Hôm qua là ngày thế giới dành cho người nghèo. Ngày 17/10 hằng năm được chọn là "International Day for the Eradication of Poverty" (tạm dịch: Ngày Quốc tế xoá nghèo), không phải để kể lể về nỗi khổ, cũng không phải để làm giàu thêm lòng thương hại nhất thời, mà để nhắc nhở nhân loại nhớ rằng không ai thật sự đứng một mình trên thế gian này.
Ngày nay, những hiện tượng xã hội phân hoá và phân biệt kỳ thị đẳng cấp giàu nghèo, không còn lạ lẫm gì với thế giới nữa. Thế nhưng những câu chuyện về lòng trắc ẩn, thương cảm trước những hiện tượng xã hội đó lại là một vấn đề khác. Kết quả của những nổ lực hổ trợ nhân đạo xoá đói giảm nghèo toàn cầu hoàn toàn tuỳ thuộc vào tư duy nhận thức của con người, văn hoá vùng miền từng địa phương, sự trợ giúp từ chính phủ, chính quyền sở tại, và nhiều nguồn hổ trợ khác nhau. Ngay cả ở VN hôm nay, bước ra đường cũng thấy rõ hai thế giới song song. Một bên là những tòa nhà hoành tráng, tiệc tùng, xe sang, hàng hiệu... Một bên là những em nhỏ bán vé số, những bà cụ nhặt ve chai, những người lao động tối mặt mà vẫn không đủ ăn... Điều đáng trân quý là những năm gần đây, VN có nhiều tổ chức dân sự và đoàn thể đã tham gia một cách hiệu quả các công việc từ thiện địa phương, hổ trợ xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ nhiều học sinh và gia đình hoàn cảnh khó khăn mà không cần đến những tung hô mang hình thức phô diễn.
Và mặc dù thiểu số, nhưng điều đau xót hơn là không ít sự giàu sang trong xã hội đã được tạo dựng trên bất công, phi pháp, còn cái nghèo thì lại rơi xuống đúng những người lương thiện. Vì vậy, nói đến người nghèo không chỉ là nói về “số phận”, mà còn nói về công bằng, đạo đức, và lương tâm xã hội. Khoảng cách giàu nghèo không chỉ là chuyện tiền bạc, mà còn là khoảng cách của lòng chia sẻ và trách nhiệm với đồng loại.
Trong đạo Phật, Đức Phật dạy từ bi đơn giản rằng "Have compassion for all beings, rich and poor alike; each has their suffering. Some suffer too much, others too little". (Tạm dịch Hãy khởi lòng từ với tất cả chúng sinh, giàu hay nghèo cũng vậy; ai cũng có nỗi khổ của riêng mình. Có người chịu khổ quá nhiều, có người chịu khổ quá ít.).
Bởi vậy từ bi không hỏi “anh là ai”, mà hỏi “anh đang khổ ở chỗ nào”. Từ bi không đứng ngoài quan sát, mà bước tới và san sẻ trong khả năng có thể. Thực ra, ai cũng có thể trở thành người nghèo ở một giai đoạn nào đó của đời mình, nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tình thương, nghèo hy vọng... Cho nên nhiều người quan niệm rằng - Giúp người không phải là một lòng tốt tùy hứng, cũng không phải mong được phước báu hay công đức gì, mà là một nghĩa vụ nhân tính căn bản. Một ổ bánh chia đôi không làm ai chết đói, nhưng có thể cứu được chỗ lương thiện cuối cùng trong một con người. Một bàn tay đưa ra đúng lúc có khi quan trọng hơn cả vạn lời thuyết giảng. Tất nhiên, thế giới này không nghèo đi vì chia sẻ, mà chỉ nghèo đi vì thờ ơ. Ngày nay có rất nhiều tổ chức thiện nguyện phi chính phủ, tập thể, cá nhân, đã không quản ngại khó khăn, hy sinh đi khắp nơi trên thế giới, vùng sâu vùng xa của nhiều châu lục, để tham gia hổ trợ các chương trình xoá đói giảm nghèo và xoa dịu những nỗi khổ của đồng loại. Thật đáng kính trọng !
Gần đây, chính quyền Mỹ đã yêu cầu Quốc hội giữ lại nhiều tỷ USD ngân sách viện trợ nước ngoài và huỷ bỏ hoặc đóng băng nhiều khoản đã duyệt trước. Có báo cáo rằng khoảng 83% các chương trình của USAID (khoảng 5.200/6.200 dự án) đã bị hủy sau một đợt “thanh lọc” trong 6 tuần đầu năm 2025. Các nghiên cứu cho rằng nếu tình trạng cắt giảm tiếp diễn, có thể dẫn tới hơn 14 triệu ca tử vong thêm trên toàn cầu đến năm 2030, trong đó hơn 4,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi. Các quỹ cứu trợ y tế, về dinh dưỡng, nước sạch và vệ sinh đã bị cắt rất mạnh. Ví dụ chương trình chống lao bị cắt 56%, chương trình nước và vệ sinh bị cắt tới 86% trong một số phân tích. Ngoài ra còn nhiều ảnh hưởng khác đến các quỹ nhân đạo & phát triển xoá đói giảm nghèo khác.
Hệ thống y tế HIV/AIDS ở các nước như Lesotho bị bứt gãy, hơn 8,000 nhân viên y tế mất việc, nhiều phòng khám đóng cửa sau các khoản viện trợ bị rút. Các chương trình cứu trợ thực phẩm khẩn cấp qua tổ chức như World Food Programme (WFP) báo cáo tình trạng khẩn cấp do thiếu quỹ, có thể ảnh hưởng tới 14 triệu người ở nhiều quốc gia vì cắt viện trợ từ các nước, trong đó Mỹ là một đóng góp lớn. Các chương trình phát triển nông nghiệp, chống biến đổi khí hậu và hỗ trợ người dân nghèo giáp ranh có nguy cơ bị thu hẹp mạnh. Câu hỏi là - USAID bắt đầu từ năm 1961, gần 70 năm qua, vì sao hôm nay có chuyện này ?
Ngắn gọn là do chính sách “America First” (nước Mỹ trước) dẫn tới yêu cầu tái xem xét viện trợ nước ngoài, cho rằng một số chương trình không còn phù hợp với lợi ích quốc gia Mỹ hoặc bị lãng phí. Có sự chuyển giao quyền điều hành viện trợ sang bộ phận khác hoặc sát nhập cơ quan. Có tin cho rằng USAID sẽ bị sáp nhập hoặc chức năng chủ yếu được chuyển cho Bộ Ngoại Giao Mỹ. Ngân sách bị căng thẳng, phải cắt giảm trong bối cảnh thâm hụt lớn, lạm phát và chính sách tài khóa. Mặt khác, khi tranh luận về hiệu quả của viện trợ nước ngoài, một số nhà cố vấn phê bình cho rằng quá nhiều chương trình không đạt hiệu quả, quản lý kém...
Hoặc có thể có vài lý do chủ quan khác nữa, nhưng cho dù là lý do gì, với sự cắt giảm đó của chính phủ Mỹ, sẽ có nhiều tác động đáng lo, có thể làm thụt lùi nhiều thành quả phát triển, đặc biệt ở các nước nghèo như dịch bệnh tái phát, dinh dưỡng trẻ em đi xuống, nghèo đói tăng...v.v. Hệ thống cứu trợ khẩn cấp bị suy yếu, khi thiên tai, xung đột xảy ra, khả năng phản ứng bị hạn chế hơn. Ảnh hưởng không chỉ tới các nước nhận viện trợ, mà dài hạn tới cả an ninh toàn cầu: vấn đề dịch bệnh, biến đổi khí hậu, di cư, xung đột, đều liên quan.
Riêng đối với VN, nếu các chương trình quốc tế bị thu hẹp, thì sự hỗ trợ từ bên ngoài, vốn vẫn đóng vai trò bổ sung trong một số lĩnh vực sẽ khó khăn hơn. Mặc dù Việt Nam trong những năm gần đây đã có tốc độ phát triển nhanh và lộ trình giảm phụ thuộc viện trợ nước ngoài, nhưng vẫn có những phân khúc như vùng sâu vùng xa, điều kiện y tế, hỗ trợ nghề cho người nghèo, nơi viện trợ quốc tế đóng vai trò hổ trợ. Việc cắt giảm viện trợ toàn cầu có thể dẫn đến những hạn chế trong việc lựa chọn nguồn hỗ trợ bên ngoài cho các chương trình nhân đạo, phát triển nhỏ. Do đó, trong bối cảnh ấy, việc tăng cường nguồn lực nội địa, hợp tác giữa các tổ chức công & tư, các đoàn thể, để phát huy nội lực địa phương càng trở nên quan trọng. Thực tế các chương trình xoá đói giảm nghèo không phải chỉ dừng lại ở mức độ từng bữa ăn mà là một kế hoạch lâu dài, trồng cây gì nuôi con gì, giáo dục đào tạo, y tế cộng đồng ...v.v. Cho nên bên cạnh yếu tố con người và các chương trình trợ giúp, thì vai trò của chính quyền địa phương là vô cùng quan trọng.
Và cũng chính vì những thay đổi đột ngột như thế nên gần đây có nhiều người than vãn, trách móc, cho rằng tại sao thế giới lại có nhiều biến động như vậy. Và liệu những đổi thay đó có làm đời sống người dân nước Mỹ nói riêng, và thế giới nói chung, tốt đẹp và hạnh phúc hơn chăng? Cái này thì tuỳ vào mỗi cá nhân nhìn nhận và phân tích, bởi rất khó để có thể làm cho con người buông bỏ những thứ mà họ tin tưởng hoặc tôn thờ !
Còn nói đến sự đổi thay. Đó là chuyện tất nhiên, xưa nay vạn vật luôn thay đổi. Quy luật vô thường của vũ trụ là vậy. Sự tiến bộ của khoa học ngày nay cũng đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên, có sự thay đổi làm cho tốt hơn, thì cũng có sự thay đối làm cho tồi tệ hơn. Mở ngoặc chút, đạo Phật có nói đến 3 đặc điểm căn bản nhất trong thế giới chúng ta, đó là: Vô Thường (tiếng Phạn là Anicca hay Anitya, tiếng Anh là Impermanence), Vô Ngã (tiếng Phạn là Anatta hay Anatman; tiếng Anh là Non-self), và Khổ (tiếng Phạn là Dukkha hay Duhkha; tiếng Anh là Suffering/Unsatisfactoriness). Cho nên nếu có ông nào giảng giải tràng giang đại hải hoặc lý thuyết cao siêu về đạo Phật, mà không đề cập hoặc tán đồng với 3 đặc điểm cơ bản đó thì coi chừng họ đang nói về đạo khác rồi :-). Và tất nhiên, những vị đã "chứng ngộ" được chân lý vô thường, vô ngã, thì họ đã không còn Khổ (Dukkha) nữa. Còn phe ta, những kẻ phàm phu đầy lý thuyết, đầy lý luận, đầy chức danh, đầy kinh điển, thích chứng tỏ, thích cãi nhau, thích hơn thua, thích tiếng tăm, thích đúng sai..v.v.. thì cứ mãi còn đeo lon thượng sĩ 3 gạch ....Khổ dài dài :-) .
Nhân đây mình cũng muốn nhắc lại một câu chuyện, mà chắc chắc có nhiều anh chị em đã từng đọc qua. Đó là một trong những giai thoại nổi tiếng nhất xoay quanh danh họa Leonardo da Vinci và kiệt tác “The Last Supper”. Tuy nhiên, cần nhắc lại là câu chuyện về việc Leonardo tìm gương mặt để vẽ Chúa Jesus (Giêsu) và Judas (Giuđa) chỉ là một huyền thoại dân gian, không có chứng cứ lịch sử xác thực, nhưng lại mang giá trị biểu tượng và triết lý rất sâu sắc về bản chất thiện ác trong con người.
Theo truyền thuyết, khi danh hoạ Leonardo da Vinci được giao vẽ bức “The Last Supper” (1495–1498) cho tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, ông đã quyết định tìm người thật để làm mẫu cho các gương mặt của Chúa Giêsu và 12 tông đồ. Ông muốn mỗi khuôn mặt phải thể hiện một trạng thái tâm hồn đặc trưng, đặc biệt là Chúa Jesus (biểu tượng của tình thương và tha thứ) và Judas Iscariot (biểu tượng của phản bội và tham lam).
Leonardo mất nhiều tháng trời để tìm được người có gương mặt thể hiện sự thanh khiết, nhân từ của Chúa Giêsu, và ông đã chọn một ca sĩ trong dàn hợp xướng nhà thờ có khuôn mặt sáng, đôi mắt hiền, gợi vẻ thánh thiện. Còn tìm hình mẫu của nhân vật Judas thì khó khăn hơn nhiều. Ba năm sau khi bức họa gần hoàn thành, Leonardo đi khắp hang cùng ngõ hẽm vẫn chưa tìm ra người phù hợp để vẽ Judas. Ông cần một gương mặt phản ánh sự sa ngã, tội lỗi, và dằn vặt của linh hồn. Sau nhiều ngày tìm kiếm, ông gặp một người tù bị kết án tử hình ở Rome, gương mặt đầy u tối, ánh mắt cay độc và tuyệt vọng. Leonardo xin phép cho người này làm mẫu để hoàn thiện gương mặt Judas trong bức tranh.
Sau khi bức họa hoàn tất, Leonardo nói lời cảm ơn người tù. Khi đó, người tù bật khóc và nói: “Ngài không nhận ra con sao? Con chính là người đã từng làm mẫu cho ngài vẽ Chúa Jesus ba năm trước đây.”
Leonardo lặng người. Câu chuyện khép lại trong im lặng, như một ẩn dụ về hai mặt của con người. Thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, có thể tồn tại trong cùng một linh hồn. Dù không có bằng chứng lịch sử xác nhận, nhưng câu chuyện này được xem là một ẩn dụ tuyệt vời về con đường tâm linh và đạo đức của con người. Con người không sinh ra là Judas hay Jesus, mà chính sự lựa chọn và những trải nghiệm trong cuộc đời khiến họ trở thành ai.
Thiện và ác không ở ngoài, mà cùng tồn tại trong mỗi người, giống như ánh sáng và bóng tối trong cùng một bức tranh. Leonardo, dù là họa sĩ, đã trở thành triết nhân qua chính cách ông khiến người ta suy ngẫm: “Trong cùng một con người có thể ẩn chứa cả thánh thiện và tội lỗi. Điều khác biệt nằm ở ánh sáng mà họ hướng về”. Thật là trùng hợp, đây cũng chính là điều mà đạo Phật nói đến, thiện ác do tâm tạo ra !
Tuy nhiên sau này, các nhà nghiên cứu nghệ thuật (như Giorgio Vasari, Kenneth Clark, hay các tài liệu của Bảo tàng Leonardo da Vinci) cho rằng Leonardo không hề dùng tù nhân hay người thật làm mẫu cho riêng Judas, mà ông thường quan sát, phác họa nhiều gương mặt ngoài đời rồi tổng hợp thành những biểu cảm tượng trưng. Câu chuyện trên xuất hiện từ thế kỷ XIX trong các tuyển tập giai thoại đạo đức Kitô giáo, chứ không có trong các ghi chép gốc về Leonardo. Tuy vậy, người ta vẫn thích kể lại câu chuyện ấy như một “ngụ ngôn về con người”, sâu sắc và cảm động, vượt xa giá trị nghệ thuật. Đó là, thiện ác, sáng tối, đều khởi đầu từ trong chính trái tim con người.
Hy vọng sau khi nước Mỹ hạn chế các chương trình viện trợ nhân đạo xoá đói giảm nghèo đối với những đất nước nghèo khó trên thế giới, thì sẽ có những cá nhân, tố chức, hoặc quốc gia khác đứng lên điền vào chỗ trống. Suy cho cùng, hơn thua không đến từ vị kỷ, và giá trị không đến từ hư danh. Mọi chuyện đều sẽ đổi thay, kể cả sự hoang tưởng !
Thân chúc tất cả một cuối tuần an vui.
PN
❤️❤️❤️
ReplyDelete