Nói đến lý thuyết “nhị nguyên” thì đối với nhiều người không còn xa lạ gì nữa. Từ thuở bập bẹ, tóc chỏm đuôi gà, khi mà tâm trí chưa đủ khả năng phân tích hay nhận định vấn đề, thì cuộc sống, gia đình, nhà trường, xã hội ... đã bắt đầu định hình chúng ta bằng những "cặp phạm trù" hay khái niệm nhị nguyên dựa trên các quy ước vùng miền, văn hoá, và ngôn ngữ nhất định nào đó. Những khái niệm ấy, theo thời gian, trở thành những “mặc định nhận thức” đi cùng năm tháng và lớn lên cùng với con người. Từ đó, phần lớn quan niệm về chánh–tà, đúng–sai, thương–ghét, tốt–xấu ... của mỗi cá nhân được xây dựng trên nền tảng của tư duy nhị nguyên này.
Nói một cách đơn giản hơn, từ nhỏ, đọc truyện xem phim đã "biết" bên nào là thiện, bên nào là ác. Chơi với bạn bè thì học phân biệt “thương–ghét”, “quân tử–tiểu nhân”. Lớn lên chút, tiếp xúc nhiều hơn với sách vở và xã hội, có thêm chút đỉnh kiến thức, lại củng cố những phân định như đúng–sai, thành công–thất bại, sang–hèn, giỏi–dở, thông minh–ngu dốt... Đến khi đất nước bước vào chiến tranh, sự phân đôi càng rõ, địch–ta, quốc gia–cộng sản, bên này–bên kia, thương mến–hận thù.... Khi chiến tranh kết thúc, những đối lập mới lại xuất hiện như lý lịch tốt–xấu, miền Nam–miền Bắc, quân ta– quân “ngụy”... Một người lỡ nói điều trái tai hay bày tỏ quan điểm phản biện, dù chẳng “động dao động thớt” gì, cũng dễ bị gán nhãn mác là “phản động", hoặc thành phần nọ kia .v.v.. Vô tình hay cố ý, tất cả đều là những biến dạng của tư duy nhị nguyên, cứ không phải “ta” thì mặc nhiên trở thành “địch” !
Rồi ngay cả khi có nhiều người may mắn được ra nước ngoài sinh sống, học hành, thì những mô thức nhị nguyên này vẫn được tiếp tục mang theo. Có khác chăng là thay vì dùng từ “phản động”, người ta chuyển sang thủ sẵn vài chiếc “nón cối” trong đầu. Hễ ai nghịch ý mình, hoặc “yêu nước” theo cách không giống mình, thì lập tức ban phát cho vài chiếc nón cối, rồi tranh chấp địch–ta cho đến hết phần đời còn lại.
Nhưng đó mới chỉ là câu chuyện quê nhà. Vậy dân bên Tây bên Tàu có khá hơn không?
Tất nhiên là có khác, khác văn hoá, khác hình tướng, khác thể chế... Nhưng xét về tư duy nhị nguyên, thì cũng chẳng khác bao nhiêu. Đặc biệt trong vài năm gần đây, sự phân cực lại càng trở nên ngô nghê và hài hước. Không rõ khởi đầu từ đâu mà từ đen cho đến trắng, từ ướt cho đến ráo, từ cơm cho đến đậu, từ ông dân cho đến ông quan, từ người chỉ đọc báo mạng, cho đến kẻ chỉ nghe đài FB, YouTube, Tiktok… đa số mặc định như thế giới này chỉ còn hai phe CH và DC. Ai không thích cánh tả thì bị xếp vào cánh hữu; ai phê phán CH thì lập tức bị gán là DC. Ai không ưa Biden thì chắc chắn là khoái Trump...v.v... Lối suy nghĩ này na ná chuyện tiếu lâm bên nhà, hễ chán cơm thì phải tìm phở; hễ vợ là “địch” thì bồ bịch là “ta.” (Dĩ nhiên, không phải ai cũng suy nghĩ như vậy. Vẫn có rất nhiều người tỉnh táo, sáng suốt, phân biệt rạch ròi, và không hề bị cuốn vào những câu chuyện lẩm cẩm ấy). Và thế là tư tưởng nhị nguyên có đầy đủ lý do chính đáng để tiếp tục xoay vòng, lẩn quẩn, luân hồi, bám riết lấy con người đời này sang đời khác :-).
Nhân nhắc đến “nhị nguyên”, mình cũng muốn tản mạn đôi chút về đề tài này. Nhưng đây là một lý thuyết vô cùng quan trọng trong PG, mình không dám nhận là hiểu biết thấu đáo, lại càng không có ý giảng thuyết hay tranh luận đúng sai, chỉ xin chia sẻ đôi cảm nghĩ cá nhân, nên ai thích thì tìm đọc thêm nghen. Trong triết học Ấn Độ, Advaita Vedānta (Bất Nhị), cũng như triết học phương Tây của Immanuel Kant, đều bàn đến những hiện tượng rất gần với cái gọi là “nhị nguyên”, nếu ai muốn tìm hiểu sâu hơn. Dĩ nhiên, nói đến những lý thuyết sâu sắc này là phải đụng đến vài thuật ngữ trong kinh điển PG, đôi khi hơi khó hiểu. Có nhiều tác giả viết cả cuốn sách vẫn chưa nói hết ý, với phạm vi bài viết ngắn ngủi này của mình, chủ yếu là đọc cho vui thôi. Mình vốn không thích sự giới hạn của ngôn ngữ, nhưng nếu không dùng ngôn ngữ thì lại chẳng diễn đạt được gì. Đây quả nhiên là một nghịch lý, mong thông cảm vậy :-) .
Trong triết học phương Tây, “nhị nguyên” thường mang nghĩa dualism, là hai thực thể độc lập như thân–tâm, hay vật chất–tinh thần. Kant thì cho rằng tâm luôn đóng vai trò trung gian, vì vậy tri giác của con người mang tính cấu trúc chủ quan. Nhưng trong Phật giáo, “nhị nguyên” không phải là cấu trúc của thế giới, mà là cách "tâm" phân chia, và đối lập hóa thực tại. Chính cái nhìn phân chia này mới là nguồn gốc của vô minh, và là chướng ngại của sự giác ngộ, giải thoát.
Phật giáo gọi đây là nhị nguyên phân biệt (tiếng Phạn là Dvaya), nghĩa là luôn bị vướng vào hai cực như có–không, còn–mất, sạch–dơ, thiện–ác… Nhị nguyên không phải bản chất của vạn vật hoặc vạn pháp (theo từ ngữ của PG), mà chỉ là cách tâm phân loại. Vì vậy PG xem nhị nguyên là một ảo tưởng của nhận thức, không phải thực tại khách quan.
Nhị nguyên chỉ xuất hiện khi con người đặt tên, đóng khung, phân chia, hoặc phán xét thế giới chung quanh bằng các khái niệm đối lập, như có–không, ta–người, thương–ghét, đúng–sai, đẹp–xấu... Những đối lập này không tồn tại độc lập, chúng sinh ra từ sự vận hành của Tưởng và Thức trong Ngũ Uẩn. Cho nên Phật giáo cho rằng nhị nguyên là biểu hiện của chấp thủ, nguyên nhân chính là do tâm không thấy được duyên khởi và tính Không của mọi pháp.
Sự giác ngộ, dưới cái nhìn của PG không phải là tích lũy tri thức, hay đạt đến cảnh giới nọ kia hoặc chức danh nào đó, mà là thấy được thực tại như nó đang là (tiếng Phạn là yathābhūta), tức thấy bằng trí tuệ vô phân biệt (nirvikalpa-jñāna). Nhưng chính tư tưởng nhị nguyên đã che lấp trí tuệ này bằng nhiều cách khác nhau.
Một trong những tác động đầu tiên của nhị nguyên là sinh ra chấp thủ. Khi có hai bên đối lập, tâm sẽ chọn một bên và loại trừ bên kia. Ví dụ như ghét phe này thì phải chọn phe kia, không ưa điều này thì lập tức ôm lấy điều ngược lại. Từ đó nảy sinh yêu–ghét, bảo vệ–chống đối, và vô số phản ứng kéo theo. Nhưng bám vào bất kỳ bên nào thì cũng dẫn đến khổ đau. Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy rằng “do chấp thủ mà khổ sinh”. Quả nhiên là vậy, bởi chấp thủ nên tâm con người khó giữ được trung đạo. Và vì thế họ không thể thảnh thơi, không dính mắc, cũng không thể có được tự do thực sự .
Một luận điểm quan trọng nữa là "nhị nguyên" che lấp tính Không (emptiness). PG quan niệm vạn pháp đều vô tự tính, vô thường, và do duyên khởi. Nhưng khi tâm con người chia thế giới thành hai bên, họ gán cho sự vật những bản chất cố định. Điều này trái ngược hoàn toàn với cái thấy của trí tuệ Bát Nhã: “Sắc tức thị Không”. Thực tế thì không có sự thành tựu nào tồn tại độc lập, cũng không có cái đẹp nào độc lập, mà cũng chẳng có cái xấu nào độc lập. Không có “ta”, mà cũng chẳng có “người”, theo nghĩa tuyệt đối, nhưng "nhị nguyên" khiến cho con người không thể thấy được tầng sâu sắc này.
Đồng thời, nhị nguyên cũng nuôi dưỡng bản ngã. Trong đời sống hằng ngày, cặp nhị nguyên lớn nhất chính là “Ta” và “Không phải ta”. Khi tâm đặt cái tôi “tự ngã” ở một phía, và thế giới còn lại ở phía bên kia, thì mọi phát sinh kiêu mạn, ganh ghét, sợ hãi, cố chấp ... theo đó hình thành. Mà chính những thứ đó là những chướng ngại lớn nhất của con đường giác ngộ.
Không chỉ vậy, nhị nguyên khiến "tâm" con người luôn phân biệt không ngừng. Khi tâm vận hành theo nhị nguyên, nó liên tục so sánh, đánh giá, dựng lập ý niệm, khái niệm... Vì thế, con người không thể an trú trong hiện tại và không thể thấy vạn pháp “như thị” (như nó đang là). Trong kinh Kim Cang có câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.” Nhị nguyên chính là cái “sở trụ” ấy. Khi tâm còn bám vào một cực, một quan điểm, một mô hình, hay một giáo điều nào đó, thì trí tuệ không thể sinh khởi. Câu chuyện về Ngài Huệ Năng gặp hai vị tăng tranh luận về lá cờ đang bay là minh họa rõ nhất. Một vị nói cờ động, vị kia nói gió động. Huệ Năng bảo: “Không phải gió động, không phải cờ động, mà là tâm các ông động.” Ngài chỉ ra rằng nhị nguyên không nằm trong sự vật, mà trong dao động của tâm.
Theo cách hiểu của mình, thì cái "thấy" và cái "biết" của những bậc giác ngộ vượt ra khỏi nhị nguyên. Họ không xóa bỏ nhị nguyên về mặt ngôn ngữ, mà chỉ không còn bị nhị nguyên trói buộc. Họ thấy đẹp mà không bị đẹp ràng buộc, thấy xấu mà không sinh ghét bỏ, nghe khen mà không kiêu ngạo, nghe chê mà không giận hờn, thấy “ta” mà không chấp ngã, thấy “người” mà vẫn khởi lòng từ bi. Đó là vô phân biệt trí, là nhất như, bất nhị (non-dual awareness).
Tóm lại, nhị nguyên chỉ là thói quen của tâm, không phải bản chất của vạn pháp. PG không phủ nhận nhị nguyên, nhưng xem nó như một phương tiện ngôn ngữ, không phải chân lý tối hậu. Thực tại vốn không hai, vì tất cả đều duyên khởi, vô ngã và vô thường. "Nhị nguyên" chỉ là cái bóng của ý niệm, và "Giác ngộ" là sự tan biến của cái bóng ấy !
Ngày nay, nhất là trong thời đại trí tuệ nhân tạo (AI), thiên kiến nhận thức (cognitive bias) là một trong những vấn đề trung tâm của triết học tâm thức và khoa học nhận thức hiện đại. Con người, do giới hạn của tri giác và sự hoạt động có tính mô hình hóa của tâm, thường vội vàng kết luận dựa trên những thông tin không đầy đủ, đặc biệt là các yếu tố hình tướng bên ngoài. Trong văn hóa Đông phương, hiện tượng này đã được phân tích sâu sắc trong hệ thống tư tưởng PG và Đạo gia, vốn xem sự bám chấp vào hình tướng (sắc tướng) là nguồn gốc của vô minh và phân biệt.
Nói thêm chút, theo PG, thế giới con người được cấu thành bởi Ngũ Uẩn - sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó, sắc uẩn là yếu tố vật chất, hiện tượng có thể quan sát. Tuy nhiên, sắc chỉ là lớp biểu hiện đầu tiên, không hàm chứa bản chất (svabhāva) của một vạn vật. Kinh Kim Cang có ghi “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng" (tạm dịch là: Hễ cái gì có hình tướng đều là hư vọng). Điều này hàm ý rằng việc dựa vào sắc để kết luận bản chất là một sai lầm nhận thức, bởi sắc chỉ biểu hiện tạm thời, chịu chi phối bởi vô thường và duyên khởi. Trong tâm lý học, điều này tương ứng với bias of appearance-based judgment, nơi con người phán đoán phẩm chất thực dựa trên dấu hiệu bề ngoài. Và dĩ nhiên nhiên chính sự thiên lệch này là nền tảng của hiện tượng “vơ đũa cả nắm,” khi cá nhân con người sử dụng một mẫu hình nhỏ nhoi để đại diện cho một tập thể rộng lớn.
Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy rằng những gì mắt thấy chỉ là cảnh, tức biểu tượng được tâm tái tạo, không phải thực tánh của sự vật. Phân biệt giữa “cảnh” và “tướng” cho thấy mức độ can thiệp của nhận thức chủ quan. Điều này gần với mô hình “constructivism” của triết học hiện đại: nhận thức là sự kiến tạo, không phải sự phản ánh đơn giản. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, tư tưởng “Sắc bất dị Không” tiếp tục khẳng định rằng mọi biểu hiện đều không có tự tính cố định. Bám vào "sắc" để phán xét, là đồng nhất cái tạm thời với cái bản chất, một sai lầm logic căn bản.
Tư tưởng Lão–Trang cũng có nhiều điểm tương đồng. Lão Tử dạy: “Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh”. Hình tướng và tên gọi chỉ là ký hiệu, không thể gói trọn bản chất. Trang Tử thì dùng các câu chuyện nghịch lý để phá vỡ nhị nguyên, cho thấy ta không thấy sự vật như nó là, mà chỉ thấy sự vật qua tâm mình. Điều này rất gần với khái niệm “projective bias” ngày nay .
Trở lại quan sát đời sống hiện tại, mỗi ngày chung quanh ta có vô số nạn nhân của cái nhìn thiên kiến và lối suy nghĩ vơ đũa cả nắm. Nhiều người chạy theo tin tức phiếm diện, fake news, những video nguỵ tạo, cắt xén, câu view, câu like, để đánh giá hoặc phân tích vấn đề. Con người dễ dùng một dấu hiệu bề ngoài để phán xét bản chất, hoặc lấy một trải nghiệm nhỏ để khái quát thành quy luật. PG cảnh báo rằng không có pháp nào cố định để ta dựa vào mà suy rộng tuyệt đối. Lão–Trang cũng nhắc rằng các đối lập như đúng–sai, thiện–ác, đẹp–xấu đều chỉ là quy ước, không phải bản chất của đạo.
Bài học rút ra là muốn thấy đúng sự thật, con người phải vượt ra khỏi sắc tướng và những khuôn mẫu tâm lý vốn dễ dẫn đến thiên kiến. Chỉ khi ấy, ta mới nhận thức bằng trí tuệ thay vì thói quen phán xét. Nhận thức đúng, không chỉ là tri giác chính xác, mà còn là sự giải phóng bản thân ra khỏi những khuôn mẫu do tâm tự dựng lên. Nhiều vị cao tăng cho rằng để tu tập vượt ra khỏi sắc tướng cần phải thực hành chánh niệm và thiền định, thường xuyên quan sát tâm mình.
Tất nhiên khi đã nói đến chuyện học hỏi tu tập thì còn lệ thuộc vào nhiều điều kiện và yếu tố khác nữa, tuỳ duyên mà tạo tác. Theo thiển ý của mình, trong đời sống thường nhật nếu chỉ thực hành được một vài việc đơn giản cũng là ngon lành rồi. Ví dụ như chuyện gì cũng không nên vơ đũa cả nắm; thông tin thì cố gắng tìm hiểu từ nhiều nguồn khác nhau để hạn chế lệch lạc. Cũng không nên dễ dàng hoặc mù quáng tin theo người khác chỉ vì họ là tỉ phú, triệu phú, chức sắc, hay bằng này cấp nọ gì đó, mà nên thực chứng bằng kinh nghiệm của bản thân để tránh những thiệt hại không cần thiết và ảnh hưởng lâu dài đến cái "thấy biết" (tức là sự tỉnh thức giác ngộ) của bản thân. Chỉ mong được vậy !
Cho nên mình vẫn thường nói đùa rằng nếu “tu” hoài, đi chùa, làm phước, đọc kinh, tế lễ thường xuyên, mà vẫn còn phân biệt, vẫn còn bám chấp vào hình tướng bên ngoài, nào là fake news, ta địch, bên này bên kia, bằng này cấp nọ, hoặc danh xưng vô bổ để phán xét hay phân biệt, thì có lẽ vẫn còn… y nguyên nhị nguyên :-) .
Lan man chút vậy thôi. Thân chúc tất cả anh chị em và bằng hữu một cuối tuần an vui, bình an giữa mùa lễ hội.
PN
12/2025

No comments:
Post a Comment
Comments: