Khi nói đến “lối mòn tư duy”, hay những thói quen suy nghĩ và sự chấp trước của con người, có lẽ ít ai xác định được nó bắt đầu từ đâu. Có thể nó đã đồng hành với con người từ thuở sơ khai, hàng ngàn năm về trước. Với nhiều người, đó không còn là một phát hiện mới mẻ, mà gần như là một đặc tính cố hữu của con người, và chắc chắn, nó vẫn sẽ tiếp tục tồn tại cùng chúng ta trong nhiều thế hệ tới.
Tuy nhiên, gần đây, những chủ đề về thói quen suy nghĩ và khả năng phân tích vấn đề của con người được nhắc đến nhiều hơn. Song song với đó là sự xuất hiện nhiều tranh luận hoài nghi về năng lực “nhận thức” của con người, đặc biệt khi nói đến hiệu ứng đám đông và khả năng phân biệt "đúng, sai" của họ trong đời sống xã hội thường nhật. Có lẽ một phần nguyên nhân xuất phát từ việc thế giới trải qua quá nhiều biến động, xã hội bất ổn, công nghệ thay đổi chóng mặt, thông tin lan truyền nhanh chóng, thật giả lẫn lộn… Tất cả khiến lòng người trở nên hoang mang và mất phương hướng. Trong hoàn cảnh ấy, con người thường có xu hướng tìm kiếm một điểm tựa tinh thần, một nơi để đặt niềm tin, cho dù chỉ là tạm thời.
Thế nhưng mỗi người lại có một xuất phát điểm, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau. Vậy dựa vào đâu mới là đúng? Làm sao để phân biệt được "đúng, sai" giữa muôn vàn quan điểm trái chiều và mâu thuẫn, bội thực thông tin ? Chính trong những lúc như vậy, “lối mòn tư duy” lại âm thầm phát huy sức mạnh, bởi nó mang lại cảm giác quen thuộc, an toàn, không cần phải đặt lại câu hỏi hay thay đổi góc nhìn của bản thân. 😊
Thật ra, đây là một đề tài vừa sâu sắc, vừa đầy thách thức. Từ xưa đến nay, ai cũng biết lịch sử văn hóa và môi trường sống luôn ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành vi của con người. Trong những năm gần đây, khi công nghệ AI phát triển mạnh mẽ, các lĩnh vực nghiên cứu về tư duy và hành vi con người lại càng được chú trọng hơn, như một nỗ lực để hiểu rõ hơn về chính bản thân chúng ta trong một thế giới đang thay đổi từng ngày.
Nhìn lại bản thân, ngay từ khi còn nhỏ mình đã từng được “nghe”, được “biết” đến những điều mà chưa bao giờ tự mình kiểm chứng. Ví dụ như nghe dân tộc này thông minh, dân tộc kia anh hùng; người vùng này hào phóng, người vùng kia keo kiệt; miền này học giỏi, miền kia ham chơi; xứ này hay cãi, xứ kia hay co... Lớn lên một chút, lại tiếp tục bị nhồi nhét vào đầu những định nghĩa cứng nhắc cái này là đúng, cái kia là sai; làm như thế này mới là “yêu nước”, làm như thế kia mới là “anh hùng”; học giỏi như ông A, ông B thì mới được trọng vọng; trở thành bà nọ bà kia thì mới được xem là thành công; tu hành theo cách này mới là chánh pháp, theo cách kia là tà đạo..v.v.&.v.v...Và cứ thế, vô số hình tượng, khái niệm, nhận thức (dù đúng hay sai), cùng với những tập tục, thói quen, phương pháp suy luận được nạp vào đầu óc non trẻ từ rất sớm như những định đề tự nhiên, những khuôn mẫu xã hội hay quy ước vùng miền, trước cả khi mình có đủ trải nghiệm và khả năng tư duy độc lập để tự nhận thức, tự kiểm chứng xem điều gì là đúng, điều gì là sai.
Nhưng đó không phải là trường hợp cá biệt của riêng mình, mà là một thực trạng phổ biến hầu như ai cũng từng trải qua. Có người cho rằng sự khác biệt trong tư duy bắt nguồn từ việc gia đình này giáo dục tốt hơn gia đình kia, trường này có chất lượng hơn trường nọ, quốc gia này văn minh hơn quốc gia khác, hoặc thậm chí là do người này thừa hưởng “gen trội” hơn người kia..v.v. Mỗi người có thể tin vào những nguyên nhân khác nhau, nhưng xét cho cùng, phần lớn chúng ta đều được hình thành từ thuở ấu thơ bởi một “mớ” kiến thức được tích lũy từ gia đình, địa phương, nhà trường và môi trường sống xung quanh, những điều mà ta vẫn lầm tưởng là “trí tuệ” của chính mình.
Thực ra, chính ở giai đoạn tuổi thơ và thời tiểu học, trung học (bậc giáo dục phổ thông) mới là thời điểm quan trọng, bởi khi đó cái “tôi”, cái “riêng”, tức là hạ tầng tư duy, quan niệm và nhận thức, bắt đầu được định hình. Nó giống như một hệ điều hành âm thầm được cài đặt vào bộ máy tư duy của mỗi con người. Và phần lớn chúng ta lớn lên, mang theo hệ điều hành ấy như một điều hiển nhiên, ít ai nghi ngờ hay đặt lại câu hỏi. Tất nhiên, khi càng trưởng thành, càng học rộng hiểu nhiều, càng gặt hái nhiều thành tựu, càng trải nghiệm nhiều với những được mất trong đời, thì vị trí của cái “tôi” trong mỗi con người càng được củng cố và bảo vệ. Đó là điều hết sức bình thường trong quá trình phát triển cá nhân. Tuy vậy, cũng không thiếu những trường hợp ngược lại, chính vì cái “tôi” quá lớn, quá cố chấp mà dẫn đến thất bại, mất mát, thậm chí là cuộc sống bất an, hoài nghi, đầy oán trách, và dằn vặt. Khi cái tôi không được nhìn lại, không được đặt đúng chỗ, nó có thể trở thành rào cản ngăn con người sống nhẹ nhàng, rộng mở và cảm thông với chính mình lẫn người khác. Một số ít khi bị thất bại hoặc trở ngại trong cuộc sống, đôi lúc quá bận rộn tìm cách đổ thừa hoặc oán trách người khác, mà đã quên nhìn lại cái "tôi" hoặc lối mòn tư duy của mình, nên mất đi cơ hội hiểu thêm về bản thân, quả là đáng tiếc. Bên cạnh đó, cũng tồn tại sự nhầm lẫn giữa tự ái và tự trọng gây ra nhiều phiền phức. Trên thế giới có những dân tộc lòng tự trọng rất cao, nhưng cũng có những đất nước giàu lòng "tự ái", nên dẫn đến những văn hoá ứng xử khác nhau. Và đó cũng là những chuyện thường gặp trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Mở ngoặc chút, trong Duy Thức học, có giải thích “cái tôi vĩ đại” của con người có liên quan trực tiếp đến Mạt Na thức (thức thứ 7), bạn nào muốn nghiên cứu thêm về lãnh vực này thì nên đọc, rất hay. Còn đối với một số người tu học chân chính theo PG, họ thường thực hành theo những phương thức khác nhau như thiền tuệ, buông xả, sống tỉnh thức, chánh niệm v.v.. Cốt lõi không phải để đạt được điều gì to tát hứa hẹn, hoặc để chứng đắc quả gì, hoặc thần thông hay công đức gì, mà chỉ đơn giản là để tự nhận ra sự thật từ bản thân - vốn không có một cái tôi cố định nào đứng đằng sau những thực thể và cảm xúc "cá nhân" của họ, mà đó chỉ là những “điều kiện” đến rồi đi. Không có ai để đạt được điều gì, mà cũng không có ai cần để chứng minh hay thể hiện điều gì. Do đó lần hồi những dính mắc và tham ái cũng không còn chỗ để bám víu. Vậy thôi. Và đó cũng là phần quan trọng của khái niệm "vô ngã", mấu chốt nhất trong giáo lý PG).
Trở lại chuyện đời thường. Khi quan sát và hiểu thấu bản thân nhiều hơn, không ít người nhận ra rằng chính những tri thức được xây dựng trên nền tảng tư duy mặc định mang tính lý thuyết, vốn được tiếp nhận một cách vô thức từ môi trường sống, đã đưa con người ngày càng tiến gần hơn đến quan điểm “nhị nguyên” với những cặp phạm trù đối lập như đúng sai, thắng thua, đẹp xấu, được mất, thành bại, hạnh phúc khổ đau..v.v... Những cặp phạm trù tưởng chừng như tự nhiên ấy dần dà trở thành khuôn mẫu chi phối cảm xúc, hành vi, và cách nhìn đời. Và cũng từ đó, bao nhiêu tham, giận, sân, si âm thầm sinh khởi, len lỏi và vận hành trong suốt hành trình cuộc sống, hiện diện khắp nơi, đôi khi rất mạnh mẽ, mà ta lại hoàn toàn không hay biết.
Từng ngày, từng giờ, cuộc sống quanh ta vẫn đầy rẫy những nhận thức và suy nghĩ xuất phát từ những “lối mòn tư duy” nào đó, vốn được xây dựng từ nền tảng cái tôi cá nhân và hệ điều hành tinh thần mà ta vô thức thừa hưởng. Bạn bè, người thân, gia đình, và cả chính bản thân mình, không ai thật sự thoát khỏi sự chi phối của những khuôn mẫu tư tưởng ấy.
Từ những chuyện tưởng chừng rất đời thường như con cái học ngành gì, cưới hỏi ra sao, nhà xây mấy tấm, tiệc đãi mấy bàn… cho đến những câu chuyện xa xôi hơn, đi mây về gió bên Tây, bên Mỹ, xứ người. Nhiều người cả đời đã phải gồng mình chịu áp lực từ công việc mưu sinh, tha phương cầu thực, nhưng trong lòng vẫn cánh cánh một gánh nặng mang tên "quê nhà", nơi mà sĩ diện, hơn thua, và những nhu cầu “liền chị liền em” đã trở thành những chuẩn mực vô hình. Bởi vậy, dù mỗi người có hoàn cảnh và cách nghĩ khác nhau, nhưng tựu trung, tất cả đều ít nhiều mang theo dấu vết của những lối mòn tư duy cũ kỹ , như đã ăn sâu vào tiềm thức từ rất lâu. Những chuẩn mực ấy không chỉ tạo ra áp lực tâm lý nặng nề, mà còn tiếp tục đè nặng lên thế hệ sau bằng cách định hình một lối mòn suy nghĩ và hành xử, y như cái khuôn mà thế hệ trước từng bị đóng vào. Trong dòng chảy đó, không ít người đánh mất chính mình, sống theo ánh nhìn và sự khen chê của người khác, chạy theo kỳ vọng của đám đông mà không còn nghe thấy tiếng nói từ nội tâm. Họ lầm tưởng rằng mình đang gìn giữ “giá trị truyền thống”, nhưng thực chất, nhiều người chỉ đang vô thức trở thành nô lệ của những “di sản” tư duy lối mòn, một thứ ràng buộc vô hình. Những xiềng xích ấy lẽ ra cần được tháo gỡ, nếu ta thật sự mong muốn tìm lại sự tự do đích thực trong tâm hồn.
Nguy hiểm hơn, lối mòn tư duy không dừng lại ở những lựa chọn cá nhân nhỏ nhặt. Nó còn ngấm ngầm điều phối cả những vấn đề lớn lao hơn trong đời sống. Từ cách ta nhìn nhận người khác, đến cách ta phán xét, quy chụp, lập luận, thậm chí dẫn dắt dư luận đi đến những kết luận sai lầm. Đáng lo ngại là nhiều người phát ngôn hoặc lan truyền những suy nghĩ lệch lạc hoặc tin tức sai trái, lại không hề nhận ra sự sai lệch trong tư duy của chính mình. Khi tư duy bị đóng khung mà không được phản tỉnh, nó không chỉ giới hạn cá nhân, mà còn có thể trở thành rào cản cho cả sự phát triển của một cộng đồng.
Hãy thử quan sát kỹ một hiện tượng cuồng tín trong xã hội, một cuộc bầu cử ở một quốc gia dân chủ, hay một cuộc tranh luận về vấn đề “hòa hợp hòa giải dân tộc”… thậm chí chỉ là những bất đồng trong buổi họp lớp, họp đồng hương, hay thậm chí một cuộc họp mặt gia đình. Ở đâu cũng thấp thoáng bóng dáng của những lối mòn tư duy. Có thể cùng hướng hoặc trái chiều, nhưng đều xuất phát từ những khuôn khổ nhận thức đã được định hình bởi địa phương, văn hóa, hay hoàn cảnh sống mà chúng ta ít khi ngoái đầu nhìn lại.
Tất nhiên, Đông hay Tây, đã là con người thì khó tránh khỏi những rào cản tâm lý này. Ngoại trừ một số ít những bậc giác ngộ, còn lại từ bậc trí giả đến kẻ phàm phu, từ người quyền quý đến người nghèo khổ, thật ra cũng không ai giỏi giang gì hơn ai về mặt “thoát khỏi khuôn mẫu”. Mỗi người chúng ta đều có một hoặc nhiều "lối mòn tư duy" khác nhau, không ai hơn ai, chỉ là người nào khác ta, thì ta cho rằng họ sai ta đúng mà thôi :-). Thậm chí, người "học rộng hiểu nhiều" có khi lại càng bị trói buộc trong lối mòn tư duy sâu thẳm so với người bình dân. Lắm khi, càng đạt được những “thành tựu” theo chuẩn mực của đời thường, thì cái tôi lại càng phình to ra, lối mòn tư duy càng trở nên trơn tru, khó lòng nhận diện.
Mình nhớ có một ông chú quen đồng hương, học vị khá cao, tên tuổi nhiều người biết đến. Mỗi khi hỏi chuyện về ai đó ở quê nhà, chú thường hỏi: “Nó là con ai, cháu ai?” Mình thấy lạ vì ở nước ngoài it gặp chuyện như vậy. Có lần mình thắc mắc: “Vậy con ai, cháu ai thì có liên quan gì đến giá trị mà người đó đóng góp cho xã hội? Chẳng lẽ gen di truyền, tài sản ông bà, hay chức vụ cha mẹ lại quyết định hết thảy giá trị một con người?” Với trình độ và hiểu biết như chú, chắc chắn chú cũng biết rằng rất nhiều nhân vật kiệt xuất trên thế giới từng có xuất thân hết sức bình thường. Và ngược lại, ngay chính trên quê hương của chú, chắc cũng không thiếu những người có lý lịch "tốt đẹp" nhưng lại chẳng làm nên điều gì đáng nói ? Tuy nhiên hỏi là hỏi vậy, chứ thực ra cả hai đều đã nhanh chóng nhận ra nguyên nhân vấn đề "thích truy tìm nguồn gốc" của chú. Âu đó cũng là một lối mòn tư duy :-).
Thực tế, ở phương Tây hoặc tại một số quốc gia châu Á phát triển, người ta thường chú trọng đến năng lực và tư cách đạo đức của con người ở thời điểm hiện tại hơn là xuất thân hay quá khứ. Họ có xu hướng quan tâm đến những sự việc và sự kiện cụ thể đang diễn ra trước mắt, thay vì tin vào tin đồn, suy diễn, hoặc những lời truyền miệng thiếu kiểm chứng. Trong khi đó, tại VN, đặc biệt là ở một số vùng miền nhất định, tư duy "nghe ngóng", "đoán già đoán non", thậm chí là khả năng “nghe một đoán mười” lại được xem là biểu hiện của sự lanh lợi, khôn ngoan. Nhưng ít ai đặt câu hỏi liệu đó có thực sự là sự nhạy bén, hay chỉ là biểu hiện của một kiểu tư duy lệch lạc, cảm tính và đầy định kiến chủ quan.
Còn chuyện điều tra “lý lịch ba đời” thì vẫn tồn tại như một thói quen, thuộc tính cố hữu của một số vùng miền. Dù lý lịch ấy không nói lên được điều gì cụ thể về năng lực hay đạo đức, nó vẫn được xem như một chuẩn mực mặc định để đánh giá con người. Điều đáng nói là ngay cả khi đã sống ở nước ngoài nhiều năm, không ít người vẫn mang theo lối tư duy đó như một "hành trang" vô hình, một lối mòn tư duy chưa từng được nhìn lại.
Thôi dài quá rồi, mình xin dừng lại nơi đây. Nôm na, buổi sáng hôm nay bắt đầu thật nhẹ nhàng, dự định uống cà phê, ngắm hoa, nghe chim hót, rồi cắt mớ rau muống vô nấu canh bún riêu cua. Thế mà tình huống dẫn dắt thế nào, câu chuyện lại lan man sang buổi chiều với những suy ngẫm về “đường xưa lối cũ”.
Thực ra, lâu nay mình cũng ít khi theo dõi tin tức chính trị thời sự bên Mỹ. Thế nhưng mấy hôm nay, quý ông bạn già của mình ở đây, rôm rả nhắn tin, gọi điện, bàn tán hào hứng về vụ ông tỷ phú Musk chia tay "ly dị" với ông tt Trump. Có người độc đảng (chỉ thích cơm hoặc phở), có người lưỡng đảng (khoái cả 2 bên), có người "vô đảng" (không theo phe nào), có người “du đảng” (lúc theo bên này, lúc thích bên kia), và có cả ông “lãng đãng” (lúc nhớ lúc quên), cho nên những câu chuyện trở nên màu mỡ, lối mòn dẫm chéo lên nhau, tô vẻ đầy màu sắc !
Nhưng đã gọi là “lối mòn tư duy” thì đâu thể chỉ dừng lại ở “chuyện hai đứa chúng mình của ông Trump và Musk”. Câu chuyện của các anh, các chú, thường phải đi một vòng từ xóm thượng xuống xóm hạ, từ cánh phải sang cánh trái, có đầu có đuôi, kỳ nhông ông kỳ đà, kỳ đà cha cắc ké, cắc ké mẹ kỳ nhông… Nói chung là từ thời tiền MAGA năm trước, cho đến hậu MAGA hôm nay, không thiếu một chỗ nào. May là mấy hôm nay trời mưa, mình không phải tưới rau, ngồi nghe :-).
Riêng mình, lâu nay vẫn tin vào thuyết duyên khởi, đạo lý nhân quả & vô thường. Nên mọi chuyện xảy ra trên đời, theo mình đều là kết quả của những điều kiện hội đủ, đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan, không có gì ngoại lệ.
Vậy nên mình ngày càng ít quan tâm đến mấy chuyện chính trị chính em, đặc biệt là kiểu chính trị chửi bới, đâm chọt, dựng chuyện, gieo rắc thù hằn và chia rẽ lẫn nhau. Dù bên nào thắng hay thua, ma da hay ma cà rồng, thì với mình, điều đó chưa hẳn phản ánh trí tuệ hay đạo đức thực sự của họ. Theo quan niệm của mình, chê bai người khác là “xấu” không đồng nghĩa với việc mình là “tốt”. Lại càng không thể dựa vào những câu chuyện ngớ ngẩn vô căn cứ trên mạng, hay lối tư duy thiển cận để nhục mạ, bôi nhọ người khác rồi xem đó như một minh chứng cho sự hiểu biết của bản thân. Vì thực ra, hành vi đó thường chỉ nói lên điều ngược lại, rằng người cố tình phát ngôn phát tán tin tức lệch lạc đang thiếu đi chính điều mà họ cố tỏ ra mình sở hữu.
Chính vì thế, không nhất thiết phải lao vào những cuộc tranh luận một chiều. Thay vào đó, nên lùi lại quan sát, lắng nghe và nhận biết vấn đề một cách khách quan. Bởi sau cùng, kết quả thực tế mới là câu trả lời rõ ràng nhất. Mình chỉ mong rằng ai thắng cũng lo được việc cho đất nước, làm điều tốt, đừng gây thêm khổ lụy cho người dân đen dễ tin, dễ biểu, và thấp cổ bé họng.
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
(Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo)
Nguyễn Trãi
Nhìn lại cái đạo lý trị nước an dân của các tiền nhân ngày xưa như cụ Nguyễn Trãi quê ta, hoặc cách thức an dân kiến quốc của những vị tổng thống tài ba của đất nước HK ngày trước, rồi nhìn thực tế hôm nay quả nhiên là xa lạ. Tuy nhiên cũng có một thứ hơn hẳn ngày xưa, đó là bất kỳ lúc nào, những kênh truyền thông chính thống trên thế giới và các kênh YouTube tạp nham đều có những tin tức hoặc đề tài giựt gân, giựt tít, để đăng tải và câu viu :-).
Tản mạn chút cho vui, nhưng tất nhiên hy vọng lớn nhất vẫn là sẽ có lúc nào đó, mỗi người chúng ta chịu dừng lại để lắng nghe, để quan sát, để thấu hiểu bản thân nhiều hơn, để soi lại những lối mòn tư duy đã in hằn trong tâm trí lâu nay. Để cuộc sống cân bằng hơn, bớt đi định kiến, bớt đi lệch lạc, và mỗi sớm mai thức dậy có thể uống ly cà phê với tâm hồn nhẹ nhõm, tỉnh táo, và an nhiên hơn.
Chúc mọi người một cuối tuần an vui và đầy nắng ấm.
PN
No comments:
Post a Comment
Comments: