đúng ai nói sai, hay là cả các bên đều nói dối, hay mạnh ai nấy hiểu, hiểu sai sự thật từ một vấn đề chung. Rồi dẫn đến bên nói gà, bên nói vịt, ai cũng cho mình tài, mình đúng :-) ? Thực ra cái căn bệnh "ta luôn đúng" này, thì vô cùng khó trị. Đó là căn bịnh ung thư đã di căn của nhân loại, không chừa một ai !

Theo thiển ý của mình, sự thật không bao giờ thuộc về kẻ cố bảo vệ quan điểm, mà thuộc về người đủ khiêm nhường để lắng nghe, đủ can đảm để thay đổi. Cho nên một số người thực hành sống tỉnh thức (mindfulness) thường cho rằng - chân lý không nằm trong sự khẳng định, mà nằm trong sự thức tỉnh ! 

Viết tới đây, bỗng nhớ đến một người, đó là Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (xin lưu ý, cái danh Thượng Sĩ này hình như là do vua Trần Thánh Tông kính trọng gọi Ngài, chứ không phải giống danh xưng "vô thượng sư" nghen :-). Nôm na, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (TTTS) là anh ruột của Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn.  Ngài cũng vừa là bác họ, vừa là cậu, vừa là Thầy của Phật hoàng Trần Nhân Tông (người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm của VN sau này).  


Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia, từng là một danh tướng, không xuống tóc quy y, không sống theo thân phận hoàng tộc, mà chọn con đường hòa mình vào đời sống bình dị, gần gũi với dân gian, nhất là với những người dân chài ven biển. Ở giữa đời thường, Ngài vẫn sống một cách tự tại, thong dong, dùng trí tuệ và tâm từ để chỉ dạy cho người đời. Chính vì vậy, nhiều người xem Ngài là một bậc giác ngộ giữa cõi nhân gian, người đã chứng đạo mà vẫn không rời thế tục.

Vua Trần Thánh Tông, vốn am hiểu sâu sắc giáo lý Phật giáo và hết sức cẩn trọng trong việc giáo dục con cái, rất kính trọng Tuệ Trung Thượng Sĩ. Chính nhà vua đã giao phó việc chỉ dạy thái tử Trần Nhân Tông cho Ngài, vị thầy vừa là người thân trong hoàng tộc, vừa là bậc đắc đạo giác ngộ, không màng danh lợi. Nhờ được dẫn dắt từ thuở nhỏ trong tinh thần ấy, sau này Trần Nhân Tông mới có thể vừa là một minh quân, vừa là một thiền sư khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo và đời.

Đến ngày nay, nhiều bậc thiền sư hiện đại như Thích Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ... vẫn thường trích giảng các bài pháp kệ trong “Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục”, xem đó là những viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng Thiền học Việt Nam. Không chỉ là những lời dạy về đạo, mà trong đó còn phản chiếu tinh thần nhân văn, trí tuệ và lòng từ bi của người Việt thời Trần, thời đại mà Phật pháp, văn hóa, và lòng yêu nước hòa quyện làm một.

Thời kỳ ấy không chỉ có những pháp thoại và thiền kệ sâu xa, mà còn đầy ắp những câu chuyện về lòng dũng cảm, sự hy sinh, tình yêu, và khí phách ngút trời của một dân tộc nhỏ bé ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông, đế quốc hùng mạnh từng chinh phục cả Á – Âu.

Điều đáng tiếc là cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một tác phẩm văn chương hay điện ảnh thật xứng tầm để tái hiện trọn vẹn vẻ đẹp tinh thần của thời đại huy hoàng ấy, thời của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Hưng Đạo, và Trần Nhân Tông... Trong khi đó, trên các kênh truyền hình đại chúng, phim dã sử và anh hùng giả tưởng của Trung Quốc, Hàn Quốc lại tràn ngập, khiến khán thính giả VN càng thêm khát khao được nhìn thấy hào khí Đông A của chính dân tộc mình được sống dậy trên màn ảnh.

Trở lại chuyện hành trình đi tìm "sự thật", Tuệ Trung Thượng Sĩ từng dạy:

“Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.”

(Tạm dịch: Hãy soi lại chính mình, đó là việc lớn lao nhất đời người, đừng mong ai khác chỉ cho mình thấy sự thật.)

Sự thật vốn không xa. Nó nằm ngay trong từng hơi thở, từng ý nghĩ, từng hành động. Nhưng bởi con người ưa tìm kiếm ở ngoài, nên càng tìm càng xa. Ta đọc sách, nghe giảng, chất chứa tri thức… mà ít khi dừng lại để lắng nghe sự thật trong chính tâm mình. Cái "biết" càng nhiều, thì cái "thấy" lại càng bị che lấp. Càng cố chứng minh rằng mình đúng, ta càng đánh mất khả năng nhìn thấy điều đang là !

Có nhiều người cho rằng những bậc trí tuệ không sợ sự thật, vì họ hiểu rằng sự thật không đến để làm tổn thương, mà để giải thoát. Còn những kẻ chấp ngã thì sợ, vì sợ mất đi cái khung hiểu biết quen thuộc, sợ rằng nếu một ngày nhận ra mình sai, thì mình là ai? Nhưng chính khoảnh khắc ta chịu buông cái sai ấy, cũng là lúc chân tâm bừng sáng, như mây tan để mặt trời hiển lộ. Ngài TTTS cũng từng dạy cho vua Trần Nhân Tông “Phật là tâm ông, ngoài tâm không có Phật. Tìm sự thật cũng vậy, ngoài tâm không có sự thật. Nếu tâm ta bị khuấy động bởi ưa ghét, thương giận, thì sự thật liền bị nhuộm màu theo cảm xúc ấy. Khi tâm lặng, sự thật tự hiển. Không cần tìm, cũng chẳng cần hiểu, chỉ cần thấy."

Nhớ ngày xưa, mình đã từng đọc những phần này. Đọc tới đọc lui, rồi nghi ngờ tự hỏi: Chân lý cao siêu lại có thể đơn giản đến thế sao?

Giờ thì đã lang bạt tha phương mấy chục năm, lăn lộn với cơm áo gạo tiền, tiêu nhiều hơn muối (mà cũng có lúc muối nhiều hơn tiêu 😊). Quay trở lại, cũng đọc những chuyện ngày xưa ấy, lại thấy… không còn gì để nghi ngờ nữa. 

Thế nhưng, lâu lâu mở YouTube, xem TV, nghe tin vịt, thấy người ta cãi lộn lung tung, vu khống, chụp mũ bên nọ bên kia trên mạng … thì tâm vẫn chưa thể "lặng" được. Rồi tự nhủ - Có lẽ con người thường đi tìm điều mình muốn nghe, chứ không tìm điều mình cần thấy. Mà chân lý sự thật thì vốn không sinh ra để làm vừa ý ai. Nó chỉ chờ một tâm hồn đủ tĩnh lặng để lắng nghe, đủ can đảm để buông bỏ cái biết cũ, và đủ khiêm nhường để nói là ... tôi chưa biết :-).

Thực tế thì đến một lúc nào đó, trí óc ai cũng trở nên già nua. Quy luật sinh, lão, bệnh, tử của vạn vật, chẳng ai tránh khỏi. Mình cũng vậy, có những lúc nhớ được một điều gì đó rất hay, nhưng lại không nhớ là đã từng đọc ở đâu, hay nghe ai giảng dạy. Ráng lục lọi ký ức mãi, không hình dung được, rồi lại bật cười: “Nhớ chi cho mệt. Ai nói thì cũng vậy thôi. Ông Phật, ông Chúa, ông xe ôm, ông vô gia cư, ông sư thầy, bà tiến sĩ giáo sư, hay một kẻ nghèo hèn khốn khổ nói, thì có gì khác nhau đâu ? Thực tế thì ai cũng có thể dạy mình !"

Quả nhiên là vậy, bằng cấp, vật chất, hay địa vị xã hội không bảo đảm được một trí tuệ (wisdom) thực sự, nhất là trong hành trình kiếm tìm sự thật của bản thân. Nhớ mang máng có ai đó đã từng dạy rằng: “Tìm kiếm sự thật không phải là gom nhặt thêm hiểu biết, mà là gột bỏ những lớp hiểu biết sai. Tu không phải là chạy ra ngoài tìm Phật, mà là trở về soi sáng tự tâm. Tu cũng không phải để trở thành, mà là để trở về. Một người có thể học cả ngàn kinh điển, mà vẫn chưa bước được một bước trên đường giác ngộ. Nhưng khi tâm đã an nhiên, lời và ý đều rơi rụng, thấy vạn vật như nó đang là, thì chỉ còn lại sự sáng biết (tánh biết) lặng lẽ. Lúc ấy, sự thật không còn là điều phải tìm, mà chính là ta đang sống trong nó, như con cá bơi trong nước, đâu cần hỏi nước ở đâu.”

Và mỗi lúc nhớ đến những lời dạy đó, mình thường nghĩ rằng - Đấy, chuyện chỉ đơn giản như vậy thôi, mà cả mấy ngàn năm qua, bao nhiêu kinh sách, bao nhiêu tông phái, bao nhiêu ông này bà nọ ...vẫn loay hoay đi tìm sự thật chưa ra, huống chi là kẻ phàm phu tục tử như mình :-). Mà quả nhiên là sự thật chưa từng ở đâu xa, chỉ vì ta không chịu nhìn vào chính mình, mà chỉ mải mê tìm kiếm hoặc chờ đợi từ nơi khác !

Và cũng biết đâu, trong câu chuyện Nỏ Thần của An Dương Vương – Triệu Đà ngày xưa, khi cụ Rùa Vàng (Thần Kim Quy) nói “Kẻ thù đang ở ngay sau lưng nhà ngươi", đó không chỉ là lời cảnh báo cho một vị vua, mà còn là thông điệp gửi lại cho hậu thế.

Bởi kẻ thù thật sự của con người không phải lúc nào cũng mang gươm giáo hay mưu mô, mà chính là những ảo giác, vọng tưởng và chấp niệm ta mang theo trong chiếc ba lô của hành trình cuộc đời mình. Chứ cũng chẳng phải lúc nào cũng có Trọng Thủy hay Mỵ Châu nào đó đâu. Chỉ có ta, với chính những bóng hình trong tâm tưởng mình. Tự biên tự diễn, vừa là người lữ hành, vừa là kẻ tự giăng bẫy rãi đinh trên đường đi 😊.

Thôi, lan man chút cho vui. Giờ đến lúc dọn vườn quét lá rồi. Chúc quý bằng hữu một cuối tuần an vui, hạnh phúc và tĩnh tại . 

PN
10/2025

Sunday, September 14, 2025

Tản mạn - Sân ga và những đoàn tàu ....

 


Hôm rồi ngồi kiếm vé xe lửa đi miền Trung chiều cuối năm. Thằng bạn thắc mắc hỏi: "thời buổi này người ta đi máy bay, xe hơi, chứ mấy ai còn đi tàu lửa ?" Thực ra cũng không nhớ là bắt đầu từ bao giờ, mình rất thích đi xe lửa và luôn có ấn tượng sâu sắc về sân ga & đoàn tàu. Có thể là lần đầu một mình rời làng quê cũng trên chuyến tàu lửa chăng ? Hay là thời còn đi học, những ngày bao cấp đói nghèo, những chuyến "phượt" ngang dọc trên những đoàn tàu chen chúc, cũ kỹ? Đến khi ra nước ngoài đi học đi làm, mình cũng khoái đi xe lửa. Nhớ hồi còn làm việc bên London, cuối tuần thường xuyên bắt xe lửa từ Wimbledon hoặc St Pancras chạy qua Gare du Nord bên Tây, ghé quận 13 ăn món VN, la cà cafe sửa đá, nghe nhạc Cung Tiến, Ngô Thuỵ Miên, TCS, Phạm Duy ...Ở châu Âu, đi EuroStar vừa tiện ích ngắm cảnh trời mây non nước, mà hút thuốc cũng dễ dàng :-). Sau này về VN làm việc, thì không cần phải đi đâu xa để nghe nhạc và ăn bún, ăn phở nữa. Nhạc thì karaoke của hàng xóm, kẹo kéo của đường phố đủ để đáp ứng mọi nhu cầu cần thiết. Thức ăn ở VN thì thôi khỏi bàn, chỗ nào cũng có đặc sản, con nào nhúc nhích được là "tươi sống". Thế nhưng, mình lại càng thích đi tàu lửa, đi để yên tĩnh, đi để đọc một cuốn sách, hay đi để suy tư một điều gì đó, hoặc có lúc chỉ đơn giản là đi để mà đi, chứ không phải đi để mà đến. Tối lên ga Hoà Hưng, làm vài lon bia hay chai rượu, con mực khô, dĩa lòng cánh gì đó, nghe nhạc, suy nghĩ mông lung, chợp mắt chút đã đến nơi rồi. Về quê cũ, gia đình không còn ai ở đó. Mượn chiếc xe máy của bạn bè chạy lòng vòng, lên núi xuống biển, thắp cây hương, ăn tô bún, làm vài chén bánh bèo gì đó. Tối về thị xã, rủ vài đứa bạn ra bờ sông ngồi vỉa hè, lai rai ngắm trời ngắm mây ... rồi đi. Vậy mà thấy vui !

Nôm na là những hình ảnh cũ của sân ga và đoàn tàu vẫn còn lưu luyến và dính mắc. Sân ga buổi sáng mờ sương, những dãy ghế dài còn vương hơi lạnh đêm qua. Người chờ tàu cầm trong tay tấm vé nhỏ, ánh mắt luôn hướng về đường ray như mong một tín hiệu báo tin quen thuộc. Từ xa, tiếng còi tàu ngân dài, âm thanh vừa dứt khoát vừa nôn nao, như nhắc nhở ai đó sắp bắt đầu một hành trình mới. Mỗi toa tàu như một ngôi nhà nhỏ, chở theo bao nhiêu mảnh đời, người đi xa học hành, lam lũ mưu sinh, người về quê thăm mẹ, người lặng lẽ ra đi mang theo những ngậm ngùi. Lên tàu, khung cảnh trôi qua không ngừng, đồng lúa bát ngát, sông núi mênh mang, làng quê nép mình dưới mái khói lam chiều... Sân ga cũng là nơi chứng kiến biết bao cuộc tiễn đưa, đoàn tụ. Những nụ cười xen lẫn giọt nước mắt, cái nắm tay níu lại phút cuối, hay cái ôm vội vã trước khi bước lên tàu. Mỗi lần tàu lăn bánh, khoảng trống ở sân ga lại rộng ra, để lại dư âm xao xuyến trong lòng người ở lại. Đôi lúc có cảm giác như nó đang nhắc nhở ta về hành trình đời mình, luôn gắn liền với những khởi đầu và sự trở về.

Có một nhà thơ miền Trung mà mỗi lúc nhắc tới sân ga là nhớ tới ổng. Đó là Vũ Hữu Định, tác giả của bài thơ "Còn chút gì để nhớ" mà nhạc sĩ PD phổ nhạc. Nhà ông ở gần ga nên có duyên nợ với những hành trình lang bạt. Ngày xưa mình rất thích bài thơ "Kẻ ở lại" của ông, cũng nói về ga & tàu, nhưng nghe rất "thiền". Và cũng chính sân ga & đoàn tàu đó, sau năm 75 lại trở thành một nỗi khát vọng của ông (Đêm nghe còi tàu). Thơ ông có nhiều uẩn khúc, rất đời thường, còn chuyện hay dở, thưởng thức được là tuỳ vào tâm trạng và hoàn cảnh của riêng mỗi người. 

Thời còn đi học, mình thường đi lang thang đây đó. Có lần đi "phượt bụi" với một ông bạn hiền ở SG. Ra tới Nha Trang là đã hết tiền, chỉ còn đủ mua vài trái xoài và vài xị rượu đế, uống để say rồi ngủ, chờ đến ga nào đó xuống. Đến ga gà, hai đứa leo xuống, vì nhảy tàu nên không có vé ra cửa. Tường rào sân ga có một cái lỗ "nhân tạo" để mấy người buôn lậu chui ra vào. Mình kêu anh ra bằng ngõ đó. Ông bạn mình thuộc loại gốc "tư sản mại bản" chính hiệu, nhất định không chịu hạ mình như thế. Mình nói - vậy anh ở lại đi tui đi trước nghen. Cuối cùng anh cũng ấm ức chui ra theo :-).

Rồi thời thế mấy chục năm không gặp. Khi mình trở lại VN, anh đã trở thành một đại gia tên tuổi. Lần đầu tiên gặp lại, anh kêu lính lác bạn bè đông đủ đế giới thiệu mình với họ. Câu đầu tiên anh giới thiệu với thiên hạ là: "Đây là người đầu tiên dẫn tui chui lỗ chó, và đó cũng là lần duy nhất". Mình cười hì hì - " Biết đâu nhờ lần chui "lỗ chó" đó mà ngày nay anh mới trở thành đại gia ?". Âu đó cũng là duyên, thoáng chốc đã qua mấy chục năm rồi, nhanh thật.

Mà chắc là mình cũng có duyên nợ gì đó với ga tàu, cứ lâu lâu lại có chuyện liên quan đến nó. Mình vốn quen một anh bạn VK, rất am tường về PG, đặc biệt là tình hình PG ở quê nhà. Anh từng đi nhiều chùa từ Nam ra Bắc, từ Á sang Âu, quen biết nhiều sư thầy nổi tiếng; chùa to chùa lớn, anh đều biết tất. Đôi lúc nói chuyện, anh chê trách mình không cập nhật tin tức, không chịu theo dõi ông sư này ông thầy kia giảng thuyết trên mạng. Quả nhiên đúng vậy, bởi mình rất ít quan tâm đến những chuyện "giảng thuyết" của các vị, lại càng lạc hậu về những tin tức thời sự và kiến thức tôn giáo như anh. Có lần anh hỏi mình "Hiểu sao về luân hồi ?". Câu hỏi hóc búa quá, mình trả lời - "Thì chắc cũng như đi xe lửa thôi. Muốn đi đâu đó thì mới mua vé đi, hết ham muốn thì không mua vé nữa. Vậy thôi!". Lần nữa, anh lại hỏi " Hiểu sao về thiền ?". Mình lại trả lời - "Thì chắc cũng như ra sân ga ngồi thôi. Nhìn những đoàn tàu đến, rồi đi. Tiếng còi tàu, tiếng tà vẹt, tiếng rao hàng, tiếng chửi lộn ...vang lên rồi tắt. Không chạy theo, không vẫy gọi, không chờ đợi, không mơ ước, không nhớ nhung, mà cũng chẳng coi ai là "ga nhỏ dọc đường"... Nhà ga thì vẫn ở đó, sân ga thì vẫn ở đó. Vậy thôi !". 

Thế là lâu nay, anh không thèm hỏi chuyện "đạo" với mình nữa :-)

Lần này hết chuyện đạo, sang đến chuyện đời. Cớ là mấy ngày qua nước Mỹ có một sự kiện thu hút nhiều sự chú ý của truyền thông và xã hội. Đó là một vụ ám sát kinh hoàng. Tất nhiên hành động ám sát dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều là bạo lực chính trị, cần được lên án mạnh mẽ. Nạn nhân là một thanh niên trẻ tuổi, quen thân với tổng thống Mỹ và các quan chức chính quyền đương nhiệm. Anh ấy thường có những cuộc diễn thuyết về quan điểm sống & xã hội của bản thân với giới trẻ HK. Sự ra đi của anh là một mất mát lớn cho gia đình và những người theo dõi ủng hộ anh ấy. Ông bạn VK của mình cũng gọi điện và tiếc thương cho một nguời trẻ tuổi có tài. Nói thêm chút, xưa nay việc bất đồng quan điểm là chuyện rất bình thường trong cuộc sống. Nước Mỹ tôn trọng quyền tự do ngôn luận, đưa lên hàng đầu. Con người sống trong xã hội văn minh cần tôn trọng sự khác biệt của người khác. Nếu không thích có thể tranh luận ôn hoà với nhau để tìm ra giải pháp chung. Ai cũng có quyền tự do diễn đạt ý kiến của mình. Không thể nào vì quan điểm khác biệt mà đe doạ, thậm chí giết chóc nhau, hoặc dùng bạo lực để cưỡng bức bịt miệng người khác. Bên cạnh đó, bất kỳ quốc gia nào cũng có những kẻ cực đoan cuồng tín, nên xã hội và con người cần phải tỉnh táo để không bị lôi cuốn vào vòng xoáy hận thù của thiểu số cực đoan đó. Thực ra thì trước đây mình cũng chưa từng được nghe một bài nói chuyện hoặc diễn thuyết nào của nạn nhân, nên cũng không có ý kiến gì, mà chỉ ngồi nghe ông bạn của mình nói là chính. Sau đó, mình có vào mạng để tìm hiểu, mới biết ra nạn nhân là một người trẻ cũng có tài tranh luận và có sức ảnh hưởng lớn với những người ủng hộ anh ta, đặc biệt là với vị tổng thống đương nhiệm và nội các đương thời. Ngoài ra, qua mạng mình cũng khá ấn tượng là có nhiều người Mỷ gốc Việt quan tâm đến chính trị phe phái đến vậy, hơn hẳn các gốc dân châu Á khác !

Nói đúng ra, thì cũng có rất nhiều người Mỹ chưa hề biết đến tên anh này, cho đến khi vụ ám sát xảy ra. Quả nhiên là vậy, vì không phải ai ở xứ này cũng quan tâm đến đảng phái chính trị, phe nọ phe kia, hoặc ông này bà nọ. Đại đa số dân Mỹ luôn tôn trọng pháp luật, tuân thủ nghĩa vụ đối với xã hội và quốc gia, quan tâm đến công việc làm ăn. Họ coi trọng cuộc sống vui vẻ cùng gia đình, theo đuổi những thú vui sở thich cá nhân, tham gia những sinh hoạt cùng bạn bè, và cộng đồng thân quen của họ. Ngoài ra, nhiều người có những lý tưởng sống cao cả, thiện nguyện, hy sinh cống hiến cho thế giới hoà bình, cho người khác, cho xã hội, cho cộng đồng, cho tín ngưỡng, cho môi trường, hoặc cho những giá trị cuộc sống khác nhau, chứ họ không nhất thiết phải để tâm đến chuyện đảng phái chính trị, tả hữu xanh đỏ. Đến ngày bầu cử, họ làm tròn nghĩa vụ công dân, đi bầu rồi xong, vui vẻ chấp nhận kết quả, chứ cũng không dành nhiều thời gian để cãi vả tranh chấp như những người mù sờ voi, làm cho gia đình, con cái, bạn bè, xáo trộn cả lên. Những lần bầu cử ở Mỹ, bạn bè gọi điện thoại hỏi thăm mình về ông này bà kia, làm mình kinh ngạc vô cùng. Ngay cả dân Mỹ chính hiệu cũng không phải ai cũng đi bầu cử, càng không phải ai cũng tham gia đảng phái, sinh hoạt chính trị họp hành. Xưa nay vị tổng thống Mỹ nào mà đắc cử được số phiếu tầm hơn 1/5 dân số (70 triệu), hoặc là trên 60% dân số thuộc diện đi bầu, là cao ngất ngưỡng rồi. 

Tuy nhiên mình ngạc nhiên là có nhiều VK, thậm chí cả những người ở VN lại biết "rành rẽ" về nạn nhân bị ám sát, về chính trường của Mỷ, còn hơn cả những bạn bè bản xứ của mình. Đáng phục hơn nữa là có một số đồng hương VK sống tại Mỹ, mặc dù tiếng Anh tiếng u chưa rành lắm, nhưng đã phân tích tình hình chính trị đảng phái, cánh tả cánh hữu, lập ra nhiều kênh Youtube truyền thông, hoặc đọc báo mạng rồi phát tán mạnh mẽ cho đồng bào trong và ngoài nước. Sự nhiệt tình và thông thạo của họ còn hơn hẳn những nhà phân tích chuyên nghiệp. Ngẫm lại, dân VN ta nhiều người có năng khiếu đặc biệt về chính trị. Dường như ai cũng có ước mơ được công nhận và những nhu cầu đóng góp thầm kín !

Trở lại câu chuyện chính, anh bạn VK hỏi mình suy nghĩ thế nào về chuyện phân hoá chia rẽ cánh nọ cánh kia như tình hình hiện nay ở Mỹ. Mình nói - Anh hỏi nhầm người rồi, nhưng chắc là cũng giống chuyện xe lửa ở bên nhà :-). Anh hoảng hồn - Lại là chuyện xe lửa nữa hả ?

Thực ra thì hình tượng sân ga và đoàn tàu gần gũi với mình, nên dễ liên tưởng hơn. Còn chuyện chính trị chính em, cánh nọ cánh kia, thì xa vời với mình quá. Nhớ lại lúc còn ở VN, có một thời, hình ảnh quen thuộc của đất nước là những đoàn tàu chậm rãi nối liền hai miền Nam Bắc. Mỗi chuyến tàu không chỉ chuyên chở con người và hàng hóa, mà còn chở cả những câu chuyện thầm lặng, một người con xa xứ trở về quê hương, một đôi vợ chồng trẻ vào Nam lập nghiệp, những đứa học trò nhà quê đi thi, hay cụ già tóc bạc lần đầu ra Bắc thăm lại cố hương... Những gương mặt trên tàu, dẫu xa lạ, vẫn mang chung một nhịp thở của hành trình xuyên Việt, nơi ký ức và hiện tại hòa quyện vào nhau. Đoàn tàu đi qua những miền đất quen thuộc, ruộng đồng mênh mông, eo biển rì rào, núi đồi xanh thẫm, rồi lại lướt qua những đô thị rực sáng đèn điện, hay những xóm nghèo chen chúc. Ngồi trên toa tàu, người ta thấy đất nước mình trải dài, vừa gần gũi vừa rộng lớn. Có lúc, chỉ cần nhìn qua ô cửa kính, ta đã thấy như đi qua cả một đời người, từ tuổi thơ hồn nhiên ở miền quê, đến những chặng đường đời gấp gáp của đô thị, và những giây phút lặng im trước biển khơi dạt dào sóng gió.

Những đoàn tàu ấy, khởi đầu và kết thúc, cũng chỉ là những đoàn tàu, mục đích duy nhất là để chuyên chở con người và hàng hoá từ nơi nọ đến nơi kia. Nhưng rồi để có sự nhận biết, người ta bắt đầu đặt tên cho nó, tàu Thống nhất, tàu SE1, SE2, SE3, tàu nhanh, tàu suốt, tàu chợ, tàu ra Bắc, tàu vào Nam. Lần hồi, bắt đầu có sự phân biệt. Ví dụ như - lợi nhuận buôn bán khác biệt giữa tàu này với tàu kia, khách tàu Bắc-Nam khác với khách tàu Nam-Bắc, khách tàu chợ khác với khách tàu suốt .v.v... Sự phân biệt cứ thế hình thành và phát triển ra nhiều hướng khác nhau. Dạo ấy, những đoàn tàu tiện nghi còn chưa được như bây giờ. Nghe nói đến một cung đường nhất định nào đó, mọi đoàn tàu đều phải dừng lại để xả phân thải từ các bồn cầu xuống đường ray, rồi đi tiếp. (Chuyện này không biết bây giờ còn không, mình không kiểm chứng được). Có lần, bị dịch bệnh gì đó, nhiều người bắt đầu bức xúc, phân biệt kỳ thị, phản đối, cho rằng mỗi ngày có hàng ngàn tấn phân từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc. Phân của đoàn tàu này này nguy hiểm hơn phân của đoàn tàu kia, phân này xấu hơn, phân kia lây bệnh, phân nọ thối hơn ....v.v...và v.v ... 



Tất nhiên con người thì cứ phân biệt và bôi xấu lẫn nhau như một đặc tính cố hữu, nhưng đoàn tàu thì vẫn lặng lẽ làm nhiệm vụ của mình. Mỗi người bước lên tàu đều mang theo một điểm xuất phát, một hoàn cảnh riêng, không ai giống ai. Có người từng trải, có kẻ non nớt; có người đi để đoàn tụ, có kẻ đi vì mưu sinh... Sự khác biệt ấy là tự nhiên, và đa số biết chọn cách dung hòa, thích ứng. Bởi lẽ, không ai có thể vì những dị biệt ấy mà chém giết nhau, hay mãi mạt sát nhau. Nhưng cuộc sống vốn chẳng lý tưởng vậy. Luôn có những người không chịu được sự khác biệt. Họ thổi phồng nó lên, khai thác sự non nớt, sự ngây thơ, để lừa lọc, để mưu lợi cho bản thân hay cho một phe nhóm nào đó. Ngay cả khi đang ngồi chung trên một chuyến tàu, họ vẫn không ngừng so đo, rỉ rả chê trách: rằng chuyến tàu vào Nam tốt hơn chuyến tàu ra Bắc, SE1 tốt hơn SE2, toa này sạch hơn toa kia… Người chửi cứ chửi, kẻ lợi dụng cứ lợi dụng, người ngây thơ cứ tiếp tục bị gạt gẫm. Và đoàn tàu, vẫn mặc nhiên lăn bánh, không phân biệt đúng sai, không phán xét ai cả.

Mình nói với anh bạn VK của mình: “Đó, những chuyến tàu ngày xưa khiến tôi liên tưởng đến đảng phái, đến lề trái lề phải trong một đất nước. Sự liên tưởng đó không hề nhằm phân biệt hay ám chỉ quốc gia nào. Bởi mỗi dân tộc đều có những giai đoạn thăng trầm, những lần vấp ngã, những bài học xương máu để trưởng thành. Câu hỏi đặt ra là - những người trong cuộc có nhận ra sự nguy hiểm tiềm tàng của vấn đề chia rẽ dân tộc hay không? Tôi tin là có. Nhưng liệu họ có vượt qua và thắng được chính tham vọng cá nhân của họ, để đặt lợi ích chung lên trên? Đó mới là câu chuyện lớn, và cũng là thách thức khó khăn nhất của bất kỳ quốc gia nào. Và cuối cùng phần quan trọng nhất, là ở những lúc đất nước bị chia rẽ hận thù như thế, người lãnh đạo có đủ tầm nhìn và khả năng lèo lái để hàn gắn và kết nối, hay ngược lại càng khoét sâu vào vết thương dân tộc?"

Anh nghe xong im lặng. Còn mình, bỗng nhiên nghĩ đến những câu thơ của Vũ Hữu Định ngày xưa ....

ngồi đường xe lửa chạy
gõ sắt buồn mênh mông
trước mặt ta biển lặng
sau lưng ta là rừng

mỗi ngày như chứng bệnh
ra ngồi nhìn đường tàu
hai con đường mút mắt
xuôi ngược buồn như nhau

ở đây không ai đi
ở đây không ai về
chỉ còn ta ở lại
lang thang ôm hồn quê

ở đây không còn nhà
chỉ còn ta với cỏ
còn những người dưới mộ
với lũ chim giang hồ

những ngày giặc không qua
ta đi tìm năm cũ
ngồi trên nền trường xưa
gỡ những màn rêu phủ

những ngày giặc không về
ta ra ngồi đường tàu
gõ sắt và đếm nhịp
so nhịp tim ta đau

những đêm vắng thật vắng
ta đi trong làng quê
tìm một con đom đóm
đốt sáng tình ủ ê ....
(VHD)

Thân chúc anh và bạn bè thân hữu một cuối tuần an vui .

PN


Sunday, August 17, 2025

Mạn phép trả lời ....



Vài ngày trước mình có viết bài phiếm "Loạn thế anh hùng" nhân dịp ông Trump và Putin hẹn gặp nhau ở Alaska. Viết cho vui thôi, nhưng nhận được nhiều phản hồi rất có giá trị và hữu ích từ các bằng hữu. Xin thành thật cảm ơn các bạn đã theo dõi và góp ý. Hôm này xin mạn phép trả lời một vài ý kiến của các bạn.

Trước hết có bạn hỏi: “Gặp mặt vậy thực sự có kết quả gì không? Giống như chủ đầu tư gặp cưỡng chế, mà không có chủ đất tham gia”. Thực ra cách ví von này cũng hay, nhưng không phải ai cũng hiểu được (mình biết trong này có nhiều bạn phải dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh để đọc). Theo thiển ý của mình, ở tầm cỡ quốc gia, với lực lượng cố vấn hùng hậu, tất nhiên việc làm nào cũng có chủ đích cả. Còn việc chủ đích đó có giống như bạn hoặc thiên hạ nghĩ hay không thì lại là chuyện khác. Mỗi người có cách hiểu và mục đích riêng của họ. Đại đa số nghĩ rằng cuộc họp mặt đó là vì hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Điều đó cũng hợp lý thôi, nhưng thực tế thì biết đâu mà lần, nếu có nắm rõ thì chỉ có người trong cuộc mới biết. Cho nên với câu hỏi “kết quả thực sự là gì?”, mình xin thưa là không biết, và cũng không thể gán ghép suy nghĩ của mình vào suy nghĩ của các vị kia được. Một số nhà phân tích thì dựa vào tính cách và tư duy, mức độ khả tín về những hứa hẹn xưa nay, hoặc "ngôn ngữ cơ thể" của 2 vị để đoán biết kết quả cuộc hội đàm. Mình thì không tin lắm về những đồn đoán như vậy, mà luôn cho rằng - kết quả bao giờ cũng là câu trả lời đúng nhất. Đợi thôi. Một bậc "thầy" đàm phán, một "thiên sứ" xuống trần, gặp một "cao thủ" đu bám, một "lãnh đạo tài ba" mà mấy chục năm nay không ai có thể thay thế, thì chắc là có nhiều chuyện hay để nói :-). Hy vọng hai bên đều có những mục đích cụ thể để theo đuổi. Nếu không thì vài bữa nữa lại có dịp gặp nhau ở Mạc Tư Khoa để nghe câu hò Nghệ Tĩnh :-).

Ngoài lề chút, ngày xưa trong binh pháp Tôn Tử có kế thứ 2 là "Vây Nguỵ cứu Triệu". Sau này nhiều quốc gia, nhiều nhà lãnh đạo thế giới, mặc dù không hiểu tiếng TQ, chưa hề ăn dim sum, hoặc chưa hề đọc binh pháp, nhưng vẫn thường xuyên xử dụng kế sách đó khi cần giải nguy hoặc chuyển hướng những tình trạng khẩn thiết như kinh tế nhức đầu sổ mũi, mâu thuẫn nội bộ, dư luận bất lợi ..etc.. Bởi vậy, chính trị chính em thì thiên biến vạn hoá, hư hư thực thực. Đoán mò hoặc gán ghép chỉ là vẽ rắn thêm chân, đôi khi còn tổn hại đến sự tỉnh táo của bản thân. Xưa nay nhiều sự kiện nhìn từ bề ngoài kết quả không giống như đám đông "mong đợi", nhưng lại là kết quả "mĩ mãn" dưới mục đích khác của người trong cuộc. Hoặc có khi đám đông tự suy diễn và đánh giá quá cao ý nghĩa thực sự của vấn đề, làm cho câu chuyện mặn mà thêm. Đó cũng là chuyện thường tình :-).

Kế đến, là ý kiến rất thú vị của một anh bạn khác, cho rằng "... Hai người tuy tính tình khác nhau, nhưng giống nhau ở chỗ là cả hai thiếu hẳn yếu tố “vị tha,” chỉ có yếu tố “vị kỷ” thôi. Một người muốn làm người được ngưỡng mộ nhất thế giới. Người kia muốn làm người quyền lực nhất thế giới. Cả hai đều vui mừng khi người khác sợ họ. Tôi chưa từng nghe nói đến một vị "anh hùng" nào có những đặc điểm đó..."
Rất cảm ơn anh về sự chia sẻ này. Đồng ý với nhận xét của anh, và muốn trao đổi thêm với anh về hai yếu tố “vị kỷ” và “vị tha”, theo cách nhìn riêng trong cuộc sống, chứ không nhất thiết liên quan đến vị lãnh đạo nào. Chắc hẳn mọi người đều biết vị tha và vị kỷ vốn là tính cách cố hữu của con người, kẻ ít người nhiều đều có. “Vị kỷ” thì dễ thấy, bởi thường gắn liền với tiền tài, danh sắc, quyền lợi cá nhân, nên ai cũng có thể dễ dàng nhận ra từ chính bản thân. Còn “vị tha” thì khó nhận ra hơn, vì ai cũng nghĩ mình cao thượng, dễ tha thứ, và giàu lòng nhân ái. Nhưng thực ra, nó gắn chặt với cái "ngã" bên trong, và con người rất dễ tự đánh lừa bản thân rằng mình “cao thượng”, "vị tha", cho đến khi gặp chuyện thử thách.

Tất nhiên, không ai vì làm vua, làm quan, mà tự nhiên trở nên “vị tha” hay “vị kỷ” hơn, trừ khi chính họ có sự tỉnh thức để nhận biết giới hạn bản thân, và thực hành sống buông xả. Tuy nhiên mình nghĩ, một người bản chất ham muốn quyền lực thì khó có thể tỉnh ngộ và buông bỏ như một người bình thường hoặc có chút tu tập. Có nhiều người khi hoàn cảnh thay đổi thì tính cách cũng đổi thay, có thể tốt hơn hoặc xấu đi. Nhưng một khi đã nắm quyền lực mà không có lòng vị tha, ích kỷ nhỏ nhen, thì quả thật là đáng sợ. Lịch sử xưa nay tuy không nhiều, nhưng vẫn có những nhân vật như thế, và họ để lại đầy rẫy hận thù, trả đũa, gieo rắc bất an, hơn thua nhau từng vấn đề nhỏ nhặt, trở thành nỗi sợ hãi, lo lắng cho nhiều người. 

Theo mình, một đất nước sẽ được bình yên khi có những người lãnh đạo giàu lòng vị tha, ít vị kỷ. Như VN thời Lý Trần, phồn thịnh an vui, vì có nhiều vị vua giàu lòng nhân ái. Trên trường quốc tế cũng vậy, khi những cường quốc có những nhà lãnh đạo tự trọng, khiêm cung, giàu lòng vị tha, thì thế giới sẽ có những năm tháng bình ổn, và phát triển thuận lợi. Nhưng cuộc sống này vốn vô thường, không thứ gì có thể tồn tại mãi theo ý muốn con người, và lịch sử luôn có những bài học đắt giá cần phải nếm trải!

Nhớ có lần ngồi chuyện phiếm, người bạn hỏi “Ngày nay, trên thế giới có còn lãnh đạo nào thật sự vị tha, nghĩ cho thiên hạ mà không vướng vào ích kỷ cá nhân không?” Mình chợt nhớ đến các vị như Gandhi, Mandela, Lincoln, Havel, Đức Đạt Lai Lạt Ma ... những con người từng không chọn con đường trả thù hay chém giết, mà chọn khoan dung, lấy tình cảm và trí tuệ để hóa giải hận thù. Họ được kính trọng vì đặt lợi ích dân tộc và nhân loại lên trên lợi ích cá nhân. Mahatma Gandhi (Ấn Độ), lãnh đạo phong trào độc lập, chọn con đường bất bạo động, vị tha và khoan dung, được cả thế giới kính phục. Nelson Mandela (Nam Phi), sau 27 năm tù tội, vẫn chủ trương hòa giải thay vì trả thù, tạo ra hình ảnh lãnh đạo không vị kỷ, hết lòng vì dân tộc. Abraham Lincoln (Mỹ), lãnh đạo nước Mỹ vượt qua nội chiến, chấp nhận hy sinh cá nhân để bảo vệ sự thống nhất và tự do. Václav Havel (Tiệp Khắc), nhà văn, nhà hoạt động, và trở thành tổng thống. Ông được tôn trọng vì tinh thần khiêm nhường, dùng quyền lực để củng cố tự do, dân chủ, thay vì mưu cầu lợi ích cá nhân. Havel từng nói: “Quyền lực có thể làm tha hóa, nhưng quyền lực chỉ thực sự có ý nghĩa khi phục vụ cho sự thật và con người. Đức Đạt Lai Lạt Ma (Tây Tạng), mặc dù sống lưu vong, bị TQ truy đuổi, Ngài trở thành biểu tượng toàn cầu của từ bi, khoan dung và bất bạo động. Ngài không tìm cách củng cố quyền lực cho riêng mình, mà dấn thân vì quyền lợi và văn hóa Tây Tạng, đồng thời kêu gọi hòa bình cho nhân loại..v.v.. Và chắc chắn còn nhiều vị lãnh đạo giàu lòng vị tha, thay vì vị kỷ và đam mê quyền lực, mà mình không nhớ hết.

Trong lịch sử VN, hẳn nhiều người không thể quên Hội thề Đông Quan. Sau bao năm máu lửa, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi soạn Bình Ngô đại cáo, tuyên bố giặc Minh đã thua, nhưng đồng thời lại cho phép họ rút quân về nước, giữ vẹn tính mạng. Đó không phải sự yếu mềm, mà là sự rộng lượng của kẻ mạnh. Tha cho hàng vạn binh lính đã từng tàn phá xứ sở này, chính là một chiến thắng lớn hơn mọi trận đánh, chiến thắng của lòng người. 

Trước đó, thời Trần chống Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo từng dặn dò vua và triều đình: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước chung sức thì giặc tự phải tan.” Ông hiểu rằng muốn thắng giặc ngoài, trước tiên phải hòa khí trong nhà. Đích thân ông còn tắm cho Trần Quang Khải, hóa giải hiềm khích để gắn kết nhân tâm. Ấy cũng là một dạng vị tha, dẹp cái tôi nhỏ bé để giữ cái đại nghĩa muôn dân. Và cũng trong nhà Trần, vua Trần Nhân Tông sau khi đánh thắng giặc, không sa vào quyền lực hay hưởng thụ, mà lui về Yên Tử, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm. Một vị vua vừa cầm quân nơi trận mạc, vừa gác bỏ ngai vàng để đi tu, để gieo hạt mầm an lạc cho dân. Đó chẳng phải là biểu hiện đẹp nhất của “vị tha” hay sao?

Nhìn lại, ta thấy những bậc anh hùng xưa đều hiểu rằng sức mạnh không chỉ nằm ở gươm đao, mà ở chỗ biết buông bỏ đúng lúc, biết lấy lòng nhân để thắng lòng người. Họ không vị kỷ, không chỉ nghĩ cho bản thân, mà chọn con đường để lại sự bình an cho cả một dân tộc. Họ không bao giờ cần ai phải sợ hãi, cũng không cần phải hiếp đáp ai, và càng không cần ai phải ngưỡng mộ mình. Ngày nay, chúng ta chứng kiến quá nhiều nhà lãnh đạo thích khoe cơ bắp, thích tiếng vang và sự ngưỡng mộ bề ngoài. Nhưng rồi cũng có những con người âm thầm làm điều nhỏ bé mà vĩ đại như một quyết định nhân đạo, một cái bắt tay hàn gắn, một sự nhún nhường để tránh đổ máu. Đó mới chính là những chiến thắng thật sự. Có lẽ, trong thực tại hôm nay, chúng ta cũng cần những “anh hùng” theo nghĩa ấy - không phải là người hô hào những lời lớn lao, mà là người đủ vị tha để đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Bởi đôi khi, thắng lợi lớn nhất của một quốc gia hay một cộng đồng không phải là chiến thắng đối thủ, mà là chiến thắng chính lòng tham và cái ngã của mình.

Cuối cùng, có một bạn hỏi: “Liệu những xung đột như thế này có thể dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba hay không?” Xin thưa, ai mà biết được! Cuộc sống vốn vô thường, cái gì đến thì sẽ đến, khi hội đủ những điều kiện nhất định nào đó. Đó cũng chính là khái niệm “duyên khởi” trong Phật giáo. Sợ hãi hay lo lắng vốn chẳng giải quyết được điều gì. Mặt khác cũng nên biết, xưa nay những ông vua chúa thích dựa hơi hù doạ lại thường là người yếu đuối nhất :-).

Một nhà lãnh đạo chân chính luôn đặt việc an dân của đất nước mình và sự bình ổn của thế giới lên hàng đầu, bởi họ đủ thông minh để hiểu rằng trong bối cảnh chính trị ngày nay, an ninh của một quốc gia không thể tách rời khỏi an ninh thế giới, cho dù quốc gia đó có mạnh mẽ đến đâu. Nhưng cũng có những người lợi dụng sự hoang mang, sợ hãi của dân chúng, để tạo vị thế và quyền lực cho bản thân hoặc lợi ích nhóm. Thậm chí, lịch sử không ít kẻ vì tham vọng cá nhân đã không ngần ngại tạo ra chiến tranh chết chóc, bất ổn xã hội, đổ nát hoang tàn, hoặc chia rẽ để chiếm đoat. Họ không những làm cho dân chúng trong nước hoang mang, mà còn làm cho trật tự thế giới xáo trộn. Và trò chơi quyền lực của các nước lớn xưa nay trên bàn cờ chính trị thế giới vẫn là những nỗi lo toan bất lực, thậm chí rất không công bằng đối với một số nước nhỏ.

Điều đáng nói là trong cuộc sống không phải ai cũng tỉnh táo để nhận ra chân tướng vấn đề. Đôi khi phải mất rất nhiều thời gian, thậm chí trả giá khá đắt, con người mới hiểu ra bản chất sự việc. Riêng mình vẫn luôn quan niệm - Đông hay Tây thì cũng thế, chiến tranh chỉ là sự tiếp nối của chính trị, mà cốt lõi của chính trị lại chính là lòng người. Kẻ nào nắm được lòng người, kẻ đó sẽ chiến thắng !

Còn thời buổi này mà muốn nghe thuyết âm mưu thì vô vàn. Nào là thuyết "quậy để trị", "chia để trị", "đục nước béo cò", "trong nồi ít gạo thì tạo chiến tranh", "phân chia lợi ích", "thừa nước đục thả câu, bán vũ khí làm giàu" ...v.v... Mấy chuyện này xưa nay nghe hoài, mình thường đùa rằng - thuyết âm mưu không biết đúng sai nhưng người có lợi nhất là mấy người bán rượu, bán bia, bán quán nhậu, và làm youtube ... :-) .

Thôi, xin tạm dừng ở đây. Chúc các anh chị em bằng hữu vui vẻ. Mời nghe lại một bài hát nổi tiếng của Michael Jackson :-)

PN



Thursday, August 14, 2025

Phiếm: Loạn thế anh hùng ...:-)

 


Chiều nay trời mưa lớn, khỏi tưới rau, mà cũng chẳng đi bộ được, ngồi nhà phiếm chuyện cổ kim cho vui. Hôm qua giờ, nước Mỹ có 2 chuyện quan trọng thu hút sự chú ý của các ông bạn già mình, đó là vé số độc đắc lên gần nửa tỉ đô, và ông Trump ngày mai đi gặp ông Putin. Thực ra, xứ này có đề tài để bàn luận là vui rồi. Nhưng nhiều người bàn bạc rồi nhập vai "sâu" quá, dính mắc vào đó, thêm mắm thêm muối, thành ra chuyện phe này phe kia, bên tốt bên xấu, mà dẫn đến rách việc. Còn chuyện anh hùng và thời thế thì thời nào chả có ?

Nhớ hồi nhỏ khoái coi truyện Tàu và kiếm hiệp. Thi cử mà không lo học, ngày tắm sông, bắt cá, đá gà, tối thuê truyện, hết bộ này đến bộ kia. May nhờ vậy mà bây giờ còn chuyện để nói :-). Phải nói một trong các giai đoạn lịch sử TQ mà mình mê nhất là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc, mê những nhân vật như Quỷ Cốc Tử, Khương Tử Nha (Lã Vọng), Quản Trọng, Nhạc Nghị, Thương quân Vệ Ưởng, Tôn Tử ..... Ngày xưa, những người được kính trọng thường vừa có tài vừa có đức, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để vì dân, vì xã tắc, thậm chí bảo vệ dân đen vô tội của cả nước đối địch. Bởi thế, nhiều người thời ấy được hậu thế tôn xưng như bậc thánh nhân. Bên cạnh tài năng và đức độ, những câu chuyện về tình bạn tri kỷ như Quản Trọng, Bào Thúc Nha vẫn được lưu truyền, khiến người đời khâm phục. Một Khương Thượng thà âm thầm 80 năm chờ đợi minh quân, còn hơn ra cộng tác với phàm phu vô đạo; rồi chỉ cần 20 năm đã gây dựng nghiệp lớn cho nhà Chu, diệt nhà Thương, mở ra thời kỳ thịnh trị, đặt nền móng cho nước Tề. Một Quản Trọng không màng lợi danh, vì lợi ích chung tiến cử người hiền, lấy kế sách hòa bình để yên dân, lo từng hạt thóc cho bá tánh. Một Nhạc Nghị tài ba, trung quân chính trực, tấm lòng trung hậu của ông được lưu danh hậu thế. Một Vệ Ưởng Thương Quân dám mạnh dạn cải cách, thiết lập nền pháp trị đầu tiên trong lịch sử, dù biết trước sẽ bị phân thây sau này. Và một Tôn Tử, thiên tài quân sự với tư tưởng chiến lược hơn chiến thuật, nhấn mạnh “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”, thậm chí thắng ngay trước khi giao chiến..v.v..

Không rõ các anh hùng nước ta sau này như Nguyễn Trãi và Trần Hưng Đạo có trực tiếp vận dụng binh pháp Tôn Tử hay không, nhưng tư tưởng và cách dụng binh của họ rõ ràng mang nhiều điểm tương đồng. Dù bối cảnh lịch sử khác nhau, nhưng cả Tôn Tử, Nguyễn Trãi, và Trần Hưng Đạo đều chứng minh rằng chiến thắng không chỉ đến từ sức mạnh quân sự, mà còn từ sự am hiểu con người và hoàn cảnh. “Biết mình biết người” không chỉ là nghệ thuật đánh trận, mà còn là bài học trong quản trị, thương thuyết và đời sống.

Thời Trần chống Nguyên-Mông, Trần Hưng Đạo áp dụng triệt để tư tưởng này. Ông đích thân tắm cho Trần Quang Khải để hóa giải hiềm khích, đoàn kết nội bộ lo việc nước. Trong chiến lược, ông nắm rõ ưu thế kỵ binh của quân Mông Cổ, điểm yếu khi bị cắt nguồn tiếp tế và bất lợi trong chiến tranh thủy bộ. Nhờ vậy, kế “vườn không nhà trống” và trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng đã nhiều lần đánh tan quân Nguyên.

Nguyễn Trãi, trong kháng chiến chống Minh, cũng hiểu rõ kỷ luật nghiêm ngặt và sức mạnh quân số của địch, đồng thời thấy được sự xa nhà, tinh thần sa sút và mâu thuẫn nội bộ của họ. Bằng Bình Ngô sách và chiến lược “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, ông cùng Lê Lợi vừa đánh vừa vận động binh sĩ và dân chúng, khiến quân Minh dần suy kiệt và phải rút quân. Đây là những minh chứng điển hình cho việc “thắng trước khi đánh”, tinh thần cốt lõi của “biết người biết ta”.

Tiếc rằng, Việt Nam chưa có nhiều tác phẩm văn học lịch sử quy mô và sức lan toả mạnh mẽ lâu bền như Tam Quốc Chí của Trần Thọ/ La Quán Trung, hoặc Đông Chu Liệt Quốc của Phùng Mộng Long/Dư Thiệu Ngư, để những câu chuyện ấy sống mãi cùng hậu thế.

Nói chuyện ngày xưa cho vui vậy thôi, chứ nếu các vị anh hùng đó sinh vào thời nay, không chừng lại mang hoạ vào thân. Anh hùng còn phải gặp đúng thời thế. Nhớ hồi nhỏ, nghe người lớn giảng giải mấy câu "Anh hùng tạo thời thế, thời thế tạo anh hùng". Mình thường không quan tâm lắm, cứ coi như chuyện con gà và cái trứng. Sau này lớn lên mới thấy nhiều ông "anh hùng" mà chẳng cần phải tạo ra gì, có khi chỉ cần phán lung tung, và có người tin là đủ :-). Những kiểu "anh hùng" như vậy vốn nhan nhản trong đời sống hàng ngày, đến rồi đi. Ngược lại, những anh hùng thực sự luôn thầm lặng hy sinh và cống hiến, mà không cần người khác tung hô xưng tụng. Từ những người lính cứu hoả, thầy cô giáo, binh sĩ, y tá bác sĩ, nhà nghiên cứu khoa học, cho đến những người công nhân, nhân viên vệ sinh ... ở đâu cũng có thể bắt gặp những khoảnh khắc anh hùng, cống hiến hy sinh, bảo vệ người khác bảo vệ kẻ yếu, hoặc mạnh dạn đấu tranh vì cái đúng, vì chính nghĩa. Tuy nhiên thời này ở một số nơi, những anh hùng thực sự mà sơ suất có khi còn bị cho đi “chăn kiến”. Ngay cả ở Mỹ bây giờ nhiều người còn e ngại sợ bị chụp mũ, kiện cáo, hoặc… trục xuất. Vì thế, ngày càng nhiều người chọn cách sống cầu an, chấp nhận và lặng lẽ, để tránh va chạm. Không biết đó là tín hiệu tốt hay xấu !?



Dĩ nhiên định nghĩa về “anh hùng” ngày nay cũng đã khác xưa nhiều. Hoàn cảnh đã khác, con người hiện đại dễ chạy theo hình thức và tin đồn, thật giả khó phân, nhất là trên mạng xã hội. Công nghệ phát triển tạo ra hai xu hướng rõ rệt, hoặc bị thông tin dẫn dắt, hoặc dẫn dắt thông tin, đôi khi vô tình, đôi khi có chủ ý. Nhũng người hiểu biết lý lẽ hoặc đạo pháp thì cố gắng thực hành sống tỉnh thức, không để ngũ uẩn thao túng tạo ra cái “ngã” và cái “biết” giả tưởng. Còn nếu chỉ nghe, nhìn từ bên ngoài, bị lôi cuốn vào dư luận thị phi, thì khó mà nhận ra ai thực sự yêu nước thương dân, ai chỉ mượn danh để mưu cầu lợi riêng !

Tuy nhiên cho dù quan niệm về anh hùng của ngày xưa và ngày nay có khác, cũng như triết lý sống giữa Đông và Tây có những điểm riêng biệt, thì tính chất căn bản vẫn tương đồng. Những người anh hùng thực sự luôn phân biệt được giá trị của cái chung và cái riêng, hy sinh lợi ích bản thân, vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì chính nghĩa, bảo vệ kẻ yếu, bảo vệ công lý, tôn trọng sự thật; đem lại sự an lành cho người khác, không cậy lớn hiếp bé, không ỉ mạnh hiếp yếu, hoặc hơn thua chuyệu tiểu tiết, gây mâu thuẩn bất an cho xã hội và con người. 

Nhưng thực tế thì không phải giá trị nào cũng được nhận biết và trọng đãi, mà còn phải tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác như hoàn cảnh xã hội và thời điểm thích hợp. Có nhiều tài năng kiệt xuất hoặc hoài bão lớn lao cũng chưa chắc có cơ hội để thực hiện. Nhớ mấy năm trước có anh nhạc sĩ vĩ cầm Joshua Bell, một trong những nghệ sĩ violin hàng đầu thế giới, từng biểu diễn ở các nhà hát danh giá với vé hàng ngàn USD. Một lần, theo thí nghiệm của tờ Washington Post, anh cải trang thành nghệ sĩ đường phố, đứng chơi violin tại ga tàu điện ngầm ở Washington D.C. Suốt 45 phút, hàng ngàn người đi qua, nhưng chỉ vài người dừng lại nghe, và tổng số tiền “khán giả” bỏ vào hộp chỉ khoảng 32 USD. Thí nghiệm này cho thấy ngay cả tài năng bậc thầy, nếu đặt sai bối cảnh và thời điểm, cũng không ai biết được giá trị của họ. Đúng vậy, và xưa nay đám đông chưa bao giờ đại diện cho trí tuệ, mà chỉ tượng trưng cho sức mạnh và xu thế tạm thời.

Tiếu lâm chút, ngày xưa Lã Vọng "câu cá" bằng lưỡi câu thẳng, bao năm ngồi câu đợi thời cơ thích hợp để ra thi thố tài năng, nên đâu bắt được con cá lăng cá lóc nào. Nhưng bây giờ VN ta có thương hiệu Chả Cá Lã Vọng, nổi tiếng và thành công. Hôm rồi mới đi Hà Nội, ghé ăn trưa, thấy bên đường quá nhiều quán gà với thương hiệu nổi tiếng "Gà Mạnh Hoạch". Hỏi thăm ông anh về lịch sử thương hiệu này, thì ra theo tích cũ thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng 7 lần bắt Mạnh Hoạch rồi tha, mãi cho đến khi thu phục được tay phiên tướng này. Ngẫm thấy hay, ông chủ quán gà bắt đầu dùng cái tên đặt cho quán của mình là "Gà tươi Mạnh Hoạch", và đồn rằng để có được gà ngon như vậy, gà phải được thả vườn rộng, ngày đuổi thả cho gà chạy 7 lần thịt mới săn chắc. Vậy rồi cũng có người tin, phát tán, và nổi tiếng !


Trở lại chuyện thời sự sốt dẻo bên Mỹ. Hồi còn vận động tranh cử, ông Trump từng hùng hồn tuyên bố nếu đắc cử sẽ “dẹp” chiến tranh Nga–Ukraine trong vòng 24 giờ. (Hồi xưa ở VN, có ông Đạo Dừa cũng phát biểu kiểu na ná như thế). Nhưng đời thường tréo ngoe, đã hơn 6 tháng trôi qua từ ngày nhậm chức, TT Trump vẫn theo đuổi giấc mơ hoà bình “24 giờ” ấy. Có khi lần này tt Trump còn được giải Nobel Hoà bình chứ chẳng phải dạng vừa :-).

Putin thì chắc cũng có giấc mơ riêng. Nhưng tới giờ chưa ai biết chắc là giấc mơ gì. Mấy năm trước, ông nói sẽ “giải phóng” Ukraine trong vài ngày. Giờ hơn ba năm, bom đạn vẫn dồn dập, bao sinh mạng mất đi, bao thành phố hoang tàn, nước mắt và hận thù chồng chất. Kết quả cuối cùng ra sao chưa rõ, nhưng chắc chắn một điều lịch sử khó gọi Putin là anh hùng.

Ngày mai, hai “anh hùng” thời đại sẽ gặp nhau ở Alaska, tt Trump gặp mặt "tội phạm chiến tranh" Putin, không có mặt tổng thống Ukraine, quốc gia nạn nhân. Nhiều người lo cho số phận Ukraine, nhưng cũng có người hy vọng vào “kỳ tích” kiểu anh hùng trọng anh hùng như chuyện cổ tích ngày xưa. Hôm qua, TT Trump tự tin tuyên bố “Chỉ cần 2 phút là biết Putin muốn gì”. Âu cũng là một dạng "biết người biết ta" của thời nay. Với quá khứ từng làm chủ sòng bài và tác giả "Nghệ thuật đàm phán", nhiều người tin rằng ông đủ kinh nghiệm nhìn ra “con bài tẩy” của Putin ngay lập tức .... :-).

Ngoài lề chút, mình có anh bạn lớn tuổi ở cùng thành phố bên Mỹ, mê thời sự đến mức anh kể từ hồi ở Việt Nam tối nào cũng ôm radio. Qua Mỹ, vẫn giữ thói quen “coi tin tức ăn mới ngon, ngủ mới yên”. Nhưng với anh, tin tức phải có hai phe rõ ràng: thắng–thua, tốt–xấu, chính–tà.... Anh thường đọc và chia sẻ tin tức từ những nguồn hợp với “đức tin” của anh, mà đôi lúc quên rằng ngay cả người gửi tin cũng có thể là nạn nhân của “tin vịt”. Cứ thế lâu ngày, tư duy nhị nguyên trở thành phản xạ, cái gì thuận anh thì đúng, nghịch anh thì sai, ít khi chịu khó tìm tòi thấu đáo sự thật vấn đề, hoặc phân tích đa chiều. Lần hồi, anh tự gán ghép bản thân đứng về một phía để "phòng thủ" hoặc "tấn công" cho thêm sắc màu, chứ thực ra anh cũng chẳng tham gia đảng điếc nào, mà cũng chẳng dính dáng đến chính trị chính em gì. Lâu lâu, không có người để tranh luận, anh tự tay phải tấn công tay trái như món "song thủ hổ bác" của Lão Ngoan đồng Châu bá Thông :-).

Hôm qua, anh gọi để chạy qua lấy bí đao về nấu canh cho vợ, rồi tiện thể bàn về cuộc gặp gỡ Trump–Putin, bức xúc so sánh lần gặp mặt này với vụ Nixon–Kissinger đi đêm với Trung Quốc năm 1972. Mình đùa "nhưng Kissinger và Trump là 2 đảng khác nhau mà, anh lo gì"? Anh im re. Hôm nay không thấy qua lấy bí đao luôn, không biết có giận hờn gì không :-).

Thôi, phiếm chút cho vui. Giờ tạnh mưa, đi bộ thôi. Chúc mọi người vui vẻ. Mai nhớ coi “Hoa sơn luận kiếm” nhé !

PN





Saturday, August 09, 2025

Tản mạn: Thời gian & trường cũ

 


Tháng trước, mình mới về quê thăm Má và bạn bè anh em vài tuần. Thời gian ngắn ngủi, đi lại nhiều nơi, quên cả ngày tháng, thoáng chốc đã đến ngày lên máy bay trở lại Mỹ. Ông anh đồng hương ra SG ăn tối tiễn đưa, dúi cho mình quyển sách để lên máy bay đọc, và tặng thêm chiếc áo in hình buổi lễ khai giảng 70 năm trước của ngôi trường trung học mà mình từng theo học. (Tất nhiên, ngày khai giảng ấy mình còn chưa ra đời. Mãi đến bao nhiêu năm sau đó, mình mới tập tễnh bước vào lớp Đệ thất cuối cùng). Bởi vậy "kiến thức" về ngôi trường ngày xưa phần lớn đến từ những câu chuyện được nghe đi kể lại của các thế hệ đi trước. Nôm na là những giai thoại về một ngôi trường trung học tỉnh lỵ, có hàng cây long não đầy ắp kỷ niệm và “truyền thống học giỏi”.

Mấy hôm nay, liên lục nhận được tin nhắn và hình ảnh từ các ông anh và bạn bè ở quê nhà, ngày hội lớn 70 năm thành lập trường. Tâm trạng rộn ràng, lấy cái áo ra mặc, nhưng cỡ lớn quá, chắc ông anh đưa nhầm size. Không sao, ngồi nhìn lại hình ảnh cái cổng trường in trên áo mà lan man nghĩ về thời gian và những ngày tháng cũ .... 

Mới đó mà mình xa quê hương đã hơn 45 năm rồi. Thỉnh thoảng cũng có về quê ghé thăm trường cũ. Hàng long não trong sân trường năm nào, giờ mỗi lúc già đi, nhưng âu đó cũng là quy luật thường tình. Thực ra thì bao nhiêu năm qua, bên cạnh những vị trí thường trực trên các phương tiện truyền thông của tỉnh nhà như núi Ấn, sông Trà, con cá bống, tô don (không vịt lộn) .v.v.. hàng long não cũng luôn đồng hành có mặt trên thi đàn của các thi sĩ nhạc sĩ "cây nhà lá vườn". Mới đây, mình thử nhờ AI viết một bài hát về ngôi trường TQT, và thật thú vị nó cũng “rinh” nguyên hàng cây long não ấy vào trong ca từ :-).

Còn nói đến “truyền thống học giỏi”, mình cho rằng đó chỉ là những cảm nhận mang tính chủ quan. Giỏi với người này chưa chắc đã giỏi với người khác. Đi dọc miền Trung, tỉnh nào cũng có những ngôi trường nổi tiếng “truyền thống học giỏi”, na ná giống nhau, như Quốc Học Huế, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Trần Quốc Tuấn, Nữ Trung Học, Quốc Học Quy Nhơn, Quang Trung, Cường Để, Yersin, Võ Tánh…v.v. Quan điểm giáo dục cũng vậy, có những điểm chung và có những nét riêng, tùy theo từng giai đoạn lịch sử và bối cảnh xã hội. Từ những nguyên tắc giáo dục “nhân bản, dân tộc, khai phóng” ngày xưa cho đến nền “giáo dục XHCN” ngày nay là cả một chặng đường dài, gắn liền với những đổi thay của đất nước và con người. Và tất nhiên là ở đất nước nào cũng vậy, tương lai của quốc gia dân tộc luôn được dựa trên nền tảng và giá trị của giáo dục học đường.

Trong sứ mệnh giáo dục ấy, những ngôi trường nhỏ bé vẫn âm thầm đóng góp giá trị bền vững nhất cho xã hội. Giá trị thực sự của một ngôi trường không nằm ở những thành tích được ghi trên giấy, mà ở khả năng nuôi dưỡng nhân tài qua từng thế hệ, góp phần thiết thực vào sự phát triển phồn thịnh của quê hương và hữu ích cho xã hội. Lịch sử thế giới xưa nay luôn khẳng định rằng "Nền móng vững chắc dựng nên ngôi nhà bền vững; hào khí dân tộc bồi đắp nên một quốc gia hưng thịnh hùng cường !"


Tuy nhiên, thời gian trôi qua cùng với những biến động của đất nước, các ngôi trường tỉnh lỵ cũng phải trải qua bao biến đổi thăng trầm. Có những bài hành khúc hào hùng một thời, hay những ca khúc đậm tình dân tộc, theo năm tháng dần bị quên lãng hoặc không còn phù hợp với bối cảnh mới. Nhiều giá trị “truyền thống”, “định nghĩa”, hay “nguyên tắc” có thể đã bị thời gian hoặc những yếu tố khách quan vô tình làm phai mờ, thậm chí ảnh hưởng đến mục đích chung ban đầu. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, ai cũng mong muốn những vướng mắc và ràng buộc không cần thiết sẽ được nhìn nhận lại và gỡ bỏ, để mang đến những luồng sinh khí mới cho thế hệ học sinh – sinh viên Việt Nam, nhất là trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn vươn mình, phát triển mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng với thế giới.

Thực ra, ai cũng mong muốn ngôi trường xưa và quê hương của họ ngày càng thay đổi tốt đẹp hơn. Thế nhưng, mỗi lần về quê họp trường, họp lớp, thì “ngôi trường” thật sự còn lại trong lòng mỗi người vẫn chỉ là một hình ảnh cũ kỹ thuở nào, nằm sâu trong ký ức, và gắn liền với những cảm nhận riêng biệt. Có phải đó mới chính là giá trị bền lâu nhất chăng ? Có lẽ vậy. Nhưng cũng chính những “giá trị bền lâu" ấy, những ký ức khó phai ấy, lại trở thành những dính mắc gắn bó trong cuộc sống của họ, nhiều hay ít. Mở ngoặc chút, theo quan điểm PG, nguồn gốc của mọi khổ đau (bất toại nguyện) đều bắt nguồn từ ham muốn (desire) và dính mắc (attachment). Vậy nên lỡ có dính mắc, thì dính .... vừa vừa thôi, cho đỡ nặng lòng 🙂

Cũng nhân nhắc đến chuyện thời gian, mình nhớ đến Einstein và thuyết tương đối. Ông ta cho rằng thời gian không trôi đều đặn như chiếc đồng hồ treo tường, mà co giãn tùy vào vận tốc và trường hấp dẫn. Nôm na là nếu bạn di chuyển rất nhanh, hoặc ở gần một vật thể có khối lượng lớn (như một hành tinh nặng), thời gian với bạn sẽ trôi chậm hơn so với người ở trạng thái tĩnh hoặc ở xa nguồn hấp dẫn. Đây gọi là "time dilation" (giãn nở thời gian). Hai người ở hai hoàn cảnh khác nhau sẽ có dòng thời gian khác nhau, một phi hành gia ngoài quỹ đạo sẽ già chậm hơn một người đứng trên mặt đất.

Còn dưới lăng kính của PG, thời gian cũng theo quy luật của vô thường. Mọi sự vật đều biến đổi, không có gì tồn tại mãi ở một trạng thái. Không chỉ vật chất, mà cả cảm xúc, ký ức, và chính nhận thức của ta về thời gian cũng thay đổi.

Điểm gặp nhau giữa hai quan niệm tưởng như khác biệt này là: thời gian không cố định, và cảm nhận về nó phụ thuộc vào nơi ta “đứng”, cho dù đó là hệ quy chiếu vật lý hay tâm thức con người. Với Einstein, thời gian thay đổi theo vận tốc và trọng lực. Với đạo Phật, thời gian thay đổi theo sự nhận biết và mức độ bám chấp của con người.

Bởi thế, khi trở về mái trường cũ, có thể nhiều người cũng cảm nhận được sự giao thoa này. Đại khái là thời gian vật lý dù đã trôi qua mấy chục năm rồi, nhưng thời gian của ký ức thì vẫn đứng yên, như chỉ mới hôm qua. Đạo lý "vô thường" nhắc nhở ta rằng mọi thứ sẽ đổi thay, nhưng thuyết tương đối lại cho ta lý do để tin rằng, trong một hệ quy chiếu đặc biệt của tâm trí, những khoảnh khắc đẹp vẫn có thể ở lại mãi mãi :-). Einstein cũng từng dùng một ví dụ dí dỏm để nói về tính tương đối của thời gian - “Khi bạn ngồi nói chuyện với một cô gái dễ thương trong một giờ, bạn cảm giác chỉ như một phút. Nhưng nếu bạn ngồi trên một cái bếp nóng trong một phút, bạn sẽ cảm giác lâu hơn cả một giờ. Đó là tính tương đối của thời gian". Và ông cũng từng thừa nhận rằng sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai “chỉ là một ảo tưởng, dù nó rất dai dẳng”. Nên thời gian không chỉ được đo bằng đồng hồ, mà còn bằng trải nghiệm và cảm nhận cá nhân. Một mùa hè thời thơ ấu, chăn trâu thả diều, tắm sông bắt cá, có thể dài bất tận. Trong khi đó, mấy năm trưởng thành lại trôi qua như một cái chớp mắt. Đi đây đi đó bao năm, về quê bước vào cổng trường cũ, ký ức lại ùa về nguyên vẹn như mới hôm qua. Ngôi trường hiện tại đã khác xưa nhiều, nhưng “ngôi trường” trong tâm trí thì vẫn ở đó, bất chấp mọi đổi thay của vật lý và đời sống. Nhưng hình như không phải chỉ có trường xưa, mà ... người xưa cũng vậy. Mình có quen biết nhiều ông anh Việt kiều, bao năm xa cách quê hương, luôn mơ ước, lặn lội về họp trường họp lớp để gặp lại người xưa. Rồi không biết có gặp được chưa, mà mấy năm nay ít khi nghe nhắc đến chuyện đó nữa :-) .

Tản mạn chút cho vui, chứ theo quan niệm của nhiều người thì thời gian đơn giản chỉ là những con số, một quy ước số học được đặt tên. Quả nhiên là vậy, tuy cùng một con số nhưng ý nghĩa thời gian luôn khác xa tùy theo cách sống của mỗi người. Năm tháng của một người trải nghiệm, dấn thân và cống hiến, khác hẳn với năm tháng của một người tự sướng, tự vỗ về để tồn tại. Thời gian của một người sống với mớ kiến thức vay mượn, lý thuyết "cao siêu", khác một trời một vực với thời gian của người sống trong tỉnh thức và thực chứng. Thời gian của những năm tháng tự do khác xa với thời gian của những năm tháng nhẫn nhục cam chịu. Thời gian của một người thèm khát danh vọng khác xa thời gian của một người sống tự tại buông xả ...v.v.  Bởi vậy có những kiếp sống ngắn ngủi nhưng trọn vẹn, để lại cho hậu thế bao giá trị đóng góp. Ngược lại, có những đời sống kéo dài trăm năm, nhưng khi ra đi cũng chẳng có gì để nhớ đến. Cho dù là ông này bà kia, chùa to chùa lớn, chức nọ chức kia, bằng này cấp nọ, mồ to mả đẹp… khi gặp “ông thần thời gian”, ai cũng phải ngả nón chào :-)

Tất nhiên, ở đây đang nói về cuộc sống đời thường, phàm phu, đầy rẫy ham muốn & dính mắc giống như mình. Chứ còn đối với các bậc trí tuệ, giác ngộ, hiểu rõ vô ngã, vô thường, thì mọi thứ chỉ là những điều kiện duyên khởi, đến rồi đi, chẳng có cái tôi cố định nào đứng đằng sau, nên chẳng có gì để dính mắc, mà cũng chẳng có ai để chứng minh, chứng đắc, hoặc ham muốn trở thành đấng nọ đấng kia.

À, bỗng nhớ đến một chuyện thú vị. Mình có anh bạn khá thân, từng dạy đại học ở nước ngoài nhiều năm, rồi về SG giảng dạy hơn chục năm trước, giờ an nhàn hưu trí ở Nha Trang. Cũng lâu lắm rồi, cách đây vài tuần mình mới gặp lại anh. Hai anh em ra vỉa hè, lai rai vài chai la-de, ngắm biển ngắm mây, nói đủ thứ chuyện rồi lan man sang Hermann Hesse: “Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này” (Und allem Weh zum Trotze bleib ich verliebt in die verrückte Welt). Vừa uống vừa cười nhớ lại một thời ngây ngô & đam mê... nhịn đói, suy tư & chờ đợi. (Siddhartha)

Và cũng rất tình cờ, hôm qua đang coi chương trình "Giấc mơ quê nhà" thì nhận được tin nhắn của anh từ Nha trang: "Rằm trên biển: Em về mấy thế kỷ sau. Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?”. Tuyệt !

Mình vốn biết mấy câu thơ này của Bùi Giáng từ trước, nhưng bây giờ nghe lại thì cảm thấy rất hay. Với anh ấy, chắc còn gì tuyệt vời bằng một đêm rằm trên biển, ngửa mặt nhìn trăng mà nghĩ đến "Mai sau em về". Còn mình, vừa mơ màng nhìn cái cổng trường cũ, vừa thắc mắc không biết đến lúc kỷ niệm 80 năm thành lập trường lần tới, có còn giống như hôm nay không? Đang miên man suy nghĩ bỗng nhận được 2 câu thơ của BG, giật mình tỉnh rụi. Câu thơ hay, hợp thời điểm, nhưng “rằng thưa khen nữa là thừa”. Có lẽ trong đời sống, ai cũng từng có những khoảnh khắc tâm trạng như vậy, đó là lúc những thứ đơn giản nhất bỗng quay quắt trở thành điều ám ảnh:

Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?
(Bùi Giáng)

“Màu ấy” là màu gì? Là màu nguyên thủy của trăng, hay là sắc màu của một khoảnh khắc cụ thể ? Và “màu ấy” của người này có giống “màu ấy” của người kia không ? Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ có câu trả lời giống nhau. (Trước hết, mình cũng chẳng dám áp đặt ý nghĩ của mình lên câu hỏi của Bùi Giáng, bởi biết đâu ông ta chỉ hỏi kiểu Sài Gòn Lục Tỉnh cho vui :-). Nhưng đời sống vốn đa dạng, từ quan điểm đúng sai, phải quấy, nhận định vấn đề, quan niệm học hành giáo dục, cho đến những chuyện nhỏ như họp trường họp lớp, tổ chức sự kiện, chương trình hát hò văn nghệ, ..v.v.. mỗi người đều có lý lẽ và cảm nhận riêng. Ai cũng có một cái “tôi” nhất định, mặc dù nhiều người chưa từng thực sự làm chủ cái “tôi” đó của mình. Nhưng dù "bản ngã" lớn hay nhỏ, nó vẫn luôn là “nhà độc tài” âm thầm quyết định mọi ý thức và hành vi của mỗi người. Bởi vậy, khi luận bàn một vấn đề gì mang tính công cọng hoặc lợi ích chung, mong đợi sự đồng thuận tuyệt đối quả là điều không dễ dàng chút nào. 

Trở lại chuyện màu trăng, ai cũng biết trăng trong thế giới tự nhiên thì luôn đổi thay, chẳng bao giờ giống nhau, dù chỉ cách nhau một giờ, một phút, huống chi là vài thế kỷ. Nên để trả lời “Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?” là những câu chuyện dài. Có người thấy trăng hôm nay vẫn y như xưa, nhưng có người lại thấy khác. Có người mong trăng sáng hơn tròn hơn, nhưng có người chỉ muốn trăng mãi giữ nguyên dáng vẻ thuở nào. Có người than rằng trăng nay không còn đẹp như thời hẹn hò mới lớn; lại có người quả quyết rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ. Có người bảo trăng của Bùi Giáng khác với trăng của Hàn Mặc Tử; lại có người bảo trăng dưới ao của Lý Bạch khác với trăng “khuyết nguyệt” của Tô Đông Pha...v.v

Rồi cũng có người cả đời mải ngắm ngón tay chỉ trăng, mà chưa từng thấy trăng màu gì. Và cũng có người cả đời chỉ biết đến vẻ đẹp của trăng qua chú Cuội, chị Hằng, hoặc qua thơ văn sách vở. Hoặc cũng có người chỉ nghe thấy trăng đẹp qua lời giảng giải của một ông giáo sư, tiến sĩ, một vị “cao tăng", hay "đại sư” nổi tiếng nào đó, mà chưa từng tự mình ngắm trăng một lần ! 

Đời sống là vậy, nhưng cũng biết đâu, chỉ một câu hỏi bâng quơ như vậy lại khiến ai đó đang nặng nề chữ nghĩa bỗng trở nên buông xả nhẹ nhàng, hoặc ít ra thôi không còn cuồng tín nữa. Hoặc biết đâu, từ câu hỏi “Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?” mà ngộ ra chân lý “nhìn sự vật như nó đang là”, để rồi phân biệt được cái nào thực, cái nào ảo, và không còn bám víu vào những “tin vịt tin gà” nữa. Âu cũng là chuyện hay :-).

Bởi thế, không ai có thể đoán được một hạt mầm ý niệm vô tình sẽ nảy sinh ra sao trong tâm mỗi người. Và xưa nay, những điều kỳ diệu trong cuộc sống thường bắt đầu từ những điều giản dị nhất.

Thôi, lan man chút cho vui buổi sáng cuối tuần. Chúc mọi người an nhiên, hạnh phúc.

PN

Sunday, March 16, 2025

Tản mạn - Tùy Duyên



Tuần trước, mình có dịp ghé thăm một người bạn vong niên, người Mỹ, sống ở Chapel Hill, một thành phố cách đây không xa lắm. Buổi ăn trưa kéo dài vài tiếng đồng hồ, ngồi nghe ông chia sẻ về văn học, ca dao dân ca Việt Nam. Dù là người Mỹ, nhưng sự am hiểu của ông về Hán văn và tiếng Việt luôn khiến mình kinh ngạc. Ông là giáo sư chuyên ngành Trung văn cổ đại, lại có năng khiếu đặc biệt về ngôn ngữ, nên khi trò chuyện bằng tiếng Việt hay các ngôn ngữ khác, ông luôn thể hiện sự sâu sắc và phong phú trong cách dùng từ, vượt xa những từ ngữ giao tiếp thông thường. Điều này thật đáng kính trọng.

Mình say sưa nghe ông diễn giải những mẫu chuyện từ thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Trung Quốc cho đến "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" của Nguyễn Đổng Chi, "Tục ngữ phong dao" của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc... Ngồi nghe mà cảm giác lạ lẫm, một người Việt nghe một người Mỹ phân tích kho tàng ngôn ngữ và văn hóa dân tộc mình. Thực ra, đây không phải lần đầu mình có cảm giác này. Mấy năm trước, khi nhận ra thư viện văn học đầy đủ nhất về Việt Nam lại nằm ở đại học Cornell (New York, Mỹ), chứ không phải là một thư viện trong nước hoặc của cộng đồng người Việt hải ngoại, thì mình cũng rất bất ngờ. Như thể phát hiện ra "Tàng Kinh Các" không ở Thiếu Lâm Tự vậy. :-)

Rồi tự an ủi rằng ngôn ngữ là tài sản chung của nhân loại, ai cần thì xử dụng, ai hiểu được giá trị thì gìn giữ. Đơn giản vậy thôi. Tham lam quá có khi lại như Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn, cả đời ẩn thân vào kinh điển của "Tàng Kinh Các" mà bị "tẩu hỏa nhập ma". Ngược lại, Vô Danh Thần tăng, suốt đời chẳng cần tên tuổi, không cần cạnh tranh với ai, chẳng dính mắc gì, chỉ lo quét lá, lau chùi, dọn dẹp, mà lại có thể hóa giải được mối hận thù truyền kiếp của những người tên tuổi lẫy lừng.

Nhắc lại, mình cũng từng hỏi ông bạn già E.H về việc dịch các tác phẩm lịch sử cổ đại Việt Nam như "Lĩnh Nam Chích Quái" và "Việt Điện U Linh Tập" sang tiếng Anh. Dẫu biết ông đã bắt tay vào công việc này từ lâu, nhưng không biết đã hoàn thành chưa. Mình lâu nay vẫn thắc mắc về việc đất nước ta vốn đầy rẫy nhân tài, thậm chí thặng dư, nhưng chẳng thấy ai dịch những tác phẩm này ra tiếng Anh. Nay lại thấy ông bạn già ngoại quốc miệt mài làm việc này, nên mình thường đùa rằng ông "mắc nợ" dân Việt Nam. Tuy nhiên cũng có chút xấu hổ vì bản thân bất tài, không giúp ích được gì, nên thỉnh thoảng mời ông uống cà phê, hỏi thăm có cần hỗ trợ gì không. Nhưng lần nào ông cũng chỉ trả lời gọn lỏn: "Không, tôi đã có tất cả, chỉ thiếu thời gian!". Mình biết ông bận rộn với bao công trình dịch thuật khác, từ văn học, âm nhạc đến nghiên cứu văn hóa, nên thôi, coi như tuỳ duyên vậy. Cái gì đến sẽ đến, lâu lâu ghé thăm, mời ly nước bữa trưa, cũng là cách trả ơn "vác ngà voi" cho ông :-).

Dù vậy, mình cũng từng tự hỏi, liệu có bao nhiêu người VN hiện nay biết đến hoặc quan tâm đến những tác phẩm như "Lĩnh Nam Chích Quái" hay "Việt Điện U Linh Tập"? Nhớ có lần xem chương trình "Ai là triệu phú" ở Việt Nam, có câu hỏi về "Tự Lực Văn Đoàn". Người chơi trả lời là một gánh hát cải lương, và cô ấy hình như là giảng viên đại học. Nghe mà rụng rời, nhưng đó lại là chuyện "thường ngày ở huyện". Thực ra, chữ nghĩa, văn hóa, văn chương ngày nay đã khác nhiều so với trước. Tất nhiên, ai cũng có giới hạn và phạm vi hiểu biết của riêng mình. Nhưng nguy hiểm hơn cả là sự truyền tải sai lệch thông tin, vô tình hay cố ý, dẫn đến những hiểu lầm và suy diễn sai trái trong cuộc sống. Ngôn ngữ bị lạm dụng, khái niệm bị đánh tráo. Phương tiện truyền thông ngày nay quá đa dạng và tiện nghi, dễ dàng tạo ra sự hỗn độn khó phân biệt đúng sai. Đặc biệt trong các vấn đề tôn giáo và văn hóa xã hội, nơi lòng tin được hình thành và nuôi dưỡng, lại bị chi phối quá nhiều bởi lợi nhuận và vật chất, hình tướng, dẫn đến tâm lý nghi ngờ, hoang mang, sinh ra nhiều nghi vấn và thất vọng trong xã hội. Ngày càng nhiều những hiện tượng cuồng tín, chia rẽ, a dua, công kích, hận thù... xảy ra trong đời sống. Nhưng lại hiếm hoi những sự quan sát độc lập, phân tích khách quan, sáng suốt, trung thực dựa trên sự thật. (À, mà nếu có, chắc gì thiên hạ lại chịu nghe :-)). Tất nhiên lâu nay, "đám đông" (mặc dù không phải là đa số) và các ứng dụng công nghệ, luôn là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến những hiện tượng này. Mà một khi nói đến hiệu ứng của dư luận, lời đồn, hoặc tin tức nghe ngóng từ 'đám đông", thì ôi thôi tây ta gì cũng thế, muôn hình vạn trạng. Đơn giản từ một cuộc bầu cử cho đến những sự kiện cuồng tín vô căn cứ, tạo ra công kích và chia rẽ hận thù, đều xuất phát từ những nguyên nhân sâu xa giống nhau, mặc dù hình thức có khác. Albert Einstein có câu "Just because you believe in something does not mean that it is true". (Tạm dịch: Anh tin vào điều gì đó không có nghĩa đó là sự thật). Trong lịch sử nhân loại xưa nay, đám đông không phải lúc nào cũng đại diện cho trí tuệ, nhưng sức mạnh và hệ lụy của nó tạo ra lại vô cùng nguy hiểm. Ông Mark Twain cũng có một câu rất nổi tiếng là "Whenever you find yourself on the side of the majority, it may be time to stop and reflect". (Tạm dịch: Khi nhận ra mình đang đứng về phía đám đông, thì nên dừng lại và chiêm nghiệm lại vấn đề). Nhưng thực ra nếu cứ khăng khăng cho mình là đúng, tự hào là “đỉnh cao” của nhân loại, thì dù có chiêm nghiệm bao nhiêu cũng chẳng ích lợi gì!



Trở lại đề tài chính mà mình và ông bạn già trao đổi hôm trước, đó là nhân duyên. Mình và anh bạn đều cho rằng mọi thứ có được, hoặc thành tựu trên đời, từ lớn đến nhỏ, đều do "nhân & duyên" (causes & conditions), chứ không phải do bất kỳ thiên tài hoặc vĩ nhân nào một mình có thể tạo ra. Mọi thứ sinh ra đều do duyên khởi, lệ thuộc vào nhiều yếu tố cần thiết khác nhau. Và tất cả các sự vật luôn biến đổi (vô thường), có sinh tất có diệt. Cho nên cũng chẳng có gì cần phải ầm ĩ, xưng tụng cho lắm :-). Thực ra ngay từ buổi sơ khai của vũ trụ, Big Bang cho đến giai đoạn các loài sinh vật hình thành, thì nguyên lý vô thường và duyên khởi đã tồn tại. Nghĩa là trước khi thái tử Tất Đạt Đa ra đời hàng ngàn triệu năm thì "nhân & duyên" đã hiện diện ở thế giới này. Những quy luật nhân quả, vô thường, luôn chi phối vạn sự, vạn vật trong vũ trụ, xưa nay không có ngoại lệ. Và ngày nay khoa học hiện đại cũng chứng minh rõ ràng điều đó. Tuy nhiên, cho đến thời kỳ Đức Phật Thích Ca xuất hiện, Ngài mới bắt đầu giảng thuyết về những chân lý sự thật trong đời sống, chỉ ra những nguyên lý vận hành tự nhiên của vô minh tham ái, sinh tử dính mắc, để hướng dẫn chúng sinh thực hành tự tìm đến con đường giải thoát. Từ đó về sau, trong các kinh điển truyền thừa PG thường nhắc đến những tư tưởng và từ ngữ như vô thường (impermanence), nhân quả (cause & effect), nhân duyên (causes & conditions), duyên khởi (causation) .v.v.. Bởi vậy có một số ít người hiểu lầm cho rằng đó là những sản phẩm của đạo Phật tạo ra. Thực ra thì không phải vậy, đó là những chân lý sự thật của vũ trụ. Cho dù Đức Phật chưa hề xuất hiện ở thế gian này, hoặc Ngài chưa hề thuyết giảng về những điều đó, thì những chân lý đó vẫn tồn tại và vận hành như vậy. Bạn có thể không tin nhân quả, không tin vô thường, nhưng quy luật nhân quả và vô thường thì vẫn cứ vận hành đúng theo chiều hướng mà nó phải vận hành. Nôm na, những người hiểu chuyện thường cho rằng đó là cách vận hành của "pháp".

Ví dụ, một ông xây được cái nhà, là do hội đủ nhiều điều kiện như tài chánh, thợ thầy, thiết kế, gạch, đá, xi măng, vợ chồng đồng thuận, đền bù giải tỏa êm thắm ..v.v...hoặc lung tung gì đó. Một đứa con học được ra ông này bà nọ, là do cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng, do thầy cô, bạn bè, xã hội, ông bán hủ tíu, bà bán xôi, người phu trường, cái ăn, cái mặc .... Một ông lãnh đạo được thăng quan tiến chức, quyền cao chức trọng, thì cần phải hội đủ nhiều điều kiện hơn, phải nhờ vào quần chúng nhân dân, nhờ thuộc cấp làm việc hiệu quả, nhờ quan hệ bạn bè, nhờ sếp chiếu cố, nhờ vợ con ủng hộ…Một ông sư đi bộ bao năm bỗng chốc nổi tiếng, là ngoài công phu rèn luyện bản thân còn phải đủ duyên với các yếu tố khác như nhờ có Youtube, nhờ có các Youtuber đa thành phần, hổ lốn đúng sai, nhờ TV, nhờ smartphone, nhờ những người có thời gian theo dõi và truyền tải, nhờ những người hám danh hám lợi làm tấm gương phản chiếu, nhờ có người lạy lục đu bám, nhờ có những người tin vào công đức ...v.v..và v.v. Nhưng quan trọng nhất là nhờ pháp tu khổ hạnh Dhuta (đầu đà) của các vị Tổ ngày xưa truyền lại. Tất nhiên nếu có một ông sư khác cũng tu khổ hạnh y chang như vậy, hoặc giả phẩm hạnh căn cơ tốt hơn, hoặc ăn nói hay hơn, cũng chưa chắc gây được những sự chú ý như thế. Bởi vậy mới nói là do nhân duyên khác nhau, tùy duyên tạo tác. Những bậc giác ngộ, hoặc người thấu hiểu được các nguyên lý duyên khởi, vô thường, thường chọn lối sống trí tuệ, không khoe khoang, không xưng công trạng, không dính mắc, không ngã mạn, không đề cao bản thân (vì hiểu có được là do nhân duyên), và không bám trụ vào những thứ mà người đời cho là "bất di bất dịch". Nhớ hôm gần Tết, mình hỏi đứa con "Con thấy nhiều người quỳ mọp lạy mấy tu sĩ xin rờ chân, rờ đầu, nghĩa là họ đang lạy ai ? Lạy ông sư đi bộ, hay lạy Hạnh đầu đà của Ngài Ca Diếp ? Họ lạy để được phước báu công đức, lạy để thể hiện sự tôn kính nhà sư, hay lạy vì tỉnh thức giác ngộ ? Người đến chùa chắp tay lạy một chú tiểu quét chùa, là lạy chú tiểu, lạy Tam Bảo, hay lạy chính bản thân họ ?". Đứa con sinh ở Mỹ, trả lời, làm mình ngạc nhiên !

Nhớ có lần mình được nghe một bài giảng pháp của HT Thích Thanh Từ nói về "chữ KHÔNG trong kinh Bát Nhã". Rất hay, và rõ ràng là để hiểu được chữ "KHÔNG" đó một cách đúng đắn, cần phải hiểu biết về thuyết nhân duyên. Nếu không e rằng lại nhầm lẫn giữa "emptiness" (tánh không) và "nothingness" (không có gì). Nói đến đây bỗng nghĩ đến một bài thơ xưa rất hay của thiền sư Từ Đạo Hạnh thời nhà Lý.

Hữu không

Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thuỷ nguyệt,
Vật trước hữu không không.
(Thiền sư Từ Đạo Hạnh)

Tạm dịch:

“Có” thì hạt bụi cũng có
“Không” thì thế giới thảy đều không
Có, không, như ánh trăng dưới nước
Đừng bám hẳn vào cái có, cũng đừng cho cái không là không.
(Từ Đạo Hạnh thiền sư)

Thế nhưng trong cuộc sống thì không phải ai cũng hiểu được những nguyên lý này. Thậm chí có ông leo lên đến hàng lãnh đạo của những quốc gia hàng đầu trên thế giới, mà vẫn sáng nắng chiều mưa, đụng đâu cũng bi bô về cái tôi "vĩ đại". Thông thường thì những người đề cao bản thân thái quá, cũng là những người đổ thừa cho người khác nhiều nhất khi thất bại hoặc bị bế tắc. Họ hiếm khi biết nghĩ cho người khác, vì thực sự họ không quan tâm ai hơn cái "tôi" của họ. Một nhà lãnh đạo tài ba, nhìn xa trông rộng, là người tạo được sự đoàn kết đồng lòng, chứ không phải tạo ra chia rẽ hận thù. Nhưng âu đó cũng là nhân duyên, ai cũng phải có những bài học cho riêng mình để trải nghiệm. Và quốc gia dân tộc cũng vậy, đất nước nào cũng cần phải có những "vận nước" cần thiết để học hỏi và trưởng thành. Mình nghĩ vậy. Thôi xin tạm dừng nơi đây, chúc quý anh chị và bạn hữu một ngày chủ nhật an vui hạnh phúc cùng gia đình.

PN (03/2025)




Monday, September 25, 2023

Tản mạn: Chuyện chữ nghĩa ...

 



Tối qua, chat với mấy ông anh bên VN về một vài từ ngữ trong thi ca và kinh sách PG. Rất thú vị. Hôm nay muốn viết chút ít về đề tài này cho vui :-). 

Trong những năm gần đây ở VN có vài từ ngữ được xử dụng khá nhiều, từ việc để trang hoàng nhà cửa cho đến việc diễn thuyết trước công chúng. Đó là chữ Tâm và chữ Nhẫn. Đi đâu cũng thấy những bức hoạ thư pháp có 2 chữ này. Rồi trong các bài báo, các bài diễn văn, cũng thường xuyên nhắc đến chữ "tâm", chữ "tầm", như một nguyện vọng khát khao về những điều hiếm hoi hoặc chưa có trong xã hội.

Riêng mình thì lâu nay vẫn luôn quan niệm chữ nghĩa, từ ngữ, chỉ đơn thuần là những công cụ để giao tiếp hiệu quả và dễ dàng hơn. Còn bằng cấp thì dẫu ở quốc gia nào cũng vậy, cho dù trong nước hay ngoài nước, cũng chỉ thể hiện được một mớ kiến thức nhất định về mảng chuyên môn nào đó (nếu có), chứ không thể bảo chứng trí tuệ của chủ sở hữu. Còn nói đến địa vị hoặc chức vụ, thì lại càng khó hơn để dựa vào đó mà bảo đảm cho một cái "tâm", cái "tầm", theo nghĩa tích cực của con người và xã hội mong đợi. Cho nên mình không dám lạm bàn về phần "đời" của các từ ngữ này, mà chỉ mạn phép nói về một vài ý nhỏ trong kinh sách PG theo cách hiểu của mình, bởi chữ "Tâm" trong thơ ca có phần khác với chữ "Tâm" trong đạo Phật.

Trước hết, có lẽ nhiều người VN lâu nay đều nghe hoặc biết đến ngài Lục tổ Huệ Năng (TQ). Tương truyền rằng, ngài Huệ Năng vốn sinh ra trong một gia đình nghèo, lao động cực khổ, không được đi học, nên không biết chữ. Thế nhưng một hôm có duyên nghe lóm được câu "Ưng vô sở trụ sinh nhi kỳ tâm" trong Kinh Kim Cang, mà khởi tâm lãnh ngộ, tầm sư học đạo, và cuối cùng trở thành ông tổ thứ 6 của Thiền Tông TQ. Đại đa số các chùa chiền và dòng tu Bắc truyền ở VN bắt nguồn từ dòng Lâm Tế, nên chắc chắn là ai cũng biết đến ngài Lục Tổ. Ngoài lề chút, thân xác của ngài Huệ Năng sau khi chết (713 sau CN), vẫn còn lưu giữ và tồn tại hơn ngàn năm nay tại chùa Nanhua Temple, Caoxi TQ, mặc dù không hề theo một công nghệ ướp xác nào. Câu chuyện có vẻ hoang đường nhưng đó là sự thật. Mãi đến năm 1960, cuộc cách mạng văn hoá TQ đã tìm cách phá huỷ các di sản văn hoá và tôn giáo ngày xưa, trong đó có nhục thể của Ngài Huệ Năng. Tuy nhiên, chắc là đục đẽo gì đó không xong, cho nên các anh cán bộ lại bỏ đi, và chùa Nanhua lại tiếp tục bảo quản di sản đó cho đến ngày nay. Báo chí TQ xưa nay cũng né tránh khi nói đến những vấn đề này. Còn câu chuyện về bài kệ đối đáp của ngài Huệ Năng và ngài Thần Tú thì vẫn luôn là đề tài thú vị, mặc dù đã xảy ra hơn ngàn năm trước. Riêng với VN ta thì lại càng không lạ lẫm gì với hai bài kệ này. Hình như tới chùa nào cũng nghe nhắc đến, ngay cả báo chí văn đàn cũng thường xuyên đăng tải, nhưng rồi có thực hành theo hay không thì lại là một câu chuyện khác :-). Mình xin vắn tắt lại dưới đây: 

- Bài kệ của ngài Thần Tú:

Thân thị bồ đề thọ             
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức     
Vật sử nhạ trần ai.  

Tạm dịch:
Thân là cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để bụi trần bám.

(The body is the bodhi tree.
The mind is like a bright mirror's stand.
At all times we must strive to polish it
and must not let dust collect)

- Bài kệ của ngài Huệ Năng:
(Vì không biết chữ, nên ngài Huệ Năng nhờ người đọc dùm bài kệ trên của ngài Thần Tú, và cũng nhờ người ghi lại bài kệ này ở dưới để đáp lại)

Bồ-đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài.
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?

Tạm dịch:
Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi nhơ?

(Bodhi originally has no tree.
The bright mirror also has no stand.
Fundamentally there is not a single thing.
Where could dust arise?)

Trở lại chuyện từ ngữ, chữ nghĩa trong kinh PG, vốn dĩ có nhiều phần khác so với những tôn giáo khác. Bởi PG xưa nay không quan niệm có đấng Cứu thế hoặc Giáo chủ, mà chỉ cho rằng Đức Phật là một bậc giác ngộ đi trước. Sau khi giác ngộ, Ngài đi đây đó để giảng pháp, chỉ ra con đường (hoặc nhiều con đường) cho chúng sinh học theo, làm theo, diệt khổ. Tuy nhiên mỗi người sẽ phải tự thực hành, thực chứng, tuỳ vào nghiệp lực và căn duyên của họ, hầu để đạt đến trí tuệ & sự giác ngộ cho bản thân. Mọi sự tu tập, nghe theo làm theo, đều hoàn toàn tự giác. Tất nhiên là có nhiều con đường cùng chung một điểm đến. Có nhiều phương tiện cùng chung một mục đích. Cho nên cũng có nhiều pháp môn (cách thức) tu tập khác nhau, nhưng đều hướng con người đến cùng cảnh giới của sự giác ngộ và giải thoát. (Quan trọng là phải sáng suốt nhận biết được những đúng sai cơ bản để tránh bị lợi dụng bởi những tà thuyết, hoặc các hình thức giả danh). Giáo lý nhà Phật không chủ trương phân biệt kỳ thị, khen chê tốt xấu giữa các pháp môn, mà cho rằng mọi chúng sinh đều bình đẳng như nhau trong việc chọn lựa con đường tu tập phù hợp với bản thân và hoàn cảnh riêng của mỗi người, không nhất thiết phải đi theo một sự sắp đặt nào cả. Đức Phật cũng chưa bao giờ phân biệt người này cúng nhiều người kia cúng ít, người này đạo Phật người kia đạo Ấn, hoặc hứa hẹn sẽ cứu rỗi một ai đó lên "thiên đàng". Bởi vậy có những từ ngữ trong kinh điển PG chỉ mang tính khái niệm, chứ không thể là một định nghĩa, hoặc là một đáp án chung, hay là nguyên tắc chung cho tất cả mọi người. Mỗi người đều sẽ lãnh ngộ được ý nghĩa của kinh kệ, từ ngữ, lời dạy, pháp tu …theo cái duyên, cái nghiệp, và căn cơ hiểu biết của chính bản thân họ. Ngay cả những vị tu sĩ cũng vậy, cho nên đừng ngạc nhiên lắm khi nghe nhiều vị sư thầy giải thích khác nhau về ý nghĩa của một từ ngữ giống nhau, hoặc một khái niệm PG nào đó. Âu cũng là những chuyện rất ư bình thường !

Thời còn tại thế, trong lúc giảng pháp, Đức Phật cũng tuỳ vào người nghe mà giảng giải những điều khác nhau. Ví dụ như Tâm Kinh thì nói cho ông Xá Lợi Phất, nhưng Kim Cang thì lại nói cho ông Tu Bồ Đề. Bởi vậy thời nay, nói chuyện với mấy ông tu sĩ thích đi xe hơi tiền tỉ, đồng hồ hàng hiệu, điện thoại đắt tiền, kẻ đón người đưa, mà khuyên là nên ăn rau cỏ chấm chao, tu học mỗi ngày, thì quả nhiên là điều khó khăn cho họ :-). Cũng như mình ngày xưa vốn là dân ăn nhậu thâu đêm suốt sáng, giờ mấy ông bạn cũ gặp lại, nghe nói chuyện kinh sách này nọ, họ tưởng mình điên. Nói đùa cho vui vậy thôi, chứ chuyện thiên hạ nghĩ sao thì cũng chẳng nghĩa lý gì đối với một người vô danh tiểu tốt như mình, nhưng với quý sư thầy thì lại rất quan trọng vì có cả hàng trăm, hàng ngàn người ngoài kia đang nghe ngóng và làm theo các vị !

Thực ra, mỗi khi nhắc đến kinh sách PG, thì nhiều vô cùng, làm sao đọc hết, làm sao nhớ nỗi ? Thỉnh thoảng, mình cũng may mắn được gặp những vị có kiến thức uyên bác, thao thao bất tuyệt nói về Hoa Nghiêm, A Hàm, Duy Ma Cật, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn, Pháp Cú, Trung Luận, Tiểu Luận..v.v.. Nghe một lát rồi mình cũng mịt mù, không biết đâu là đâu, nên đó cũng chưa hẳn là một chuyện tốt. Nhưng PG xưa nay vốn chú trọng nhiều đến chuyện thực hành, thực chứng, chứ không phải chỉ đơn giản là dừng lại ở mức độ lý thuyết. Cho nên biết đâu tu tập thực hành tới một mức độ nào đó, người ta lại ngộ ra rằng chẳng có kinh, mà cũng chẳng có Phật. Ngược lại, khi biết nhiều quá, đọc nhiều quá, chạy theo ông tiến sĩ này hoặc ông giáo sư nọ, đi theo ông "cao tăng" này hoặc ông "thiền sư" nọ, đôi lúc không khéo gạn lọc và tự thực chứng, lại vô tình bị bội thực, hoặc trở thành nạn nhân của "sở tri chướng". Tức là bị chính cái tri thức của mình làm trở ngại cho bản thân mình. (Sở tri chướng trong tiếng Sankrist là Jneyavarana, còn theo tiếng Ăng-lê là Hindrance of Knowledge). Tương tự, mình cũng có nhiều người bạn quen biết theo PG, phân chia kinh điển ra nhiều loại Nam tông, Bắc tông, Đại thừa, Tiểu thừa ...v.v.. Nhiều lúc mình theo dõi được một hồi, rồi cũng bị rối cả lên, quên đầu quên đuôi, lộn trước lộn sau. Bản thân mình chú trọng đến sự đơn giản, lâu nay chỉ quan niệm có một "thừa", đó là Phật thừa. Nên kinh nào đọc được hiểu đựợc thì đọc; thầy nào giảng được hiểu được thì nghe; chứ không phân biệt Nam Bắc, Đại Tiểu, lớn nhỏ … gì cả. Mình quan niệm rằng kinh sách vốn là để đọc để hiểu rồi thực hành, chứ không phải chỉ để đọc suông, thi thố kiến thức hoặc để cầu phúc ! (Xin lưu ý là Kinh khác với Chú).

Trong PG, có một bài kinh rất ngắn, phổ thông và căn bản, nhưng lại vô cùng quan trọng. Đó là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamitahridaya Sutra) được dịch ra từ tiếng Phạn. Mình không nhớ rõ là bản dịch tiếng Việt có bao nhiêu từ, nhưng bản dịch tiếng TQ hoặc tiếng Anh (củan Edward Conze), thì có khoảng chừng 260 từ. Nhiều người theo PG ở nước ngoài thường thuộc lòng 260 từ này. Có nhiều người mỗi khi cơn giận dữ, tham lam, hoặc đau khổ, thất tình lục dục .... gì đó nổi lên, cứ ngồi xuống chậm rãi đọc hết 260 từ, nghiền ngẫm, thì mọi việc trở nên êm đềm trở lại. Mình cũng nghe nhiều người nói về chuyện này rồi, nên ai muốn thử nghiệm thì cũng là một điều tốt, nên thử. Còn nếu như 260 từ mà vẫn khó nhớ quá, hoặc làm biếng, thì chỉ cần nhớ cái tựa đề thôi, và hiểu được ý nghĩa của nó, cũng là ngon lành rồi. Tất nhiên là không dám so sánh với câu chuyện của ngài Huệ Năng năm xưa, nhưng biết đâu một câu kinh lại có thể mở ra cho chúng ta nhiều điều thú vị hơn ?

(Trước hết phải xin nói rõ, bản thân mình không phải là tu sĩ, cũng không phải là nhà nghiên cứu học thuật gì, chỉ là tạm viết lại ý nghĩa của cái tựa đề bài kinh theo cách hiểu của riêng mình. Và đây là một bài viết rất ngắn nên có thể có những thiếu sót trong cách diễn đạt bởi giới hạn của ngôn từ, dễ sinh ra sự hiểu lầm. Nếu bạn nào muốn nghiên cứu xa hơn, thì chắc là trên mạng hoặc trong các chùa chiền PG cũng có nhiều thông tin, tài liệu về bản kinh này).

Tựa kinh là: Prajnaparamitahridaya Sutra- (được quý vị tu sĩ ở VN dịch ra là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh) 

Chữ "Prajnaparamitahridaya" này được chia ra làm 3 phần: Prajna-paramita-hridaya; còn chữ Sutra là Kinh thì ai cũng hiểu rồi.

1. Prajna - Chữ này rất khó dịch trọn vẹn được hết ý nghĩa của nó, nên ngày xưa ngài Huyền Trang giữ nguyên không dịch. Quý thầy VN chắc cũng phiên âm từ tiếng Hán ra thành "Bát Nhã". Tiếng Anh dịch ra là "Wisdom", nhưng không diễn đạt đầy đủ hết ý nghĩa, rất miễn cưỡng, cho nên nhiều người cũng tránh dùng chữ "Wisdom" vì ngại gây ra sự hiểu với chữ wisdom thường xử dụng trong đời thường. Quý Thầy ở VN thường nói đến cụm từ “trí tuệ Bát nhã” là nói đến chữ này.

Trong tiếng Phạn, chữ Prajna được ghép bởi 2 từ : Pra & jna  

- Pra (Supreme & Unique): tuyệt đỉnh, khác thường
- jna (Consciousness, Understanding): Sự nhận thức, trí tuệ hiểu biết

2. Paramita - (pa-ra-mi-ta) chữ này quý thầy VN phiên âm ra thành "ba la mật đa". (Và cũng vì có chữ "mật", cho nên có nhiều ông thầy bùa, thầy cúng, hiểu lầm tưởng là cái gì thần chú, mật chú ghê gớm lắm, nên thường đem ra xử dụng. Thực ra ý nghĩa của chữ này rất rõ ràng, không có gì thần bí, mê tín ở đây)

- Paramita: Perfection - sự hoàn hảo. Đặc biệt, chữ Paramita được ghép bằng 2 từ: Parama và Ita
- Parama: nghĩa là "phía bờ bên kia", nghĩa tiếng Anh là - the other shore
- Ita: nghĩa là "đến được nơi", nghĩa tiếng Anh là "that which has arrived" .

Cho nên ngoài nghĩa là "sự hoàn hảo", ba-la-mật-đa còn mang ý nghĩa là "đến bờ bên kia"

3. Hridaya - chữ này quý thầy VN dịch ra là Tâm. Chữ "Tâm kinh" là xuất phát từ đây. Đây là một từ rất hay, rất sâu sắc, và cũng là một từ gây ra rất nhiều sự hiểu lầm. Theo mình thì chữ này sẽ được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tuỳ theo duyên nghiệp, và khả năng lãnh hội của từng người. Xin lưu ý là đối với trí tuệ “Prajna" (trí tuệ Bát nhã), thì hoàn toàn không phân biệt sang hèn, cao thấp, thông minh, ngu dốt...gì cả. Một ông gs ts chưa hẳn có trí tuệ "Prajna" hơn một người không biết chữ; một ông địa vị cao cả chưa hẳn có được trí tuệ "Prajna" hơn một kẻ thấp hèn. Trí tuệ "Bát Nhã (Prajna) khác với các loại trí tuệ thông thường, không dựa vào hình thức, định kiến, chấp trước của con người, hoặc là bằng này cấp nọ, trường này trường kia, thông minh lanh lợi, học giỏi tài hoa, văn hay chữ tốt...v.v....

- Hridaya - dịch sang tiếng Anh là “spiritual heart”. Cho nên tiếng Việt gọi là "tâm", nhưng không phải là trái tim (mind, not heart), không phải là tâm điểm, không phải chỉ là đạo đức đối nhân xử thế, cũng không phải là "cái tâm cái tầm" mà các vị quan chức VN mong mỏi. Chữ Tâm này mang một hàm ý rộng lớn hơn, muốn nói đến một sự cần thiết mấu chốt, một trí tuệ tỉnh thức, một tư duy sắc bén để hiểu biết và nhận định vấn đề. 

- Nguồn gốc của chữ này trong tiếng Phạn gồm có 3 phần: Hri - nghĩa là cho đi (to give), da - nghĩa là nhận lại (to take), ya - chữ yam, nghĩa là cân bằng (balance). Có nghĩa là bản thân chữ Hridaya (hri-da-ya) đã nói lên được ý nghĩa của "trung đạo", khái niệm cân bằng giữa cho và nhận, tư duy phi cực đoan của người thực hành đạo Phật.

- Một ý nghĩa khác, nhiều người cho rằng chữ này nói về sự vận hành cân bằng trong tự nhiên như động mạch tĩnh mạch của trái tim, cũng như sự cho đi và nhận lại cần được cân bằng trong đời sống tinh thần. Cho nên chữ này cũng được xử dụng trong một vài trường phái thiền và yoga. Ví dụ như Hridaya yoga, một loại yoga đem lại sự an lạc và cân bằng trong đời sống tinh thần con người .

Ồ dài quá rồi, xin tạm dừng ở đây nghen. Tóm lại, chỉ với một cái tựa đề của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, đã nói lên được những lý thuyết căn bản nhất của PG. Đó là, mọi người đều có thể trở thành Phật, và chỉ có dựa vào trí tuệ của chính họ mới giúp họ làm được chuyện đó. Không có gì bí mật, không có gì mê tín dị đoan, mà cũng không có một sự cực đoan, hứa hẹn nào ở đây cả. Chỉ đơn giản là muốn đi từ bờ bên này của cõi nhân sinh đầy rẫy sự đau khổ, u mê, dục vọng, cám dỗ, nghiệp chướng, hận thù .... để qua được bến bờ bên kia, không còn những thứ phiền não đau khổ đó nữa, thì mỗi người phải tự thân học hỏi, thực hành, và tự thực chứng để có được trí tuệ cần thiết. (Lưu ý là một số phương pháp tu tập khác nhau có thể sẽ dùng những từ ngữ khác nhau, hoặc cách lý giải khác nhau, nhưng tìm hiểu kỹ sẽ nhận thấy đều cùng có chung một điểm đến). Còn ôm một mớ bằng cấp khư khư, kinh sách, kiến thức kim cổ đông tây, nay chùa Nam mai chùa Bắc, mà không tự chèo, thì chiếc ghe vẫn còn cột ở đó, mãi mãi ở bờ bên này !

Mến chúc tất cả một buổi tối an lành.


PN