Showing posts with label Chuyện quê nhà. Show all posts
Showing posts with label Chuyện quê nhà. Show all posts

Sunday, September 14, 2025

Tản mạn - Sân ga và những đoàn tàu ....

 


Hôm rồi ngồi kiếm vé xe lửa đi miền Trung chiều cuối năm. Thằng bạn thắc mắc hỏi: "thời buổi này người ta đi máy bay, xe hơi, chứ mấy ai còn đi tàu lửa ?" Thực ra cũng không nhớ là bắt đầu từ bao giờ, mình rất thích đi xe lửa và luôn có ấn tượng sâu sắc về sân ga & đoàn tàu. Có thể là lần đầu một mình rời làng quê cũng trên chuyến tàu lửa chăng ? Hay là thời còn đi học, những ngày bao cấp đói nghèo, những chuyến "phượt" ngang dọc trên những đoàn tàu chen chúc, cũ kỹ? Đến khi ra nước ngoài đi học đi làm, mình cũng khoái đi xe lửa. Nhớ hồi còn làm việc bên London, cuối tuần thường xuyên bắt xe lửa từ Wimbledon hoặc St Pancras chạy qua Gare du Nord bên Tây, ghé quận 13 ăn món VN, la cà cafe sửa đá, nghe nhạc Cung Tiến, Ngô Thuỵ Miên, TCS, Phạm Duy ...Ở châu Âu, đi EuroStar vừa tiện ích ngắm cảnh trời mây non nước, mà hút thuốc cũng dễ dàng :-). Sau này về VN làm việc, thì không cần phải đi đâu xa để nghe nhạc và ăn bún, ăn phở nữa. Nhạc thì karaoke của hàng xóm, kẹo kéo của đường phố đủ để đáp ứng mọi nhu cầu cần thiết. Thức ăn ở VN thì thôi khỏi bàn, chỗ nào cũng có đặc sản, con nào nhúc nhích được là "tươi sống". Thế nhưng, mình lại càng thích đi tàu lửa, đi để yên tĩnh, đi để đọc một cuốn sách, hay đi để suy tư một điều gì đó, hoặc có lúc chỉ đơn giản là đi để mà đi, chứ không phải đi để mà đến. Tối lên ga Hoà Hưng, làm vài lon bia hay chai rượu, con mực khô, dĩa lòng cánh gì đó, nghe nhạc, suy nghĩ mông lung, chợp mắt chút đã đến nơi rồi. Về quê cũ, gia đình không còn ai ở đó. Mượn chiếc xe máy của bạn bè chạy lòng vòng, lên núi xuống biển, thắp cây hương, ăn tô bún, làm vài chén bánh bèo gì đó. Tối về thị xã, rủ vài đứa bạn ra bờ sông ngồi vỉa hè, lai rai ngắm trời ngắm mây ... rồi đi. Vậy mà thấy vui !

Nôm na là những hình ảnh cũ của sân ga và đoàn tàu vẫn còn lưu luyến và dính mắc. Sân ga buổi sáng mờ sương, những dãy ghế dài còn vương hơi lạnh đêm qua. Người chờ tàu cầm trong tay tấm vé nhỏ, ánh mắt luôn hướng về đường ray như mong một tín hiệu báo tin quen thuộc. Từ xa, tiếng còi tàu ngân dài, âm thanh vừa dứt khoát vừa nôn nao, như nhắc nhở ai đó sắp bắt đầu một hành trình mới. Mỗi toa tàu như một ngôi nhà nhỏ, chở theo bao nhiêu mảnh đời, người đi xa học hành, lam lũ mưu sinh, người về quê thăm mẹ, người lặng lẽ ra đi mang theo những ngậm ngùi. Lên tàu, khung cảnh trôi qua không ngừng, đồng lúa bát ngát, sông núi mênh mang, làng quê nép mình dưới mái khói lam chiều... Sân ga cũng là nơi chứng kiến biết bao cuộc tiễn đưa, đoàn tụ. Những nụ cười xen lẫn giọt nước mắt, cái nắm tay níu lại phút cuối, hay cái ôm vội vã trước khi bước lên tàu. Mỗi lần tàu lăn bánh, khoảng trống ở sân ga lại rộng ra, để lại dư âm xao xuyến trong lòng người ở lại. Đôi lúc có cảm giác như nó đang nhắc nhở ta về hành trình đời mình, luôn gắn liền với những khởi đầu và sự trở về.

Có một nhà thơ miền Trung mà mỗi lúc nhắc tới sân ga là nhớ tới ổng. Đó là Vũ Hữu Định, tác giả của bài thơ "Còn chút gì để nhớ" mà nhạc sĩ PD phổ nhạc. Ngày xưa mình rất thích bài thơ "Kẻ ở lại" của ông, cũng nói về ga & tàu, nhưng nghe rất "thiền". Và cũng chính sân ga & đoàn tàu đó, sau năm 75 lại trở thành một nỗi khát vọng của ông (Đêm nghe còi tàu). Thơ ông có nhiều uẩn khúc, rất đời thường, còn chuyện hay dở, thưởng thức được là tuỳ vào tâm trạng và hoàn cảnh của riêng mỗi người. 

Thời còn đi học, mình thường đi lang thang đây đó. Có lần đi "phượt bụi" với một ông bạn hiền ở SG. Ra tới Nha Trang là đã hết tiền, chỉ còn đủ mua vài trái xoài và vài xị rượu đế, uống để say rồi ngủ, chờ đến ga nào đó xuống. Đến ga gà, hai đứa leo xuống, vì nhảy tàu nên không có vé ra cửa. Tường rào sân ga có một cái lỗ "nhân tạo" để mấy người buôn lậu chui ra vào. Mình kêu anh ra bằng ngõ đó. Ông bạn mình thuộc loại gốc "tư sản mại bản" chính hiệu, nhất định không chịu hạ mình như thế. Mình nói - vậy anh ở lại đi tui đi trước nghen. Cuối cùng anh cũng ấm ức chui ra theo :-).

Rồi thời thế mấy chục năm không gặp. Khi mình trở lại VN, anh đã trở thành một đại gia tên tuổi. Lần đầu tiên gặp lại, anh kêu lính lác bạn bè đông đủ đế giới thiệu mình với họ. Câu đầu tiên anh giới thiệu với thiên hạ là: "Đây là người đầu tiên dẫn tui chui lỗ chó, và đó cũng là lần duy nhất". Mình cười hì hì - " Biết đâu nhờ lần chui "lỗ chó" đó mà ngày nay anh mới trở thành đại gia ?". Âu đó cũng là duyên, thoáng chốc đã qua mấy chục năm rồi, nhanh thật.

Mà chắc là mình cũng có duyên nợ gì đó với ga tàu, cứ lâu lâu lại có chuyện liên quan đến nó. Mình vốn quen một anh bạn VK, rất am tường về PG, đặc biệt là tình hình PG ở quê nhà. Anh từng đi nhiều chùa từ Nam ra Bắc, từ Á sang Âu, quen biết nhiều sư thầy nổi tiếng; chùa to chùa lớn, anh đều biết tất. Đôi lúc nói chuyện, anh chê trách mình không cập nhật tin tức, không chịu theo dõi ông sư này ông thầy kia giảng thuyết trên mạng. Quả nhiên đúng vậy, bởi mình rất ít quan tâm đến những chuyện "giảng thuyết" của các vị, lại càng lạc hậu về những tin tức thời sự và kiến thức tôn giáo như anh. Có lần anh hỏi mình "Hiểu sao về luân hồi ?". Câu hỏi hóc búa quá, mình trả lời - "Thì chắc cũng như đi xe lửa thôi. Muốn đi đâu đó thì mới mua vé đi, hết ham muốn thì không mua vé nữa. Vậy thôi!". Lần nữa, anh lại hỏi " Hiểu sao về thiền ?". Mình lại trả lời - "Thì chắc cũng như ra sân ga ngồi thôi. Nhìn những đoàn tàu đến, rồi đi. Tiếng còi tàu, tiếng tà vẹt, tiếng rao hàng, tiếng chửi lộn ...vang lên rồi tắt. Không chạy theo, không vẫy gọi, không chờ đợi, không mơ ước, không nhớ nhung, mà cũng chẳng coi ai là "ga nhỏ dọc đường"... Nhà ga thì vẫn ở đó, sân ga thì vẫn ở đó. Vậy thôi !". 

Thế là lâu nay, anh không thèm hỏi chuyện "đạo" với mình nữa :-)

Lần này hết chuyện đạo, sang đến chuyện đời. Cớ là mấy ngày qua nước Mỹ có một sự kiện thu hút nhiều sự chú ý của truyền thông và xã hội. Đó là một vụ ám sát kinh hoàng. Tất nhiên hành động ám sát dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều là bạo lực chính trị, cần được lên án mạnh mẽ. Nạn nhân là một thanh niên trẻ tuổi, quen thân với tổng thống Mỹ và các quan chức chính quyền đương nhiệm. Anh ấy thường có những cuộc diễn thuyết về quan điểm sống & xã hội với giới trẻ HK. Anh ấy ra đi là một sự mất mát lớn lao cho gia đình và những người theo dõi ủng hộ anh ta. Anh bạn VK của mình cũng gọi điện và tiếc thương cho một nguời trẻ tuổi có tài. Nói thêm chút, xưa nay việc bất đồng quan điểm là chuyện rất bình thường trong cuộc sống. Con người trong xã hội văn minh cần tôn trọng sự khác biệt đó, cần tranh luận ôn hoà với nhau để tìm ra một giải pháp chung. Ai cũng có quyền tự do diễn đạt ý kiến của mình. Không thể nào vì quan điểm khác biệt mà đe doạ, thậm chí giết chóc nhau, hoặc dùng bạo lực để cưỡng bức bịt miệng người khác. Bên cạnh đó xã hội nào cũng cần phải tỉnh táo để không bị lôi cuốn vào vòng xoáy hận thù của một thiểu số cực đoan. Thực ra thì trước đây mình cũng chưa từng được nghe một bài nói chuyện hoặc diễn thuyết nào của nạn nhân, nên cũng không có ý kiến gì, mà chỉ ngồi nghe anh bạn của mình nói là chính. Sau đó, mình có vào mạng để tìm hiểu, mới biết ra nạn nhân là một người trẻ có tài tranh luận và có sức ảnh hưởng lớn với những người ủng hộ anh ta, đặc biệt là với vị tổng thống đương nhiệm và nội các của ông. Bên cạnh đó mình cũng ấn tượng là ở Mỹ có nhiều người gốc Việt quan tâm đến chính trị phe phái đến vậy, hơn hẳn các gốc dân châu Á khác !

Nói đúng ra, thì cũng có rất nhiều người Mỹ chưa hề biết đến tên anh này, cho đến khi vụ ám sát xảy ra. Quả nhiên là vậy, vì không phải ai ở xứ này cũng quan tâm đến đảng phái chính trị, phe nọ phe kia, hoặc ông này bà nọ. Đại đa số dân Mỹ luôn tôn trọng pháp luật, tuân thủ nghĩa vụ đối với xã hội và quốc gia, quan tâm đến công việc làm ăn. Họ coi trọng cuộc sống vui vẻ cùng gia đình, theo đuổi những thú vui sở thich cá nhân, tham gia những sinh hoạt cùng bạn bè, và cộng đồng thân quen của họ. Ngoài ra, nhiều người có những lý tưởng sống cao cả, thiện nguyện, hy sinh cống hiến cho thế giới hoà bình, cho người khác, cho xã hội, cho cộng đồng, cho tín ngưỡng, cho môi trường, hoặc cho những giá trị cuộc sống khác nhau, chứ họ không nhất thiết phải để tâm đến chuyện đảng phái chính trị, tả hữu xanh đỏ. Đến ngày bầu cử, họ làm tròn nghĩa vụ công dân, đi bầu rồi xong, vui vẻ chấp nhận kết quả, chứ cũng không dành nhiều thời gian để cãi vả tranh chấp như những người mù sờ voi, làm cho gia đình, con cái, bạn bè, xáo trộn cả lên. Những lần bầu cử ở Mỹ, bạn bè gọi điện thoại hỏi thăm mình về ông này bà kia, làm mình kinh ngạc vô cùng. Ngay cả dân Mỹ chính hiệu cũng không phải ai cũng đi bầu cử, càng không phải ai cũng tham gia đảng phái họp hành gì. Xưa nay vị tổng thống Mỹ nào đắc cử được số phiếu tầm hơn 1/5 dân số (70 triệu), hoặc là trên 60% dân số thuộc diện đi bầu, là cao ngất ngưỡng rồi. 

Tuy nhiên mình rất ngạc nhiên là nhiều người ở VN nhưng lại biết rành rẽ về chính trường của Mỷ, còn hơn cả những bạn bè bản xứ của mình. Đáng phục hơn nữa là có một số đồng hương VK sống tại Mỹ, mặc dù tiếng Anh tiếng u chưa rành lắm, nhưng đã cố gắng phân tích tình hình chính trị đảng phái, cánh tả cánh hữu, lập ra nhiều kênh Youtube truyền thông, hoặc đọc báo mạng rồi phát tán mạnh mẽ cho đồng bào trong và ngoài nước. Sự nhiệt tình và thông thạo của họ còn hơn hẳn những nhà phân tích chuyên nghiệp. Ngẫm lại, dân VN ta nhiều người có năng khiếu đặc biệt về chính trị. Dường như ai cũng có ước mơ được công nhận và những nhu cầu đóng góp thầm kín !

Trở lại câu chuyện chính, anh bạn VK hỏi mình suy nghĩ thế nào về chuyện phân hoá chia rẽ cánh nọ cánh kia như tình hình hiện nay ở Mỹ. Mình nói - Anh hỏi nhầm người rồi, nhưng chắc là cũng giống chuyện xe lửa ở bên nhà :-). Anh hoảng hồn - Lại là chuyện xe lửa nữa hả ?

Thực ra thì hình tượng sân ga và đoàn tàu gần gũi với mình, nên dễ liên tưởng hơn. Còn chuyện chính trị chính em, cánh nọ cánh kia, thì xa vời với mình quá. Nhớ lại lúc còn ở VN, có một thời, hình ảnh quen thuộc của đất nước là những đoàn tàu chậm rãi nối liền hai miền Nam Bắc. Mỗi chuyến tàu không chỉ chuyên chở con người và hàng hóa, mà còn chở cả những câu chuyện thầm lặng, một người con xa xứ trở về quê hương, một đôi vợ chồng trẻ vào Nam lập nghiệp, những đứa học trò nhà quê đi thi, hay cụ già tóc bạc lần đầu ra Bắc thăm lại cố hương... Những gương mặt trên tàu, dẫu xa lạ, vẫn mang chung một nhịp thở của hành trình xuyên Việt, nơi ký ức và hiện tại hòa quyện vào nhau. Đoàn tàu đi qua những miền đất quen thuộc, ruộng đồng mênh mông, eo biển rì rào, núi đồi xanh thẫm, rồi lại lướt qua những đô thị rực sáng đèn điện, hay những xóm nghèo chen chúc. Ngồi trên toa tàu, người ta thấy đất nước mình trải dài, vừa gần gũi vừa rộng lớn. Có lúc, chỉ cần nhìn qua ô cửa kính, ta đã thấy như đi qua cả một đời người, từ tuổi thơ hồn nhiên ở miền quê, đến những chặng đường đời gấp gáp của đô thị, và những giây phút lặng im trước biển khơi dạt dào sóng gió.

Những đoàn tàu ấy, khởi đầu và kết thúc, cũng chỉ là những đoàn tàu, mục đích duy nhất là để chuyên chở con người và hàng hoá từ nơi nọ đến nơi kia. Nhưng rồi để có sự nhận biết phân biệt, người ta bắt đầu đặt tên cho nó, tàu Thống nhất, tàu SE1, SE2, SE3, tàu nhanh, tàu suốt, tàu chợ, tàu ra Bắc, tàu vào Nam. Lần hồi, bắt đầu có sự phân biệt. Ví dụ như - lợi nhuận buôn bán khác biệt giữa tàu này với tàu kia, khách tàu Bắc-Nam khác với khách tàu Nam-Bắc, khách tàu chợ khác với khách tàu suốt .v.v... Sự phân biệt cứ thế hình thành và phát triển ra nhiều hướng khác nhau. Dạo ấy, những đoàn tàu tiện nghi còn chưa được như bây giờ. Nghe nói đến một cung đường nhất định nào đó, mọi đoàn tàu đều phải dừng lại để xả phân thải từ các bồn cầu xuống đường ray, rồi đi tiếp. (Chuyện này không biết bây giờ còn không, mình không kiểm chứng được). Có lần, bị dịch bệnh gì đó, nhiều người bắt đầu bức xúc, phân biệt kỳ thị, phản đối, cho rằng mỗi ngày có hàng ngàn tấn phân từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc. Phân của đoàn tàu này này nguy hiểm hơn phân của đoàn tàu kia, phân này xấu hơn, phân kia lây bệnh, phân nọ thối hơn ....v.v...và v.v ... 



Tất nhiên con người thì cứ phân biệt và bôi xấu lẫn nhau như một đặc tính cố hữu, nhưng đoàn tàu thì vẫn lặng lẽ làm nhiệm vụ của mình. Mỗi người bước lên tàu đều mang theo một điểm xuất phát, một hoàn cảnh riêng, không ai giống ai. Có người từng trải, có kẻ non nớt; có người đi để đoàn tụ, có kẻ đi vì mưu sinh... Sự khác biệt ấy là tự nhiên, và đa số biết chọn cách dung hòa, thích ứng. Bởi lẽ, không ai có thể vì những dị biệt ấy mà chém giết nhau, hay mãi mạt sát nhau. Nhưng cuộc sống vốn chẳng lý tưởng vậy. Luôn có những người không chịu được sự khác biệt. Họ thổi phồng nó lên, khai thác sự non nớt, sự ngây thơ, để lừa lọc, để mưu lợi cho bản thân hay cho một phe nhóm nào đó. Ngay cả khi đang ngồi chung trên một chuyến tàu, họ vẫn không ngừng so đo, rỉ rả chê trách: rằng chuyến tàu vào Nam tốt hơn chuyến tàu ra Bắc, SE1 tốt hơn SE2, toa này sạch hơn toa kia… Người chửi cứ chửi, kẻ lợi dụng cứ lợi dụng, người ngây thơ cứ tiếp tục bị gạt gẫm. Và đoàn tàu, vẫn mặc nhiên lăn bánh, không phân biệt đúng sai, không phán xét ai cả.

Mình nói với anh bạn VK của mình: “Đó, những chuyến tàu ngày xưa khiến tôi liên tưởng đến đảng phái, đến lề trái lề phải trong một đất nước. Sự liên tưởng đó không hề nhằm phân biệt hay ám chỉ quốc gia nào. Bởi mỗi dân tộc đều có những giai đoạn thăng trầm, những lần vấp ngã, những bài học xương máu để trưởng thành. Câu hỏi đặt ra là - những người trong cuộc có nhận ra sự nguy hiểm tiềm tàng của vấn đề chia rẽ dân tộc hay không? Tôi tin là có. Nhưng liệu họ có vượt qua và thắng được chính tham vọng cá nhân của họ, để đặt lợi ích chung lên trên? Đó mới là câu chuyện lớn, và cũng là thách thức khó khăn nhất của bất kỳ quốc gia nào. Và cuối cùng phần quan trọng nhất, là ở những lúc đất nước bị chia rẽ hận thù như thế, người lãnh đạo có đủ tầm nhìn và khả năng lèo lái để hàn gắn và kết nối, hay ngược lại càng khoét sâu vào vết thương dân tộc?"

Anh nghe xong im lặng. Còn mình, bỗng nhiên nghĩ đến những câu thơ của Vũ Hữu Định ngày xưa ....

ngồi đường xe lửa chạy
gõ sắt buồn mênh mông
trước mặt ta biển lặng
sau lưng ta là rừng

mỗi ngày như chứng bệnh
ra ngồi nhìn đường tàu
hai con đường mút mắt
xuôi ngược buồn như nhau

ở đây không ai đi
ở đây không ai về
chỉ còn ta ở lại
lang thang ôm hồn quê

ở đây không còn nhà
chỉ còn ta với cỏ
còn những người dưới mộ
với lũ chim giang hồ

những ngày giặc không qua
ta đi tìm năm cũ
ngồi trên nền trường xưa
gỡ những màn rêu phủ

những ngày giặc không về
ta ra ngồi đường tàu
gõ sắt và đếm nhịp
so nhịp tim ta đau

những đêm vắng thật vắng
ta đi trong làng quê
tìm một con đom đóm
đốt sáng tình ủ ê ....
(VHD)

Thân chúc anh và bạn bè thân hữu một cuối tuần an vui .

PN


Sunday, August 17, 2025

Mạn phép trả lời ....



Vài ngày trước mình có viết bài phiếm "Loạn thế anh hùng" nhân dịp ông Trump và Putin hẹn gặp nhau ở Alaska. Viết cho vui thôi, nhưng nhận được nhiều phản hồi rất có giá trị và hữu ích từ các bằng hữu. Xin thành thật cảm ơn các bạn đã theo dõi và góp ý. Hôm này xin mạn phép trả lời một vài ý kiến của các bạn.

Trước hết có bạn hỏi: “Gặp mặt vậy thực sự có kết quả gì không? Giống như chủ đầu tư gặp cưỡng chế, mà không có chủ đất tham gia”. Thực ra cách ví von này cũng hay, nhưng không phải ai cũng hiểu được (mình biết trong này có nhiều bạn phải dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh để đọc). Theo thiển ý của mình, ở tầm cỡ quốc gia, với lực lượng cố vấn hùng hậu, tất nhiên việc làm nào cũng có chủ đích cả. Còn việc chủ đích đó có giống như bạn hoặc thiên hạ nghĩ hay không thì lại là chuyện khác. Mỗi người có cách hiểu và mục đích riêng của họ. Đại đa số nghĩ rằng cuộc họp mặt đó là vì hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Điều đó cũng hợp lý thôi, nhưng thực tế thì biết đâu mà lần, nếu có nắm rõ thì chỉ có người trong cuộc mới biết. Cho nên với câu hỏi “kết quả thực sự là gì?”, mình xin thưa là không biết, và cũng không thể gán ghép suy nghĩ của mình vào suy nghĩ của các vị kia được. Một số nhà phân tích thì dựa vào tính cách và tư duy, mức độ khả tín về những hứa hẹn xưa nay, hoặc "ngôn ngữ cơ thể" của 2 vị để đoán biết kết quả cuộc hội đàm. Mình thì không tin lắm về những đồn đoán như vậy, mà luôn cho rằng - kết quả bao giờ cũng là câu trả lời đúng nhất. Đợi thôi. Một bậc "thầy" đàm phán, một "thiên sứ" xuống trần, gặp một "cao thủ" đu bám, một "lãnh đạo tài ba" mà mấy chục năm nay không ai có thể thay thế, thì chắc là có nhiều chuyện hay để nói :-). Hy vọng hai bên đều có những mục đích cụ thể để theo đuổi. Nếu không thì vài bữa nữa lại có dịp gặp nhau ở Mạc Tư Khoa để nghe câu hò Nghệ Tĩnh :-).

Ngoài lề chút, ngày xưa trong binh pháp Tôn Tử có kế thứ 2 là "Vây Nguỵ cứu Triệu". Sau này nhiều quốc gia, nhiều nhà lãnh đạo thế giới, mặc dù không hiểu tiếng TQ, chưa hề ăn dim sum, hoặc chưa hề đọc binh pháp, nhưng vẫn thường xuyên xử dụng kế sách đó khi cần giải nguy hoặc chuyển hướng những tình trạng khẩn thiết như kinh tế nhức đầu sổ mũi, mâu thuẫn nội bộ, dư luận bất lợi ..etc.. Bởi vậy, chính trị chính em thì thiên biến vạn hoá, hư hư thực thực. Đoán mò hoặc gán ghép chỉ là vẽ rắn thêm chân, đôi khi còn tổn hại đến sự tỉnh táo của bản thân. Xưa nay nhiều sự kiện nhìn từ bề ngoài kết quả không giống như đám đông "mong đợi", nhưng lại là kết quả "mĩ mãn" dưới mục đích khác của người trong cuộc. Hoặc có khi đám đông tự suy diễn và đánh giá quá cao ý nghĩa thực sự của vấn đề, làm cho câu chuyện mặn mà thêm. Đó cũng là chuyện thường tình :-).

Kế đến, là ý kiến rất thú vị của một anh bạn khác, cho rằng "... Hai người tuy tính tình khác nhau, nhưng giống nhau ở chỗ là cả hai thiếu hẳn yếu tố “vị tha,” chỉ có yếu tố “vị kỷ” thôi. Một người muốn làm người được ngưỡng mộ nhất thế giới. Người kia muốn làm người quyền lực nhất thế giới. Cả hai đều vui mừng khi người khác sợ họ. Tôi chưa từng nghe nói đến một vị "anh hùng" nào có những đặc điểm đó..."
Rất cảm ơn anh về sự chia sẻ này. Đồng ý với nhận xét của anh, và muốn trao đổi thêm với anh về hai yếu tố “vị kỷ” và “vị tha”, theo cách nhìn riêng trong cuộc sống, chứ không nhất thiết liên quan đến vị lãnh đạo nào. Chắc hẳn mọi người đều biết vị tha và vị kỷ vốn là tính cách cố hữu của con người, kẻ ít người nhiều đều có. “Vị kỷ” thì dễ thấy, bởi thường gắn liền với tiền tài, danh sắc, quyền lợi cá nhân, nên ai cũng có thể dễ dàng nhận ra từ chính bản thân. Còn “vị tha” thì khó nhận ra hơn, vì ai cũng nghĩ mình cao thượng, dễ tha thứ, và giàu lòng nhân ái. Nhưng thực ra, nó gắn chặt với cái "ngã" bên trong, và con người rất dễ tự đánh lừa bản thân rằng mình “cao thượng”, "vị tha", cho đến khi gặp chuyện thử thách.

Tất nhiên, không ai vì làm vua, làm quan, mà tự nhiên trở nên “vị tha” hay “vị kỷ” hơn, trừ khi chính họ có sự tỉnh thức để nhận biết giới hạn bản thân, và thực hành sống buông xả. Tuy nhiên mình nghĩ, một người bản chất ham muốn quyền lực thì khó có thể tỉnh ngộ và buông bỏ như một người bình thường hoặc có chút tu tập. Có nhiều người khi hoàn cảnh thay đổi thì tính cách cũng đổi thay, có thể tốt hơn hoặc xấu đi. Nhưng một khi đã nắm quyền lực mà không có lòng vị tha, ích kỷ nhỏ nhen, thì quả thật là đáng sợ. Lịch sử xưa nay tuy không nhiều, nhưng vẫn có những nhân vật như thế, và họ để lại đầy rẫy hận thù, trả đũa, gieo rắc bất an, hơn thua nhau từng vấn đề nhỏ nhặt, trở thành nỗi sợ hãi, lo lắng cho nhiều người. 

Theo mình, một đất nước sẽ được bình yên khi có những người lãnh đạo giàu lòng vị tha, ít vị kỷ. Như VN thời Lý Trần, phồn thịnh an vui, vì có nhiều vị vua giàu lòng nhân ái. Trên trường quốc tế cũng vậy, khi những cường quốc có những nhà lãnh đạo tự trọng, khiêm cung, giàu lòng vị tha, thì thế giới sẽ có những năm tháng bình ổn, và phát triển thuận lợi. Nhưng cuộc sống này vốn vô thường, không thứ gì có thể tồn tại mãi theo ý muốn con người, và lịch sử luôn có những bài học đắt giá cần phải nếm trải!

Nhớ có lần ngồi chuyện phiếm, người bạn hỏi “Ngày nay, trên thế giới có còn lãnh đạo nào thật sự vị tha, nghĩ cho thiên hạ mà không vướng vào ích kỷ cá nhân không?” Mình chợt nhớ đến các vị như Gandhi, Mandela, Lincoln, Havel, Đức Đạt Lai Lạt Ma ... những con người từng không chọn con đường trả thù hay chém giết, mà chọn khoan dung, lấy tình cảm và trí tuệ để hóa giải hận thù. Họ được kính trọng vì đặt lợi ích dân tộc và nhân loại lên trên lợi ích cá nhân. Mahatma Gandhi (Ấn Độ), lãnh đạo phong trào độc lập, chọn con đường bất bạo động, vị tha và khoan dung, được cả thế giới kính phục. Nelson Mandela (Nam Phi), sau 27 năm tù tội, vẫn chủ trương hòa giải thay vì trả thù, tạo ra hình ảnh lãnh đạo không vị kỷ, hết lòng vì dân tộc. Abraham Lincoln (Mỹ), lãnh đạo nước Mỹ vượt qua nội chiến, chấp nhận hy sinh cá nhân để bảo vệ sự thống nhất và tự do. Václav Havel (Tiệp Khắc), nhà văn, nhà hoạt động, và trở thành tổng thống. Ông được tôn trọng vì tinh thần khiêm nhường, dùng quyền lực để củng cố tự do, dân chủ, thay vì mưu cầu lợi ích cá nhân. Havel từng nói: “Quyền lực có thể làm tha hóa, nhưng quyền lực chỉ thực sự có ý nghĩa khi phục vụ cho sự thật và con người. Đức Đạt Lai Lạt Ma (Tây Tạng), mặc dù sống lưu vong, bị TQ truy đuổi, Ngài trở thành biểu tượng toàn cầu của từ bi, khoan dung và bất bạo động. Ngài không tìm cách củng cố quyền lực cho riêng mình, mà dấn thân vì quyền lợi và văn hóa Tây Tạng, đồng thời kêu gọi hòa bình cho nhân loại..v.v.. Và chắc chắn còn nhiều vị lãnh đạo giàu lòng vị tha, thay vì vị kỷ và đam mê quyền lực, mà mình không nhớ hết.

Trong lịch sử VN, hẳn nhiều người không thể quên Hội thề Đông Quan. Sau bao năm máu lửa, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi soạn Bình Ngô đại cáo, tuyên bố giặc Minh đã thua, nhưng đồng thời lại cho phép họ rút quân về nước, giữ vẹn tính mạng. Đó không phải sự yếu mềm, mà là sự rộng lượng của kẻ mạnh. Tha cho hàng vạn binh lính đã từng tàn phá xứ sở này, chính là một chiến thắng lớn hơn mọi trận đánh, chiến thắng của lòng người. 

Trước đó, thời Trần chống Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo từng dặn dò vua và triều đình: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước chung sức thì giặc tự phải tan.” Ông hiểu rằng muốn thắng giặc ngoài, trước tiên phải hòa khí trong nhà. Đích thân ông còn tắm cho Trần Quang Khải, hóa giải hiềm khích để gắn kết nhân tâm. Ấy cũng là một dạng vị tha, dẹp cái tôi nhỏ bé để giữ cái đại nghĩa muôn dân. Và cũng trong nhà Trần, vua Trần Nhân Tông sau khi đánh thắng giặc, không sa vào quyền lực hay hưởng thụ, mà lui về Yên Tử, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm. Một vị vua vừa cầm quân nơi trận mạc, vừa gác bỏ ngai vàng để đi tu, để gieo hạt mầm an lạc cho dân. Đó chẳng phải là biểu hiện đẹp nhất của “vị tha” hay sao?

Nhìn lại, ta thấy những bậc anh hùng xưa đều hiểu rằng sức mạnh không chỉ nằm ở gươm đao, mà ở chỗ biết buông bỏ đúng lúc, biết lấy lòng nhân để thắng lòng người. Họ không vị kỷ, không chỉ nghĩ cho bản thân, mà chọn con đường để lại sự bình an cho cả một dân tộc. Họ không bao giờ cần ai phải sợ hãi, cũng không cần phải hiếp đáp ai, và càng không cần ai phải ngưỡng mộ mình. Ngày nay, chúng ta chứng kiến quá nhiều nhà lãnh đạo thích khoe cơ bắp, thích tiếng vang và sự ngưỡng mộ bề ngoài. Nhưng rồi cũng có những con người âm thầm làm điều nhỏ bé mà vĩ đại như một quyết định nhân đạo, một cái bắt tay hàn gắn, một sự nhún nhường để tránh đổ máu. Đó mới chính là những chiến thắng thật sự. Có lẽ, trong thực tại hôm nay, chúng ta cũng cần những “anh hùng” theo nghĩa ấy - không phải là người hô hào những lời lớn lao, mà là người đủ vị tha để đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Bởi đôi khi, thắng lợi lớn nhất của một quốc gia hay một cộng đồng không phải là chiến thắng đối thủ, mà là chiến thắng chính lòng tham và cái ngã của mình.

Cuối cùng, có một bạn hỏi: “Liệu những xung đột như thế này có thể dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba hay không?” Xin thưa, ai mà biết được! Cuộc sống vốn vô thường, cái gì đến thì sẽ đến, khi hội đủ những điều kiện nhất định nào đó. Đó cũng chính là khái niệm “duyên khởi” trong Phật giáo. Sợ hãi hay lo lắng vốn chẳng giải quyết được điều gì. Mặt khác cũng nên biết, xưa nay những ông vua chúa thích dựa hơi hù doạ lại thường là người yếu đuối nhất :-).

Một nhà lãnh đạo chân chính luôn đặt việc an dân của đất nước mình và sự bình ổn của thế giới lên hàng đầu, bởi họ đủ thông minh để hiểu rằng trong bối cảnh chính trị ngày nay, an ninh của một quốc gia không thể tách rời khỏi an ninh thế giới, cho dù quốc gia đó có mạnh mẽ đến đâu. Nhưng cũng có những người lợi dụng sự hoang mang, sợ hãi của dân chúng, để tạo vị thế và quyền lực cho bản thân hoặc lợi ích nhóm. Thậm chí, lịch sử không ít kẻ vì tham vọng cá nhân đã không ngần ngại tạo ra chiến tranh chết chóc, bất ổn xã hội, đổ nát hoang tàn, hoặc chia rẽ để chiếm đoat. Họ không những làm cho dân chúng trong nước hoang mang, mà còn làm cho trật tự thế giới xáo trộn. Và trò chơi quyền lực của các nước lớn xưa nay trên bàn cờ chính trị thế giới vẫn là những nỗi lo toan bất lực, thậm chí rất không công bằng đối với một số nước nhỏ.

Điều đáng nói là trong cuộc sống không phải ai cũng tỉnh táo để nhận ra chân tướng vấn đề. Đôi khi phải mất rất nhiều thời gian, thậm chí trả giá khá đắt, con người mới hiểu ra bản chất sự việc. Riêng mình vẫn luôn quan niệm - Đông hay Tây thì cũng thế, chiến tranh chỉ là sự tiếp nối của chính trị, mà cốt lõi của chính trị lại chính là lòng người. Kẻ nào nắm được lòng người, kẻ đó sẽ chiến thắng !

Còn thời buổi này mà muốn nghe thuyết âm mưu thì vô vàn. Nào là thuyết "quậy để trị", "chia để trị", "đục nước béo cò", "trong nồi ít gạo thì tạo chiến tranh", "phân chia lợi ích", "thừa nước đục thả câu, bán vũ khí làm giàu" ...v.v... Mấy chuyện này xưa nay nghe hoài, mình thường đùa rằng - thuyết âm mưu không biết đúng sai nhưng người có lợi nhất là mấy người bán rượu, bán bia, bán quán nhậu, và làm youtube ... :-) .

Thôi, xin tạm dừng ở đây. Chúc các anh chị em bằng hữu vui vẻ. Mời nghe lại một bài hát nổi tiếng của Michael Jackson :-)

PN



Thursday, August 14, 2025

Phiếm: Loạn thế anh hùng ...:-)

 


Chiều nay trời mưa lớn, khỏi tưới rau, mà cũng chẳng đi bộ được, ngồi nhà phiếm chuyện cổ kim cho vui. Hôm qua giờ, nước Mỹ có 2 chuyện quan trọng thu hút sự chú ý của các ông bạn già mình, đó là vé số độc đắc lên gần nửa tỉ đô, và ông Trump ngày mai đi gặp ông Putin. Thực ra, xứ này có đề tài để bàn luận là vui rồi. Nhưng nhiều người bàn bạc rồi nhập vai "sâu" quá, dính mắc vào đó, thêm mắm thêm muối, thành ra chuyện phe này phe kia, bên tốt bên xấu, mà dẫn đến rách việc. Còn chuyện anh hùng và thời thế thì thời nào chả có ?

Nhớ hồi nhỏ khoái coi truyện Tàu và kiếm hiệp. Thi cử mà không lo học, ngày tắm sông, bắt cá, đá gà, tối thuê truyện, hết bộ này đến bộ kia. May nhờ vậy mà bây giờ còn chuyện để nói :-). Phải nói một trong các giai đoạn lịch sử TQ mà mình mê nhất là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc, mê những nhân vật như Quỷ Cốc Tử, Khương Tử Nha (Lã Vọng), Quản Trọng, Nhạc Nghị, Thương quân Vệ Ưởng, Tôn Tử ..... Ngày xưa, những người được kính trọng thường vừa có tài vừa có đức, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để vì dân, vì xã tắc, thậm chí bảo vệ dân đen vô tội của cả nước đối địch. Bởi thế, nhiều người thời ấy được hậu thế tôn xưng như bậc thánh nhân. Bên cạnh tài năng và đức độ, những câu chuyện về tình bạn tri kỷ như Quản Trọng, Bào Thúc Nha vẫn được lưu truyền, khiến người đời khâm phục. Một Khương Thượng thà âm thầm 80 năm chờ đợi minh quân, còn hơn ra cộng tác với phàm phu vô đạo; rồi chỉ cần 20 năm đã gây dựng nghiệp lớn cho nhà Chu, diệt nhà Thương, mở ra thời kỳ thịnh trị, đặt nền móng cho nước Tề. Một Quản Trọng không màng lợi danh, vì lợi ích chung tiến cử người hiền, lấy kế sách hòa bình để yên dân, lo từng hạt thóc cho bá tánh. Một Nhạc Nghị tài ba, trung quân chính trực, tấm lòng trung hậu của ông được lưu danh hậu thế. Một Vệ Ưởng Thương Quân dám mạnh dạn cải cách, thiết lập nền pháp trị đầu tiên trong lịch sử, dù biết trước sẽ bị phân thây sau này. Và một Tôn Tử, thiên tài quân sự với tư tưởng chiến lược hơn chiến thuật, nhấn mạnh “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”, thậm chí thắng ngay trước khi giao chiến..v.v..

Không rõ các anh hùng nước ta sau này như Nguyễn Trãi và Trần Hưng Đạo có trực tiếp vận dụng binh pháp Tôn Tử hay không, nhưng tư tưởng và cách dụng binh của họ rõ ràng mang nhiều điểm tương đồng. Dù bối cảnh lịch sử khác nhau, nhưng cả Tôn Tử, Nguyễn Trãi, và Trần Hưng Đạo đều chứng minh rằng chiến thắng không chỉ đến từ sức mạnh quân sự, mà còn từ sự am hiểu con người và hoàn cảnh. “Biết mình biết người” không chỉ là nghệ thuật đánh trận, mà còn là bài học trong quản trị, thương thuyết và đời sống.

Thời Trần chống Nguyên-Mông, Trần Hưng Đạo áp dụng triệt để tư tưởng này. Ông đích thân tắm cho Trần Quang Khải để hóa giải hiềm khích, đoàn kết nội bộ lo việc nước. Trong chiến lược, ông nắm rõ ưu thế kỵ binh của quân Mông Cổ, điểm yếu khi bị cắt nguồn tiếp tế và bất lợi trong chiến tranh thủy bộ. Nhờ vậy, kế “vườn không nhà trống” và trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng đã nhiều lần đánh tan quân Nguyên.

Nguyễn Trãi, trong kháng chiến chống Minh, cũng hiểu rõ kỷ luật nghiêm ngặt và sức mạnh quân số của địch, đồng thời thấy được sự xa nhà, tinh thần sa sút và mâu thuẫn nội bộ của họ. Bằng Bình Ngô sách và chiến lược “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, ông cùng Lê Lợi vừa đánh vừa vận động binh sĩ và dân chúng, khiến quân Minh dần suy kiệt và phải rút quân. Đây là những minh chứng điển hình cho việc “thắng trước khi đánh”, tinh thần cốt lõi của “biết người biết ta”.

Tiếc rằng, Việt Nam chưa có nhiều tác phẩm văn học lịch sử quy mô và sức lan toả mạnh mẽ lâu bền như Tam Quốc Chí của Trần Thọ/ La Quán Trung, hoặc Đông Chu Liệt Quốc của Phùng Mộng Long/Dư Thiệu Ngư, để những câu chuyện ấy sống mãi cùng hậu thế.

Nói chuyện ngày xưa cho vui vậy thôi, chứ nếu các vị anh hùng đó sinh vào thời nay, không chừng lại mang hoạ vào thân. Anh hùng còn phải gặp đúng thời thế. Nhớ hồi nhỏ, nghe người lớn giảng giải mấy câu "Anh hùng tạo thời thế, thời thế tạo anh hùng". Mình thường không quan tâm lắm, cứ coi như chuyện con gà và cái trứng. Sau này lớn lên mới thấy nhiều ông "anh hùng" mà chẳng cần phải tạo ra gì, có khi chỉ cần phán lung tung, và có người tin là đủ :-). Những kiểu "anh hùng" như vậy vốn nhan nhản trong đời sống hàng ngày, đến rồi đi. Ngược lại, những anh hùng thực sự luôn thầm lặng hy sinh và cống hiến, mà không cần người khác tung hô xưng tụng. Từ những người lính cứu hoả, thầy cô giáo, binh sĩ, y tá bác sĩ, nhà nghiên cứu khoa học, cho đến những người công nhân, nhân viên vệ sinh ... ở đâu cũng có thể bắt gặp những khoảnh khắc anh hùng, cống hiến hy sinh, bảo vệ người khác bảo vệ kẻ yếu, hoặc mạnh dạn đấu tranh vì cái đúng, vì chính nghĩa. Tuy nhiên thời này ở một số nơi, những anh hùng thực sự mà sơ suất có khi còn bị cho đi “chăn kiến”. Ngay cả ở Mỹ bây giờ nhiều người còn e ngại sợ bị chụp mũ, kiện cáo, hoặc… trục xuất. Vì thế, ngày càng nhiều người chọn cách sống cầu an, chấp nhận và lặng lẽ, để tránh va chạm. Không biết đó là tín hiệu tốt hay xấu !?



Dĩ nhiên định nghĩa về “anh hùng” ngày nay cũng đã khác xưa nhiều. Hoàn cảnh đã khác, con người hiện đại dễ chạy theo hình thức và tin đồn, thật giả khó phân, nhất là trên mạng xã hội. Công nghệ phát triển tạo ra hai xu hướng rõ rệt, hoặc bị thông tin dẫn dắt, hoặc dẫn dắt thông tin, đôi khi vô tình, đôi khi có chủ ý. Nhũng người hiểu biết lý lẽ hoặc đạo pháp thì cố gắng thực hành sống tỉnh thức, không để ngũ uẩn thao túng tạo ra cái “ngã” và cái “biết” giả tưởng. Còn nếu chỉ nghe, nhìn từ bên ngoài, bị lôi cuốn vào dư luận thị phi, thì khó mà nhận ra ai thực sự yêu nước thương dân, ai chỉ mượn danh để mưu cầu lợi riêng !

Tuy nhiên cho dù quan niệm về anh hùng của ngày xưa và ngày nay có khác, cũng như triết lý sống giữa Đông và Tây có những điểm riêng biệt, thì tính chất căn bản vẫn tương đồng. Những người anh hùng thực sự luôn phân biệt được giá trị của cái chung và cái riêng, hy sinh lợi ích bản thân, vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì chính nghĩa, bảo vệ kẻ yếu, bảo vệ công lý, tôn trọng sự thật; đem lại sự an lành cho người khác, không cậy lớn hiếp bé, không ỉ mạnh hiếp yếu, hoặc hơn thua chuyệu tiểu tiết, gây mâu thuẩn bất an cho xã hội và con người. 

Nhưng thực tế thì không phải giá trị nào cũng được nhận biết và trọng đãi, mà còn phải tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác như hoàn cảnh xã hội và thời điểm thích hợp. Có nhiều tài năng kiệt xuất hoặc hoài bão lớn lao cũng chưa chắc có cơ hội để thực hiện. Nhớ mấy năm trước có anh nhạc sĩ vĩ cầm Joshua Bell, một trong những nghệ sĩ violin hàng đầu thế giới, từng biểu diễn ở các nhà hát danh giá với vé hàng ngàn USD. Một lần, theo thí nghiệm của tờ Washington Post, anh cải trang thành nghệ sĩ đường phố, đứng chơi violin tại ga tàu điện ngầm ở Washington D.C. Suốt 45 phút, hàng ngàn người đi qua, nhưng chỉ vài người dừng lại nghe, và tổng số tiền “khán giả” bỏ vào hộp chỉ khoảng 32 USD. Thí nghiệm này cho thấy ngay cả tài năng bậc thầy, nếu đặt sai bối cảnh và thời điểm, cũng không ai biết được giá trị của họ. Đúng vậy, và xưa nay đám đông chưa bao giờ đại diện cho trí tuệ, mà chỉ tượng trưng cho sức mạnh và xu thế tạm thời.

Tiếu lâm chút, ngày xưa Lã Vọng "câu cá" bằng lưỡi câu thẳng, bao năm ngồi câu đợi thời cơ thích hợp để ra thi thố tài năng, nên đâu bắt được con cá lăng cá lóc nào. Nhưng bây giờ VN ta có thương hiệu Chả Cá Lã Vọng, nổi tiếng và thành công. Hôm rồi mới đi Hà Nội, ghé ăn trưa, thấy bên đường quá nhiều quán gà với thương hiệu nổi tiếng "Gà Mạnh Hoạch". Hỏi thăm ông anh về lịch sử thương hiệu này, thì ra theo tích cũ thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng 7 lần bắt Mạnh Hoạch rồi tha, mãi cho đến khi thu phục được tay phiên tướng này. Ngẫm thấy hay, ông chủ quán gà bắt đầu dùng cái tên đặt cho quán của mình là "Gà tươi Mạnh Hoạch", và đồn rằng để có được gà ngon như vậy, gà phải được thả vườn rộng, ngày đuổi thả cho gà chạy 7 lần thịt mới săn chắc. Vậy rồi cũng có người tin, phát tán, và nổi tiếng !


Trở lại chuyện thời sự sốt dẻo bên Mỹ. Hồi còn vận động tranh cử, ông Trump từng hùng hồn tuyên bố nếu đắc cử sẽ “dẹp” chiến tranh Nga–Ukraine trong vòng 24 giờ. (Hồi xưa ở VN, có ông Đạo Dừa cũng phát biểu kiểu na ná như thế). Nhưng đời thường tréo ngoe, đã hơn 6 tháng trôi qua từ ngày nhậm chức, TT Trump vẫn theo đuổi giấc mơ hoà bình “24 giờ” ấy. Có khi lần này tt Trump còn được giải Nobel Hoà bình chứ chẳng phải dạng vừa :-).

Putin thì chắc cũng có giấc mơ riêng. Nhưng tới giờ chưa ai biết chắc là giấc mơ gì. Mấy năm trước, ông nói sẽ “giải phóng” Ukraine trong vài ngày. Giờ hơn ba năm, bom đạn vẫn dồn dập, bao sinh mạng mất đi, bao thành phố hoang tàn, nước mắt và hận thù chồng chất. Kết quả cuối cùng ra sao chưa rõ, nhưng chắc chắn một điều lịch sử khó gọi Putin là anh hùng.

Ngày mai, hai “anh hùng” thời đại sẽ gặp nhau ở Alaska, tt Trump gặp mặt "tội phạm chiến tranh" Putin, không có mặt tổng thống Ukraine, quốc gia nạn nhân. Nhiều người lo cho số phận Ukraine, nhưng cũng có người hy vọng vào “kỳ tích” kiểu anh hùng trọng anh hùng như chuyện cổ tích ngày xưa. Hôm qua, TT Trump tự tin tuyên bố “Chỉ cần 2 phút là biết Putin muốn gì”. Âu cũng là một dạng "biết người biết ta" của thời nay. Với quá khứ từng làm chủ sòng bài và tác giả "Nghệ thuật đàm phán", nhiều người tin rằng ông đủ kinh nghiệm nhìn ra “con bài tẩy” của Putin ngay lập tức .... :-).

Ngoài lề chút, mình có anh bạn lớn tuổi ở cùng thành phố bên Mỹ, mê thời sự đến mức anh kể từ hồi ở Việt Nam tối nào cũng ôm radio. Qua Mỹ, vẫn giữ thói quen “coi tin tức ăn mới ngon, ngủ mới yên”. Nhưng với anh, tin tức phải có hai phe rõ ràng: thắng–thua, tốt–xấu, chính–tà.... Anh thường đọc và chia sẻ tin tức từ những nguồn hợp với “đức tin” của anh, mà đôi lúc quên rằng ngay cả người gửi tin cũng có thể là nạn nhân của “tin vịt”. Cứ thế lâu ngày, tư duy nhị nguyên trở thành phản xạ, cái gì thuận anh thì đúng, nghịch anh thì sai, ít khi chịu khó tìm tòi thấu đáo sự thật vấn đề, hoặc phân tích đa chiều. Lần hồi, anh tự gán ghép bản thân đứng về một phía để "phòng thủ" hoặc "tấn công" cho thêm sắc màu, chứ thực ra anh cũng chẳng tham gia đảng điếc nào, mà cũng chẳng dính dáng đến chính trị chính em gì. Lâu lâu, không có người để tranh luận, anh tự tay phải tấn công tay trái như món "song thủ hổ bác" của Lão Ngoan đồng Châu bá Thông :-).

Hôm qua, anh gọi để chạy qua lấy bí đao về nấu canh cho vợ, rồi tiện thể bàn về cuộc gặp gỡ Trump–Putin, bức xúc so sánh lần gặp mặt này với vụ Nixon–Kissinger đi đêm với Trung Quốc năm 1972. Mình đùa "nhưng Kissinger và Trump là 2 đảng khác nhau mà, anh lo gì"? Anh im re. Hôm nay không thấy qua lấy bí đao luôn, không biết có giận hờn gì không :-).

Thôi, phiếm chút cho vui. Giờ tạnh mưa, đi bộ thôi. Chúc mọi người vui vẻ. Mai nhớ coi “Hoa sơn luận kiếm” nhé !

PN





Saturday, August 09, 2025

Tản mạn: Thời gian & trường cũ

 


Tháng trước, mình mới về quê thăm Má và bạn bè anh em vài tuần. Thời gian ngắn ngủi, đi lại nhiều nơi, quên cả ngày tháng, thoáng chốc đã đến ngày lên máy bay trở lại Mỹ. Ông anh đồng hương ra SG ăn tối tiễn đưa, dúi cho mình quyển sách để lên máy bay đọc, và tặng thêm chiếc áo in hình buổi lễ khai giảng 70 năm trước của ngôi trường trung học mà mình từng theo học. (Tất nhiên, ngày khai giảng ấy mình còn chưa ra đời. Mãi đến bao nhiêu năm sau đó, mình mới tập tễnh bước vào lớp Đệ thất cuối cùng). Bởi vậy "kiến thức" về ngôi trường ngày xưa phần lớn đến từ những câu chuyện được nghe đi kể lại của các thế hệ đi trước. Nôm na là những giai thoại về một ngôi trường trung học tỉnh lỵ, có hàng cây long não đầy ắp kỷ niệm và “truyền thống học giỏi”.

Mấy hôm nay, liên lục nhận được tin nhắn và hình ảnh từ các ông anh và bạn bè ở quê nhà, ngày hội lớn 70 năm thành lập trường. Tâm trạng rộn ràng, lấy cái áo ra mặc, nhưng cỡ lớn quá, chắc ông anh đưa nhầm size. Không sao, ngồi nhìn lại hình ảnh cái cổng trường in trên áo mà lan man nghĩ về thời gian và những ngày tháng cũ .... 

Mới đó mà mình xa quê hương đã hơn 45 năm rồi. Thỉnh thoảng cũng có về quê ghé thăm trường cũ. Hàng long não trong sân trường năm nào, giờ mỗi lúc già đi, nhưng âu đó cũng là quy luật thường tình. Thực ra thì bao nhiêu năm qua, bên cạnh những vị trí thường trực trên các phương tiện truyền thông của tỉnh nhà như núi Ấn, sông Trà, con cá bống, tô don (không vịt lộn) .v.v.. hàng long não cũng luôn đồng hành có mặt trên thi đàn của các thi sĩ nhạc sĩ "cây nhà lá vườn". Mới đây, mình thử nhờ AI viết một bài hát về ngôi trường TQT, và thật thú vị nó cũng “rinh” nguyên hàng cây long não ấy vào trong ca từ :-).

Còn nói đến “truyền thống học giỏi”, mình cho rằng đó chỉ là những cảm nhận mang tính chủ quan. Giỏi với người này chưa chắc đã giỏi với người khác. Đi dọc miền Trung, tỉnh nào cũng có những ngôi trường nổi tiếng “truyền thống học giỏi”, na ná giống nhau, như Quốc Học Huế, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Trần Quốc Tuấn, Nữ Trung Học, Quốc Học Quy Nhơn, Quang Trung, Cường Để, Yersin, Võ Tánh…v.v. Quan điểm giáo dục cũng vậy, có những điểm chung và có những nét riêng, tùy theo từng giai đoạn lịch sử và bối cảnh xã hội. Từ những nguyên tắc giáo dục “nhân bản, dân tộc, khai phóng” ngày xưa cho đến nền “giáo dục XHCN” ngày nay là cả một chặng đường dài, gắn liền với những đổi thay của đất nước và con người. Và tất nhiên là ở đất nước nào cũng vậy, tương lai của quốc gia dân tộc luôn được dựa trên nền tảng và giá trị của giáo dục học đường.

Trong sứ mệnh giáo dục ấy, những ngôi trường nhỏ bé vẫn âm thầm đóng góp giá trị bền vững nhất cho xã hội. Giá trị thực sự của một ngôi trường không nằm ở những thành tích được ghi trên giấy, mà ở khả năng nuôi dưỡng nhân tài qua từng thế hệ, góp phần thiết thực vào sự phát triển phồn thịnh của quê hương và hữu ích cho xã hội. Lịch sử thế giới xưa nay luôn khẳng định rằng "Nền móng vững chắc dựng nên ngôi nhà bền vững; hào khí dân tộc bồi đắp nên một quốc gia hưng thịnh hùng cường !"


Tuy nhiên, thời gian trôi qua cùng với những biến động của đất nước, các ngôi trường tỉnh lỵ cũng phải trải qua bao biến đổi thăng trầm. Có những bài hành khúc hào hùng một thời, hay những ca khúc đậm tình dân tộc, theo năm tháng dần bị quên lãng hoặc không còn phù hợp với bối cảnh mới. Nhiều giá trị “truyền thống”, “định nghĩa”, hay “nguyên tắc” có thể đã bị thời gian hoặc những yếu tố khách quan vô tình làm phai mờ, thậm chí ảnh hưởng đến mục đích chung ban đầu. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, ai cũng mong muốn những vướng mắc và ràng buộc không cần thiết sẽ được nhìn nhận lại và gỡ bỏ, để mang đến những luồng sinh khí mới cho thế hệ học sinh – sinh viên Việt Nam, nhất là trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn vươn mình, phát triển mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng với thế giới.

Thực ra, ai cũng mong muốn ngôi trường xưa và quê hương của họ ngày càng thay đổi tốt đẹp hơn. Thế nhưng, mỗi lần về quê họp trường, họp lớp, thì “ngôi trường” thật sự còn lại trong lòng mỗi người vẫn chỉ là một hình ảnh cũ kỹ thuở nào, nằm sâu trong ký ức, và gắn liền với những cảm nhận riêng biệt. Có phải đó mới chính là giá trị bền lâu nhất chăng ? Có lẽ vậy. Nhưng cũng chính những “giá trị bền lâu" ấy, những ký ức khó phai ấy, lại trở thành những dính mắc gắn bó trong cuộc sống của họ, nhiều hay ít. Mở ngoặc chút, theo quan điểm PG, nguồn gốc của mọi khổ đau (bất toại nguyện) đều bắt nguồn từ ham muốn (desire) và dính mắc (attachment). Vậy nên lỡ có dính mắc, thì dính .... vừa vừa thôi, cho đỡ nặng lòng 🙂

Cũng nhân nhắc đến chuyện thời gian, mình nhớ đến Einstein và thuyết tương đối. Ông ta cho rằng thời gian không trôi đều đặn như chiếc đồng hồ treo tường, mà co giãn tùy vào vận tốc và trường hấp dẫn. Nôm na là nếu bạn di chuyển rất nhanh, hoặc ở gần một vật thể có khối lượng lớn (như một hành tinh nặng), thời gian với bạn sẽ trôi chậm hơn so với người ở trạng thái tĩnh hoặc ở xa nguồn hấp dẫn. Đây gọi là "time dilation" (giãn nở thời gian). Hai người ở hai hoàn cảnh khác nhau sẽ có dòng thời gian khác nhau, một phi hành gia ngoài quỹ đạo sẽ già chậm hơn một người đứng trên mặt đất.

Còn dưới lăng kính của PG, thời gian cũng theo quy luật của vô thường. Mọi sự vật đều biến đổi, không có gì tồn tại mãi ở một trạng thái. Không chỉ vật chất, mà cả cảm xúc, ký ức, và chính nhận thức của ta về thời gian cũng thay đổi.

Điểm gặp nhau giữa hai quan niệm tưởng như khác biệt này là: thời gian không cố định, và cảm nhận về nó phụ thuộc vào nơi ta “đứng”, cho dù đó là hệ quy chiếu vật lý hay tâm thức con người. Với Einstein, thời gian thay đổi theo vận tốc và trọng lực. Với đạo Phật, thời gian thay đổi theo sự nhận biết và mức độ bám chấp của con người.

Bởi thế, khi trở về mái trường cũ, có thể nhiều người cũng cảm nhận được sự giao thoa này. Đại khái là thời gian vật lý dù đã trôi qua mấy chục năm rồi, nhưng thời gian của ký ức thì vẫn đứng yên, như chỉ mới hôm qua. Đạo lý "vô thường" nhắc nhở ta rằng mọi thứ sẽ đổi thay, nhưng thuyết tương đối lại cho ta lý do để tin rằng, trong một hệ quy chiếu đặc biệt của tâm trí, những khoảnh khắc đẹp vẫn có thể ở lại mãi mãi :-). Einstein cũng từng dùng một ví dụ dí dỏm để nói về tính tương đối của thời gian - “Khi bạn ngồi nói chuyện với một cô gái dễ thương trong một giờ, bạn cảm giác chỉ như một phút. Nhưng nếu bạn ngồi trên một cái bếp nóng trong một phút, bạn sẽ cảm giác lâu hơn cả một giờ. Đó là tính tương đối của thời gian". Và ông cũng từng thừa nhận rằng sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai “chỉ là một ảo tưởng, dù nó rất dai dẳng”. Nên thời gian không chỉ được đo bằng đồng hồ, mà còn bằng trải nghiệm và cảm nhận cá nhân. Một mùa hè thời thơ ấu, chăn trâu thả diều, tắm sông bắt cá, có thể dài bất tận. Trong khi đó, mấy năm trưởng thành lại trôi qua như một cái chớp mắt. Đi đây đi đó bao năm, về quê bước vào cổng trường cũ, ký ức lại ùa về nguyên vẹn như mới hôm qua. Ngôi trường hiện tại đã khác xưa nhiều, nhưng “ngôi trường” trong tâm trí thì vẫn ở đó, bất chấp mọi đổi thay của vật lý và đời sống. Nhưng hình như không phải chỉ có trường xưa, mà ... người xưa cũng vậy. Mình có quen biết nhiều ông anh Việt kiều, bao năm xa cách quê hương, luôn mơ ước, lặn lội về họp trường họp lớp để gặp lại người xưa. Rồi không biết có gặp được chưa, mà mấy năm nay ít khi nghe nhắc đến chuyện đó nữa :-) .

Tản mạn chút cho vui, chứ theo quan niệm của nhiều người thì thời gian đơn giản chỉ là những con số, một quy ước số học được đặt tên. Quả nhiên là vậy, tuy cùng một con số nhưng ý nghĩa thời gian luôn khác xa tùy theo cách sống của mỗi người. Năm tháng của một người trải nghiệm, dấn thân và cống hiến, khác hẳn với năm tháng của một người tự sướng, tự vỗ về để tồn tại. Thời gian của một người sống với mớ kiến thức vay mượn, lý thuyết "cao siêu", khác một trời một vực với thời gian của người sống trong tỉnh thức và thực chứng. Thời gian của những năm tháng tự do khác xa với thời gian của những năm tháng nhẫn nhục cam chịu. Thời gian của một người thèm khát danh vọng khác xa thời gian của một người sống tự tại buông xả ...v.v.  Bởi vậy có những kiếp sống ngắn ngủi nhưng trọn vẹn, để lại cho hậu thế bao giá trị đóng góp. Ngược lại, có những đời sống kéo dài trăm năm, nhưng khi ra đi cũng chẳng có gì để nhớ đến. Cho dù là ông này bà kia, chùa to chùa lớn, chức nọ chức kia, bằng này cấp nọ, mồ to mả đẹp… khi gặp “ông thần thời gian”, ai cũng phải ngả nón chào :-)

Tất nhiên, ở đây đang nói về cuộc sống đời thường, phàm phu, đầy rẫy ham muốn & dính mắc giống như mình. Chứ còn đối với các bậc trí tuệ, giác ngộ, hiểu rõ vô ngã, vô thường, thì mọi thứ chỉ là những điều kiện duyên khởi, đến rồi đi, chẳng có cái tôi cố định nào đứng đằng sau, nên chẳng có gì để dính mắc, mà cũng chẳng có ai để chứng minh, chứng đắc, hoặc ham muốn trở thành đấng nọ đấng kia.

À, bỗng nhớ đến một chuyện thú vị. Mình có anh bạn khá thân, từng dạy đại học ở nước ngoài nhiều năm, rồi về SG giảng dạy hơn chục năm trước, giờ an nhàn hưu trí ở Nha Trang. Cũng lâu lắm rồi, cách đây vài tuần mình mới gặp lại anh. Hai anh em ra vỉa hè, lai rai vài chai la-de, ngắm biển ngắm mây, nói đủ thứ chuyện rồi lan man sang Hermann Hesse: “Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này” (Und allem Weh zum Trotze bleib ich verliebt in die verrückte Welt). Vừa uống vừa cười nhớ lại một thời ngây ngô & đam mê... nhịn đói, suy tư & chờ đợi. (Siddhartha)

Và cũng rất tình cờ, hôm qua đang coi chương trình "Giấc mơ quê nhà" thì nhận được tin nhắn của anh từ Nha trang: "Rằm trên biển: Em về mấy thế kỷ sau. Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?”. Tuyệt !

Mình vốn biết mấy câu thơ này của Bùi Giáng từ trước, nhưng bây giờ nghe lại thì cảm thấy rất hay. Với anh ấy, chắc còn gì tuyệt vời bằng một đêm rằm trên biển, ngửa mặt nhìn trăng mà nghĩ đến "Mai sau em về". Còn mình, vừa mơ màng nhìn cái cổng trường cũ, vừa thắc mắc không biết đến lúc kỷ niệm 80 năm thành lập trường lần tới, có còn giống như hôm nay không? Đang miên man suy nghĩ bỗng nhận được 2 câu thơ của BG, giật mình tỉnh rụi. Câu thơ hay, hợp thời điểm, nhưng “rằng thưa khen nữa là thừa”. Có lẽ trong đời sống, ai cũng từng có những khoảnh khắc tâm trạng như vậy, đó là lúc những thứ đơn giản nhất bỗng quay quắt trở thành điều ám ảnh:

Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?
(Bùi Giáng)

“Màu ấy” là màu gì? Là màu nguyên thủy của trăng, hay là sắc màu của một khoảnh khắc cụ thể ? Và “màu ấy” của người này có giống “màu ấy” của người kia không ? Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ có câu trả lời giống nhau. (Trước hết, mình cũng chẳng dám áp đặt ý nghĩ của mình lên câu hỏi của Bùi Giáng, bởi biết đâu ông ta chỉ hỏi kiểu Sài Gòn Lục Tỉnh cho vui :-). Nhưng đời sống vốn đa dạng, từ quan điểm đúng sai, phải quấy, nhận định vấn đề, quan niệm học hành giáo dục, cho đến những chuyện nhỏ như họp trường họp lớp, tổ chức sự kiện, chương trình hát hò văn nghệ, ..v.v.. mỗi người đều có lý lẽ và cảm nhận riêng. Ai cũng có một cái “tôi” nhất định, mặc dù nhiều người chưa từng thực sự làm chủ cái “tôi” đó của mình. Nhưng dù "bản ngã" lớn hay nhỏ, nó vẫn luôn là “nhà độc tài” âm thầm quyết định mọi ý thức và hành vi của mỗi người. Bởi vậy, khi luận bàn một vấn đề gì mang tính công cọng hoặc lợi ích chung, mong đợi sự đồng thuận tuyệt đối quả là điều không dễ dàng chút nào. 

Trở lại chuyện màu trăng, ai cũng biết trăng trong thế giới tự nhiên thì luôn đổi thay, chẳng bao giờ giống nhau, dù chỉ cách nhau một giờ, một phút, huống chi là vài thế kỷ. Nên để trả lời “Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?” là những câu chuyện dài. Có người thấy trăng hôm nay vẫn y như xưa, nhưng có người lại thấy khác. Có người mong trăng sáng hơn tròn hơn, nhưng có người chỉ muốn trăng mãi giữ nguyên dáng vẻ thuở nào. Có người than rằng trăng nay không còn đẹp như thời hẹn hò mới lớn; lại có người quả quyết rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ. Có người bảo trăng của Bùi Giáng khác với trăng của Hàn Mặc Tử; lại có người bảo trăng dưới ao của Lý Bạch khác với trăng “khuyết nguyệt” của Tô Đông Pha...v.v

Rồi cũng có người cả đời mải ngắm ngón tay chỉ trăng, mà chưa từng thấy trăng màu gì. Và cũng có người cả đời chỉ biết đến vẻ đẹp của trăng qua chú Cuội, chị Hằng, hoặc qua thơ văn sách vở. Hoặc cũng có người chỉ nghe thấy trăng đẹp qua lời giảng giải của một ông giáo sư, tiến sĩ, một vị “cao tăng", hay "đại sư” nổi tiếng nào đó, mà chưa từng tự mình ngắm trăng một lần ! 

Đời sống là vậy, nhưng cũng biết đâu, chỉ một câu hỏi bâng quơ như vậy lại khiến ai đó đang nặng nề chữ nghĩa bỗng trở nên buông xả nhẹ nhàng, hoặc ít ra thôi không còn cuồng tín nữa. Hoặc biết đâu, từ câu hỏi “Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?” mà ngộ ra chân lý “nhìn sự vật như nó đang là”, để rồi phân biệt được cái nào thực, cái nào ảo, và không còn bám víu vào những “tin vịt tin gà” nữa. Âu cũng là chuyện hay :-).

Bởi thế, không ai có thể đoán được một hạt mầm ý niệm vô tình sẽ nảy sinh ra sao trong tâm mỗi người. Và xưa nay, những điều kỳ diệu trong cuộc sống thường bắt đầu từ những điều giản dị nhất.

Thôi, lan man chút cho vui buổi sáng cuối tuần. Chúc mọi người an nhiên, hạnh phúc.

PN

Sunday, June 08, 2025

Tản mạn: Lối mòn tư duy... (A well-worn mental path)


Khi nói đến “lối mòn tư duy”, hay những thói quen suy nghĩ và sự chấp trước của con người, có lẽ ít ai xác định được nó bắt đầu từ đâu. Có thể nó đã đồng hành với con người từ thuở sơ khai, hàng ngàn năm về trước. Với nhiều người, đó không còn là một phát hiện mới mẻ, mà gần như là một đặc tính cố hữu của con người, và chắc chắn, nó vẫn sẽ tiếp tục tồn tại cùng chúng ta trong nhiều thế hệ tới.

Tuy nhiên, gần đây, những chủ đề về thói quen suy nghĩ và khả năng phân tích vấn đề của con người được nhắc đến nhiều hơn. Song song với đó là sự xuất hiện nhiều tranh luận hoài nghi về năng lực “nhận thức” của con người, đặc biệt khi nói đến hiệu ứng đám đông và khả năng phân biệt "đúng, sai" của họ trong đời sống xã hội thường nhật. Có lẽ một phần nguyên nhân xuất phát từ việc thế giới trải qua quá nhiều biến động, xã hội bất ổn, công nghệ thay đổi chóng mặt, thông tin lan truyền nhanh chóng, thật giả lẫn lộn… Tất cả khiến lòng người trở nên hoang mang và mất phương hướng. Trong hoàn cảnh ấy, con người thường có xu hướng tìm kiếm một điểm tựa tinh thần, một nơi để đặt niềm tin, cho dù chỉ là tạm thời.

Thế nhưng mỗi người lại có một xuất phát điểm, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau. Vậy dựa vào đâu mới là đúng? Làm sao để phân biệt được "đúng, sai" giữa muôn vàn quan điểm trái chiều và mâu thuẫn, bội thực thông tin ? Chính trong những lúc như vậy, “lối mòn tư duy” lại âm thầm phát huy sức mạnh, bởi nó mang lại cảm giác quen thuộc, an toàn, không cần phải đặt lại câu hỏi hay thay đổi góc nhìn của bản thân. 😊

Thật ra, đây là một đề tài vừa sâu sắc, vừa đầy thách thức. Từ xưa đến nay, ai cũng biết lịch sử văn hóa và môi trường sống luôn ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành vi của con người. Trong những năm gần đây, khi công nghệ AI phát triển mạnh mẽ, các lĩnh vực nghiên cứu về tư duy và hành vi con người lại càng được chú trọng hơn, như một nỗ lực để hiểu rõ hơn về chính bản thân chúng ta trong một thế giới đang thay đổi từng ngày.

Nhìn lại bản thân, ngay từ khi còn nhỏ mình đã từng được “nghe”, được “biết” đến những điều mà chưa bao giờ tự mình kiểm chứng. Ví dụ như nghe dân tộc này thông minh, dân tộc kia anh hùng; người vùng này hào phóng, người vùng kia keo kiệt; miền này học giỏi, miền kia ham chơi; xứ này hay cãi, xứ kia hay co... Lớn lên một chút, lại tiếp tục bị nhồi nhét vào đầu những định nghĩa cứng nhắc cái này là đúng, cái kia là sai; làm như thế này mới là “yêu nước”, làm như thế kia mới là “anh hùng”; học giỏi như ông A, ông B thì mới được trọng vọng; trở thành bà nọ bà kia thì mới được xem là thành công; tu hành theo cách này mới là chánh pháp, theo cách kia là tà đạo..v.v.&.v.v...Và cứ thế, vô số hình tượng, khái niệm, nhận thức (dù đúng hay sai), cùng với những tập tục, thói quen, phương pháp suy luận được nạp vào đầu óc non trẻ từ rất sớm như những định đề tự nhiên, những khuôn mẫu xã hội hay quy ước vùng miền, trước cả khi mình có đủ trải nghiệm và khả năng tư duy độc lập để tự nhận thức, tự kiểm chứng xem điều gì là đúng, điều gì là sai.

Nhưng đó không phải là trường hợp cá biệt của riêng mình, mà là một thực trạng phổ biến hầu như ai cũng từng trải qua. Có người cho rằng sự khác biệt trong tư duy bắt nguồn từ việc gia đình này giáo dục tốt hơn gia đình kia, trường này có chất lượng hơn trường nọ, quốc gia này văn minh hơn quốc gia khác, hoặc thậm chí là do người này thừa hưởng “gen trội” hơn người kia..v.v. Mỗi người có thể tin vào những nguyên nhân khác nhau, nhưng xét cho cùng, phần lớn chúng ta đều được hình thành từ thuở ấu thơ bởi một “mớ” kiến thức được tích lũy từ gia đình, địa phương, nhà trường và môi trường sống xung quanh, những điều mà ta vẫn lầm tưởng là “trí tuệ” của chính mình.

Thực ra, chính ở giai đoạn tuổi thơ và thời tiểu học, trung học (bậc giáo dục phổ thông) mới là thời điểm quan trọng, bởi khi đó cái “tôi”, cái “riêng”, tức là hạ tầng tư duy, quan niệm và nhận thức, bắt đầu được định hình. Nó giống như một hệ điều hành âm thầm được cài đặt vào bộ máy tư duy của mỗi con người. Và phần lớn chúng ta lớn lên, mang theo hệ điều hành ấy như một điều hiển nhiên, ít ai nghi ngờ hay đặt lại câu hỏi. Tất nhiên, khi càng trưởng thành, càng học rộng hiểu nhiều, càng gặt hái nhiều thành tựu, càng trải nghiệm nhiều với những được mất trong đời, thì vị trí của cái “tôi” trong mỗi con người càng được củng cố và bảo vệ. Đó là điều hết sức bình thường trong quá trình phát triển cá nhân. Tuy vậy, cũng không thiếu những trường hợp ngược lại, chính vì cái “tôi” quá lớn, quá cố chấp mà dẫn đến thất bại, mất mát, thậm chí là cuộc sống bất an, hoài nghi, đầy oán trách, và dằn vặt. Khi cái tôi không được nhìn lại, không được đặt đúng chỗ, nó có thể trở thành rào cản ngăn con người sống nhẹ nhàng, rộng mở và cảm thông với chính mình lẫn người khác. Một số ít khi bị thất bại hoặc trở ngại trong cuộc sống, đôi lúc quá bận rộn tìm cách đổ thừa hoặc oán trách người khác, mà đã quên nhìn lại cái "tôi" hoặc lối mòn tư duy của mình, nên mất đi cơ hội hiểu thêm về bản thân, quả là đáng tiếc. Bên cạnh đó, cũng tồn tại sự nhầm lẫn giữa tự ái và tự trọng gây ra nhiều phiền phức. Trên thế giới có những dân tộc lòng tự trọng rất cao, nhưng cũng có những đất nước giàu lòng "tự ái", nên dẫn đến những văn hoá ứng xử khác nhau. Và đó cũng là những chuyện thường gặp trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Mở ngoặc chút, trong Duy Thức học, có giải thích “cái tôi vĩ đại” của con người có liên quan trực tiếp đến Mạt Na thức (thức thứ 7), bạn nào muốn nghiên cứu thêm về lãnh vực này thì nên đọc, rất hay. Còn đối với một số người tu học chân chính theo PG, họ thường thực hành theo những phương thức khác nhau như thiền tuệ, buông xả, sống tỉnh thức, chánh niệm v.v.. Cốt lõi không phải để đạt được điều gì to tát hứa hẹn, hoặc để chứng đắc quả gì, hoặc thần thông hay công đức gì, mà chỉ đơn giản là để tự nhận ra sự thật từ bản thân - vốn không có một cái tôi cố định nào đứng đằng sau những thực thể và cảm xúc "cá nhân" của họ, mà đó chỉ là những “điều kiện” đến rồi đi. Không có ai để đạt được điều gì, mà cũng không có ai cần để chứng minh hay thể hiện điều gì. Khi thấy ra nhận ra được điều đó lần hồi những dính mắc và tham ái cũng không còn chỗ để bám víu nữa. Vậy thôi. Và đó cũng là phần quan trọng của khái niệm "vô ngã", mấu chốt nhất trong giáo lý PG).



Trở lại chuyện đời thường. Khi quan sát và hiểu thấu bản thân nhiều hơn, không ít người nhận ra rằng chính những tri thức được xây dựng trên nền tảng tư duy mặc định mang tính lý thuyết, vốn được tiếp nhận một cách vô thức từ môi trường sống, đã đưa con người ngày càng tiến gần hơn đến quan điểm “nhị nguyên” với những cặp phạm trù đối lập như đúng sai, thắng thua, đẹp xấu, được mất, thành bại, hạnh phúc khổ đau..v.v... Những cặp phạm trù tưởng chừng như tự nhiên ấy dần dà trở thành khuôn mẫu chi phối cảm xúc, hành vi, và cách nhìn đời. Và cũng từ đó, bao nhiêu tham, giận, sân, si âm thầm sinh khởi, len lỏi và vận hành trong suốt hành trình cuộc sống, hiện diện khắp nơi, đôi khi rất mạnh mẽ, mà ta lại hoàn toàn không hay biết.

Từng ngày, từng giờ, cuộc sống quanh ta vẫn đầy rẫy những nhận thức và suy nghĩ xuất phát từ những “lối mòn tư duy” nào đó, vốn được xây dựng từ nền tảng cái tôi cá nhân và hệ điều hành tinh thần mà ta vô thức thừa hưởng. Bạn bè, người thân, gia đình, và cả chính bản thân mình, không ai thật sự thoát khỏi sự chi phối của những khuôn mẫu tư tưởng ấy.

Từ những chuyện tưởng chừng rất đời thường như con cái học ngành gì, cưới hỏi ra sao, nhà xây mấy tấm, tiệc đãi mấy bàn… cho đến những câu chuyện xa xôi hơn, đi mây về gió bên Tây, bên Mỹ, xứ người. Nhiều người cả đời đã phải gồng mình chịu áp lực từ công việc mưu sinh, tha phương cầu thực, nhưng trong lòng vẫn cánh cánh một gánh nặng mang tên "quê nhà", nơi mà sĩ diện, hơn thua, và những nhu cầu “liền chị liền em” đã trở thành những chuẩn mực vô hình. Bởi vậy, dù mỗi người có hoàn cảnh và cách nghĩ khác nhau, nhưng tựu trung, tất cả đều ít nhiều mang theo dấu vết của những lối mòn tư duy cũ kỹ , như đã ăn sâu vào tiềm thức từ rất lâu. Những chuẩn mực ấy không chỉ tạo ra áp lực tâm lý nặng nề, mà còn tiếp tục đè nặng lên thế hệ sau bằng cách định hình một lối mòn suy nghĩ và hành xử, y như cái khuôn mà thế hệ trước từng bị đóng vào. Trong dòng chảy đó, không ít người đánh mất chính mình, sống theo ánh nhìn và sự khen chê của người khác, chạy theo kỳ vọng của đám đông mà không còn nghe thấy tiếng nói từ nội tâm. Họ lầm tưởng rằng mình đang gìn giữ “giá trị truyền thống”, nhưng thực chất, nhiều người chỉ đang vô thức trở thành nô lệ của những “di sản” tư duy lối mòn, một thứ ràng buộc vô hình. Những xiềng xích ấy lẽ ra cần được tháo gỡ, nếu ta thật sự mong muốn tìm lại sự tự do đích thực trong tâm hồn.

Nguy hiểm hơn, lối mòn tư duy không dừng lại ở những lựa chọn cá nhân nhỏ nhặt. Nó còn ngấm ngầm điều phối cả những vấn đề lớn lao hơn trong đời sống. Từ cách ta nhìn nhận người khác, đến cách ta phán xét, quy chụp, lập luận, thậm chí dẫn dắt dư luận đi đến những kết luận sai lầm. Đáng lo ngại là nhiều người phát ngôn hoặc lan truyền những suy nghĩ lệch lạc hoặc tin tức sai trái, lại không hề nhận ra sự sai lệch trong tư duy của chính mình. Khi tư duy bị đóng khung mà không được phản tỉnh, nó không chỉ giới hạn cá nhân, mà còn có thể trở thành rào cản cho cả sự phát triển của một cộng đồng.

Hãy thử quan sát kỹ một hiện tượng cuồng tín trong xã hội, một cuộc bầu cử ở một quốc gia dân chủ, hay một cuộc tranh luận về vấn đề “hòa hợp hòa giải dân tộc”… thậm chí chỉ là những bất đồng trong buổi họp lớp, họp đồng hương, hay thậm chí một cuộc họp mặt gia đình. Ở đâu cũng thấp thoáng bóng dáng của những lối mòn tư duy. Có thể cùng hướng hoặc trái chiều, nhưng đều xuất phát từ những khuôn khổ nhận thức đã được định hình bởi địa phương, văn hóa, hay hoàn cảnh sống mà chúng ta ít khi ngoái đầu nhìn lại.

Tất nhiên, Đông hay Tây, đã là con người thì khó tránh khỏi những rào cản tâm lý này. Ngoại trừ một số ít những bậc giác ngộ, còn lại từ bậc trí giả đến kẻ phàm phu, từ người quyền quý đến người nghèo khổ, thật ra cũng không ai giỏi giang gì hơn ai về mặt “thoát khỏi khuôn mẫu”. Mỗi người chúng ta đều có một hoặc nhiều "lối mòn tư duy" khác nhau, không ai hơn ai, chỉ là người nào khác ta, thì ta cho rằng họ sai ta đúng mà thôi :-). Thậm chí, người "học rộng hiểu nhiều" có khi lại càng bị trói buộc trong lối mòn tư duy sâu thẳm so với người bình dân. Lắm khi, càng đạt được những “thành tựu” theo chuẩn mực của đời thường, thì cái tôi lại càng phình to ra, lối mòn tư duy càng trở nên trơn tru, khó lòng nhận diện.  

Mình nhớ có một ông chú quen đồng hương, học vị khá cao, tên tuổi nhiều người biết đến. Mỗi khi hỏi chuyện về ai đó ở quê nhà, chú thường hỏi: “Nó là con ai, cháu ai?” Mình thấy lạ vì ở nước ngoài it gặp chuyện như vậy. Có lần mình thắc mắc: “Vậy con ai, cháu ai thì có liên quan gì đến giá trị mà người đó đóng góp cho xã hội? Chẳng lẽ gen di truyền, tài sản ông bà, hay chức vụ cha mẹ lại quyết định hết thảy giá trị một con người?” Với trình độ và hiểu biết như chú, chắc chắn chú cũng biết rằng rất nhiều nhân vật kiệt xuất trên thế giới từng có xuất thân hết sức bình thường. Và ngược lại, ngay chính trên quê hương của chú, chắc cũng không thiếu những người có lý lịch "tốt đẹp" nhưng lại chẳng làm nên điều gì đáng nói ? Tuy nhiên hỏi là hỏi vậy, chứ thực ra cả hai đều đã nhanh chóng nhận ra nguyên nhân vấn đề "thích truy tìm nguồn gốc" của chú. Âu đó cũng là một lối mòn tư duy :-).

Thực tế, ở phương Tây hoặc tại một số quốc gia châu Á phát triển, người ta thường chú trọng đến năng lực và tư cách đạo đức của con người ở thời điểm hiện tại hơn là xuất thân hay quá khứ. Họ có xu hướng quan tâm đến những sự việc và sự kiện cụ thể đang diễn ra trước mắt, thay vì tin vào tin đồn, suy diễn, hoặc những lời truyền miệng thiếu kiểm chứng. Trong khi đó, tại VN, đặc biệt là ở một số vùng miền nhất định, tư duy "nghe ngóng", "đoán già đoán non", thậm chí là khả năng “nghe một đoán mười” lại được xem là biểu hiện của sự lanh lợi, khôn ngoan. Nhưng ít ai đặt câu hỏi liệu đó có thực sự là sự nhạy bén, hay chỉ là biểu hiện của một kiểu tư duy lệch lạc, cảm tính và đầy định kiến chủ quan. 

Còn chuyện điều tra “lý lịch ba đời” thì vẫn tồn tại như một thói quen, thuộc tính cố hữu của một số vùng miền. Dù lý lịch ấy không nói lên được điều gì cụ thể về năng lực hay đạo đức, nó vẫn được xem như một chuẩn mực mặc định để đánh giá con người. Điều đáng nói là ngay cả khi đã sống ở nước ngoài nhiều năm, không ít người vẫn mang theo lối tư duy đó như một "hành trang" vô hình, một lối mòn tư duy chưa từng được nhìn lại.

Thôi dài quá rồi, mình xin dừng lại nơi đây. Nôm na, buổi sáng hôm nay bắt đầu thật nhẹ nhàng, dự định uống cà phê, ngắm hoa, nghe chim hót, rồi cắt mớ rau muống vô nấu canh bún riêu cua. Thế mà tình huống dẫn dắt thế nào, câu chuyện lại lan man sang buổi chiều với những suy ngẫm về “đường xưa lối cũ”. 

Thực ra, lâu nay mình cũng ít khi theo dõi tin tức chính trị thời sự bên Mỹ. Thế nhưng mấy hôm nay, quý ông bạn già của mình ở đây, rôm rả nhắn tin, gọi điện, bàn tán hào hứng về vụ ông tỷ phú Musk chia tay "ly dị" với ông tt Trump. Có người độc đảng (chỉ thích cơm hoặc phở), có người lưỡng đảng (khoái cả 2 bên), có người "vô đảng" (không theo phe nào), có người “du đảng” (lúc theo bên này, lúc thích bên kia), và có cả ông “lãng đãng” (lúc nhớ lúc quên), cho nên những câu chuyện trở nên màu mỡ, lối mòn dẫm chéo lên nhau, tô vẻ đầy màu sắc !

Nhưng đã gọi là “lối mòn tư duy” thì đâu thể chỉ dừng lại ở “chuyện hai đứa chúng mình của ông Trump và Musk”. Câu chuyện của các anh, các chú, thường phải đi một vòng từ xóm thượng xuống xóm hạ, từ cánh phải sang cánh trái, có đầu có đuôi, kỳ nhông ông kỳ đà, kỳ đà cha cắc ké, cắc ké mẹ kỳ nhông… Nói chung là từ thời tiền MAGA năm trước, cho đến hậu MAGA hôm nay, không thiếu một chỗ nào. May là mấy hôm nay trời mưa, mình không phải tưới rau, ngồi nghe :-).

Riêng mình, lâu nay vẫn tin vào thuyết duyên khởi, đạo lý nhân quả & vô thường. Nên mọi chuyện xảy ra trên đời, theo mình đều là kết quả của những điều kiện hội đủ, đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan, không có gì ngoại lệ.

Vậy nên mình ngày càng ít quan tâm đến mấy chuyện chính trị chính em, đặc biệt là kiểu chính trị chửi bới, đâm chọt, dựng chuyện, gieo rắc thù hằn và chia rẽ lẫn nhau. Dù bên nào thắng hay thua, ma da hay ma cà rồng, thì với mình, điều đó chưa hẳn phản ánh trí tuệ hay đạo đức thực sự của họ. Theo quan niệm của mình, chê bai người khác là “xấu” không đồng nghĩa với việc mình là “tốt”. Lại càng không thể dựa vào những câu chuyện ngớ ngẩn vô căn cứ trên mạng, hay lối tư duy thiển cận để nhục mạ, bôi nhọ người khác rồi xem đó như một minh chứng cho sự hiểu biết của bản thân. Vì thực ra, hành vi đó thường chỉ nói lên điều ngược lại, rằng người cố tình phát ngôn phát tán tin tức lệch lạc đang thiếu đi chính điều mà họ cố tỏ ra mình sở hữu.

Chính vì thế, không nhất thiết phải lao vào những cuộc tranh luận một chiều. Thay vào đó, nên lùi lại quan sát, lắng nghe và nhận biết vấn đề một cách khách quan. Bởi sau cùng, kết quả thực tế mới là câu trả lời rõ ràng nhất. Mình chỉ mong rằng ai thắng cũng lo được việc cho đất nước, làm điều tốt, đừng gây thêm khổ lụy cho người dân đen dễ tin, dễ biểu, và thấp cổ bé họng.

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
(Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo)
Nguyễn Trãi

Nhìn lại cái đạo lý trị nước an dân của các tiền nhân ngày xưa như cụ Nguyễn Trãi quê ta, hoặc cách thức an dân kiến quốc của những vị tổng thống tài ba của đất nước HK ngày trước, rồi nhìn thực tế hôm nay quả nhiên là xa lạ. Tuy nhiên cũng có một thứ hơn hẳn ngày xưa, đó là bất kỳ lúc nào, những kênh truyền thông chính thống trên thế giới và các kênh YouTube tạp nham đều có những tin tức hoặc đề tài giựt gân, giựt tít, để đăng tải và câu viu :-).

Tản mạn chút cho vui, nhưng tất nhiên hy vọng lớn nhất vẫn là sẽ có lúc nào đó, mỗi người chúng ta chịu dừng lại để lắng nghe, để quan sát, để thấu hiểu bản thân nhiều hơn, để soi lại những lối mòn tư duy đã in hằn trong tâm trí lâu nay. Để cuộc sống cân bằng hơn, bớt đi định kiến, bớt đi lệch lạc, và mỗi sớm mai thức dậy có thể uống ly cà phê với tâm hồn nhẹ nhõm, tỉnh táo, và an nhiên hơn.

Chúc mọi người một cuối tuần an vui và đầy nắng ấm.

PN



Sunday, March 16, 2025

Tản mạn - Tùy Duyên



Tuần trước, mình có dịp ghé thăm một người bạn vong niên, người Mỹ, sống ở Chapel Hill, một thành phố cách đây không xa lắm. Buổi ăn trưa kéo dài vài tiếng đồng hồ, ngồi nghe ông chia sẻ về văn học, ca dao dân ca Việt Nam. Dù là người Mỹ, nhưng sự am hiểu của ông về Hán văn và tiếng Việt luôn khiến mình kinh ngạc. Ông là giáo sư chuyên ngành Trung văn cổ đại, lại có năng khiếu đặc biệt về ngôn ngữ, nên khi trò chuyện bằng tiếng Việt hay các ngôn ngữ khác, ông luôn thể hiện sự sâu sắc và phong phú trong cách dùng từ, vượt xa những từ ngữ giao tiếp thông thường. Điều này thật đáng kính trọng.

Mình say sưa nghe ông diễn giải những mẫu chuyện từ thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Trung Quốc cho đến "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" của Nguyễn Đổng Chi, "Tục ngữ phong dao" của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc... Ngồi nghe mà cảm giác lạ lẫm, một người Việt nghe một người Mỹ phân tích kho tàng ngôn ngữ và văn hóa dân tộc mình. Thực ra, đây không phải lần đầu mình có cảm giác này. Mấy năm trước, khi nhận ra thư viện văn học đầy đủ nhất về Việt Nam lại nằm ở đại học Cornell (New York, Mỹ), chứ không phải là một thư viện trong nước hoặc của cộng đồng người Việt hải ngoại, thì mình cũng rất bất ngờ. Như thể phát hiện ra "Tàng Kinh Các" không ở Thiếu Lâm Tự vậy. :-)

Rồi tự an ủi rằng ngôn ngữ là tài sản chung của nhân loại, ai cần thì xử dụng, ai hiểu được giá trị thì gìn giữ. Đơn giản vậy thôi. Tham lam quá có khi lại như Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn, cả đời ẩn thân vào kinh điển của "Tàng Kinh Các" mà bị "tẩu hỏa nhập ma". Ngược lại, Vô Danh Thần tăng, suốt đời chẳng cần tên tuổi, không cần cạnh tranh với ai, chẳng dính mắc gì, chỉ lo quét lá, lau chùi, dọn dẹp, mà lại có thể hóa giải được mối hận thù truyền kiếp của những người tên tuổi lẫy lừng.

Nhắc lại, mình cũng từng hỏi ông bạn già E.H về việc dịch các tác phẩm lịch sử cổ đại Việt Nam như "Lĩnh Nam Chích Quái" và "Việt Điện U Linh Tập" sang tiếng Anh. Dẫu biết ông đã bắt tay vào công việc này từ lâu, nhưng không biết đã hoàn thành chưa. Mình lâu nay vẫn thắc mắc về việc đất nước ta vốn đầy rẫy nhân tài, thậm chí thặng dư, nhưng chẳng thấy ai dịch những tác phẩm này ra tiếng Anh. Nay lại thấy ông bạn già ngoại quốc miệt mài làm việc này, nên mình thường đùa rằng ông "mắc nợ" dân Việt Nam. Tuy nhiên cũng có chút xấu hổ vì bản thân bất tài, không giúp ích được gì, nên thỉnh thoảng mời ông uống cà phê, hỏi thăm có cần hỗ trợ gì không. Nhưng lần nào ông cũng chỉ trả lời gọn lỏn: "Không, tôi đã có tất cả, chỉ thiếu thời gian!". Mình biết ông bận rộn với bao công trình dịch thuật khác, từ văn học, âm nhạc đến nghiên cứu văn hóa, nên thôi, coi như tuỳ duyên vậy. Cái gì đến sẽ đến, lâu lâu ghé thăm, mời ly nước bữa trưa, cũng là cách trả ơn "vác ngà voi" cho ông :-).

Dù vậy, mình cũng từng tự hỏi, liệu có bao nhiêu người VN hiện nay biết đến hoặc quan tâm đến những tác phẩm như "Lĩnh Nam Chích Quái" hay "Việt Điện U Linh Tập"? Nhớ có lần xem chương trình "Ai là triệu phú" ở Việt Nam, có câu hỏi về "Tự Lực Văn Đoàn". Người chơi trả lời là một gánh hát cải lương, và cô ấy hình như là giảng viên đại học. Nghe mà rụng rời, nhưng đó lại là chuyện "thường ngày ở huyện". Thực ra, chữ nghĩa, văn hóa, văn chương ngày nay đã khác nhiều so với trước. Tất nhiên, ai cũng có giới hạn và phạm vi hiểu biết của riêng mình. Nhưng nguy hiểm hơn cả là sự truyền tải sai lệch thông tin, vô tình hay cố ý, dẫn đến những hiểu lầm và suy diễn sai trái trong cuộc sống. Ngôn ngữ bị lạm dụng, khái niệm bị đánh tráo. Phương tiện truyền thông ngày nay quá đa dạng và tiện nghi, dễ dàng tạo ra sự hỗn độn khó phân biệt đúng sai. Đặc biệt trong các vấn đề tôn giáo và văn hóa xã hội, nơi lòng tin được hình thành và nuôi dưỡng, lại bị chi phối quá nhiều bởi lợi nhuận và vật chất, hình tướng, dẫn đến tâm lý nghi ngờ, hoang mang, sinh ra nhiều nghi vấn và thất vọng trong xã hội. Ngày càng nhiều những hiện tượng cuồng tín, chia rẽ, a dua, công kích, hận thù... xảy ra trong đời sống. Nhưng lại hiếm hoi những sự quan sát độc lập, phân tích khách quan, sáng suốt, trung thực dựa trên sự thật. (À, mà nếu có, chắc gì thiên hạ lại chịu nghe :-)). Tất nhiên lâu nay, "đám đông" (mặc dù không phải là đa số) và các ứng dụng công nghệ, luôn là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến những hiện tượng này. Mà một khi nói đến hiệu ứng của dư luận, lời đồn, hoặc tin tức nghe ngóng từ 'đám đông", thì ôi thôi tây ta gì cũng thế, muôn hình vạn trạng. Đơn giản từ một cuộc bầu cử cho đến những sự kiện cuồng tín vô căn cứ, tạo ra công kích và chia rẽ hận thù, đều xuất phát từ những nguyên nhân sâu xa giống nhau, mặc dù hình thức có khác. Albert Einstein có câu "Just because you believe in something does not mean that it is true". (Tạm dịch: Anh tin vào điều gì đó không có nghĩa đó là sự thật). Trong lịch sử nhân loại xưa nay, đám đông không phải lúc nào cũng đại diện cho trí tuệ, nhưng sức mạnh và hệ lụy của nó tạo ra lại vô cùng nguy hiểm. Ông Mark Twain cũng có một câu rất nổi tiếng là "Whenever you find yourself on the side of the majority, it may be time to stop and reflect". (Tạm dịch: Khi nhận ra mình đang đứng về phía đám đông, thì nên dừng lại và chiêm nghiệm lại vấn đề). Nhưng thực ra nếu cứ khăng khăng cho mình là đúng, tự hào là “đỉnh cao” của nhân loại, thì dù có chiêm nghiệm bao nhiêu cũng chẳng ích lợi gì!



Trở lại đề tài chính mà mình và ông bạn già trao đổi hôm trước, đó là nhân duyên. Mình và anh bạn đều cho rằng mọi thứ có được, hoặc thành tựu trên đời, từ lớn đến nhỏ, đều do "nhân & duyên" (causes & conditions), chứ không phải do bất kỳ thiên tài hoặc vĩ nhân nào một mình có thể tạo ra. Mọi thứ sinh ra đều do duyên khởi, lệ thuộc vào nhiều yếu tố cần thiết khác nhau. Và tất cả các sự vật luôn biến đổi (vô thường), có sinh tất có diệt. Cho nên cũng chẳng có gì cần phải ầm ĩ, xưng tụng cho lắm :-). Thực ra ngay từ buổi sơ khai của vũ trụ, Big Bang cho đến giai đoạn các loài sinh vật hình thành, thì nguyên lý vô thường và duyên khởi đã tồn tại. Nghĩa là trước khi thái tử Tất Đạt Đa ra đời hàng ngàn triệu năm thì "nhân & duyên" đã hiện diện ở thế giới này. Những quy luật nhân quả, vô thường, luôn chi phối vạn sự, vạn vật trong vũ trụ, xưa nay không có ngoại lệ. Và ngày nay khoa học hiện đại cũng chứng minh rõ ràng điều đó. Tuy nhiên, cho đến thời kỳ Đức Phật Thích Ca xuất hiện, Ngài mới bắt đầu giảng thuyết về những chân lý sự thật trong đời sống, chỉ ra những nguyên lý vận hành tự nhiên của vô minh tham ái, sinh tử dính mắc, để hướng dẫn chúng sinh thực hành tự tìm đến con đường giải thoát. Từ đó về sau, trong các kinh điển truyền thừa PG thường nhắc đến những tư tưởng và từ ngữ như vô thường (impermanence), nhân quả (cause & effect), nhân duyên (causes & conditions), duyên khởi (causation) .v.v.. Bởi vậy có một số ít người hiểu lầm cho rằng đó là những sản phẩm của đạo Phật tạo ra. Thực ra thì không phải vậy, đó là những chân lý sự thật của vũ trụ. Cho dù Đức Phật chưa hề xuất hiện ở thế gian này, hoặc Ngài chưa hề thuyết giảng về những điều đó, thì những chân lý đó vẫn tồn tại và vận hành như vậy. Bạn có thể không tin nhân quả, không tin vô thường, nhưng quy luật nhân quả và vô thường thì vẫn cứ vận hành đúng theo chiều hướng mà nó phải vận hành. Nôm na, những người hiểu chuyện thường cho rằng đó là cách vận hành của "pháp".

Ví dụ, một ông xây được cái nhà, là do hội đủ nhiều điều kiện như tài chánh, thợ thầy, thiết kế, gạch, đá, xi măng, vợ chồng đồng thuận, đền bù giải tỏa êm thắm ..v.v...hoặc lung tung gì đó. Một đứa con học được ra ông này bà nọ, là do cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng, do thầy cô, bạn bè, xã hội, ông bán hủ tíu, bà bán xôi, người phu trường, cái ăn, cái mặc .... Một ông lãnh đạo được thăng quan tiến chức, quyền cao chức trọng, thì cần phải hội đủ nhiều điều kiện hơn, phải nhờ vào quần chúng nhân dân, nhờ thuộc cấp làm việc hiệu quả, nhờ quan hệ bạn bè, nhờ sếp chiếu cố, nhờ vợ con ủng hộ…Một ông sư đi bộ bao năm bỗng chốc nổi tiếng, là ngoài công phu rèn luyện bản thân còn phải đủ duyên với các yếu tố khác như nhờ có Youtube, nhờ có các Youtuber đa thành phần, hổ lốn đúng sai, nhờ TV, nhờ smartphone, nhờ những người có thời gian theo dõi và truyền tải, nhờ những người hám danh hám lợi làm tấm gương phản chiếu, nhờ có người lạy lục đu bám, nhờ có những người tin vào công đức ...v.v..và v.v. Nhưng quan trọng nhất là nhờ pháp tu khổ hạnh Dhuta (đầu đà) của các vị Tổ ngày xưa truyền lại. Tất nhiên nếu có một ông sư khác cũng tu khổ hạnh y chang như vậy, hoặc giả phẩm hạnh căn cơ tốt hơn, hoặc ăn nói hay hơn, cũng chưa chắc gây được những sự chú ý như thế. Bởi vậy mới nói là do nhân duyên khác nhau, tùy duyên tạo tác. Những bậc giác ngộ, hoặc người thấu hiểu được các nguyên lý duyên khởi, vô thường, thường chọn lối sống trí tuệ, không khoe khoang, không xưng công trạng, không dính mắc, không ngã mạn, không đề cao bản thân (vì hiểu có được là do nhân duyên), và không bám trụ vào những thứ mà người đời cho là "bất di bất dịch". Nhớ hôm gần Tết, mình hỏi đứa con "Con thấy nhiều người quỳ mọp lạy mấy tu sĩ xin rờ chân, rờ đầu, nghĩa là họ đang lạy ai ? Lạy ông sư đi bộ, hay lạy Hạnh đầu đà của Ngài Ca Diếp ? Họ lạy để được phước báu công đức, lạy để thể hiện sự tôn kính nhà sư, hay lạy vì tỉnh thức giác ngộ ? Người đến chùa chắp tay lạy một chú tiểu quét chùa, là lạy chú tiểu, lạy Tam Bảo, hay lạy chính bản thân họ ?". Đứa con sinh ở Mỹ, trả lời, làm mình ngạc nhiên !

Nhớ có lần mình được nghe một bài giảng pháp của HT Thích Thanh Từ nói về "chữ KHÔNG trong kinh Bát Nhã". Rất hay, và rõ ràng là để hiểu được chữ "KHÔNG" đó một cách đúng đắn, cần phải hiểu biết về thuyết nhân duyên. Nếu không e rằng lại nhầm lẫn giữa "emptiness" (tánh không) và "nothingness" (không có gì). Nói đến đây bỗng nghĩ đến một bài thơ xưa rất hay của thiền sư Từ Đạo Hạnh thời nhà Lý.

Hữu không

Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thuỷ nguyệt,
Vật trước hữu không không.
(Thiền sư Từ Đạo Hạnh)

Tạm dịch:

“Có” thì hạt bụi cũng có
“Không” thì thế giới thảy đều không
Có, không, như ánh trăng dưới nước
Đừng bám hẳn vào cái có, cũng đừng cho cái không là không.
(Từ Đạo Hạnh thiền sư)

Thế nhưng trong cuộc sống thì không phải ai cũng hiểu được những nguyên lý này. Thậm chí có ông leo lên đến hàng lãnh đạo của những quốc gia hàng đầu trên thế giới, mà vẫn sáng nắng chiều mưa, đụng đâu cũng bi bô về cái tôi "vĩ đại". Thông thường thì những người đề cao bản thân thái quá, cũng là những người đổ thừa cho người khác nhiều nhất khi thất bại hoặc bị bế tắc. Họ hiếm khi biết nghĩ cho người khác, vì thực sự họ không quan tâm ai hơn cái "tôi" của họ. Một nhà lãnh đạo tài ba, nhìn xa trông rộng, là người tạo được sự đoàn kết đồng lòng, chứ không phải tạo ra chia rẽ hận thù. Nhưng âu đó cũng là nhân duyên, ai cũng phải có những bài học cho riêng mình để trải nghiệm. Và quốc gia dân tộc cũng vậy, đất nước nào cũng cần phải có những "vận nước" cần thiết để học hỏi và trưởng thành. Mình nghĩ vậy. Thôi xin tạm dừng nơi đây, chúc quý anh chị và bạn hữu một ngày chủ nhật an vui hạnh phúc cùng gia đình.

PN (03/2025)




Saturday, February 15, 2025

"Nhìn" và "Thấy"

"Nhìn" và "Thấy"
(Thành kính tri ân Thầy)

Gần 30 năm trước, cộng đồng người Việt tại một thành phố ở Mỹ mời Thầy Abhinyana đến nói chuyện (một số người gọi là giảng pháp). Hôm đó, nhân dịp Thầy từ Úc sang và ghé thăm tôi vài ngày, tôi có cơ duyên đưa Thầy đến buổi nói chuyện. Đề tài hôm ấy là "Nhìn" và "Thấy".

Thực lòng mà nói, lúc đó tôi chưa hiểu biết nhiều về tôn giáo hay đạo pháp. Tôi cũng không rõ tại sao Thầy không giảng pháp như những vị sư khác mà lại chọn một đề tài có vẻ "đời thường" như vậy. Liệu điều này có liên quan gì đến Phật giáo không? Vì thế, tôi chỉ chú ý đến cách lập luận của Thầy, nghe một lúc rồi lại ra ngoài hút thuốc, đợi Thầy nói chuyện xong để đưa về.

Mãi đến bây giờ, tôi mới dần hiểu được ý nghĩa sâu xa của bài giảng năm ấy. Hôm nay, khi Thầy đã viên tịch, nhân lúc có nhiều bạn bè, người thân thắc mắc về các hiện tượng "tín ngưỡng" và "cuồng tín" trong tôn giáo và đời sống hiện nay, tôi muốn viết vài dòng tri ân Thầy – cũng như coi đây là một lời sám hối của đứa trẻ u mê năm nào.


Trước tiên tôi xin có đôi lời là những gì tôi viết ở đây hoàn toàn dựa trên sự hiểu biết chủ quan của mình. Một bài viết ngắn khó có thể truyền tải hết chiều sâu của đề tài này. Tôi vốn không muốn phụ thuộc vào kinh sách hay theo một tông phái nào cụ thể, nhưng ngôn ngữ là công cụ duy nhất để diễn đạt, nên khó tránh khỏi sự trùng lặp với những gì đã có trong kinh điển. Nếu bạn bè nào cảm thấy hứng thú, hãy đọc cho vui. Nếu ai thấy đồng cảm và muốn tìm hiểu thêm, ngày nay tài liệu về Phật pháp có rất nhiều. Còn nếu muốn tranh luận, thì tôi e rằng bài viết này không phải là nơi phù hợp.

Từ nhỏ, tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình theo đạo Phật. Ngày rằm, mùng một ăn chay, theo ông bà cha mẹ đi chùa. Hình ảnh sư sãi, chùa chiền vốn gắn liền với cuộc sống, nhưng tôi không thực sự hiểu đúng sai thế nào. Kiến thức của tôi về Phật giáo khi ấy chủ yếu xoay quanh nghi lễ, cúng bái, theo truyền thống gia đình và xã hội.

Sau năm 1975, Phật giáo, cũng như tín ngưỡng tôn giáo nói chung, dường như bị chững lại vì ai cũng lo lắng chuyện miếng cơm manh áo. Một số ít không phải lo toan sinh kế thì lại chẳng tin vào tôn giáo, thần linh. Chùa chiền vắng bóng, sư sãi hoàn tục kiếm sống. Đến khi nước nhà mở cửa, kinh tế khá hơn, của ăn của để, nhiều người quay lại tìm kiếm đời sống tâm linh. Chùa to, tượng lớn mọc lên, và kèm theo đó là đủ loại phong thủy, cúng bái, bói toán, kinh doanh, du lịch tâm linh, phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, những phương thức quản lý tôn giáo như giáo hội, hội đoàn, uỷ ban, chính sách định hướng ... cũng nhanh chóng được hình thành.

Những người chưa bao giờ tin Chúa tin Phật bỗng nhiên trở thành tín đồ ngoan đạo. Nhiều người keo kiệt bỗng chốc hào phóng cúng dường. Nhiều gia đình đang yên ổn với mồ mả tổ tiên, bỗng nhiên thấy "phong thủy" có gì không ổn, phải rước thầy về sửa lại để cầu phúc lộc. Và dĩ nhiên, khi có thóc thì có chim – vô số hiện tượng mê tín, cuồng tín cũng từ đó ra đời. Một số chùa chiền, sư sãi, đã thay đổi để bắt kịp trào lưu xã hội và phù hợp với văn hoá tín ngưỡng địa phương vùng miền. (Tất nhiên cũng có nhiều chùa chiền, tăng ni, vẫn còn tinh tấn giữ được hạnh tu của họ).

Trong sự hỗn độn này, hình thức dần lấn át những nội dung cốt lõi. Phật giáo bị biến tướng đến mức nào, không ai có thể chắc chắn. Đức tin bị lạm dụng. Tôn giáo bị chia cắt thành muôn vàn cách hiểu khác nhau, ai cũng cho rằng mình đúng. Hết tông phái này đến tông phái kia, hết thiền này đến thiền nọ, hết đạo này đến đạo kia, hết chùa này đến sư nọ…Như một chiếc bánh chung, mỗi người cắn một miếng và lý giải theo cách hiểu của riêng mình. Nhưng suy cho cùng, đó cũng là quy luật tự nhiên, có cái này ắt có cái kia, có sinh thì có diệt.

Thời buổi đó, như nhiều người khác, tôi cũng cảm thấy lạc lõng trong mê hồn trận của tín ngưỡng và nhận thức xã hội. Tôi bắt đầu tìm tòi học hỏi. Khi ra nước ngoài, tôi may mắn gặp được nhiều vị tăng ni từ các quốc gia khác nhau, tiếp cận với nhiều kinh điển từ những nguồn khác nhau. May mắn hơn nữa là kinh sách ở nuớc ngoài thường có phiên bản tiếng Anh, được dịch trực tiếp từ tiếng Pali hoặc Sanskrit, nên ít bị ảnh hưởng những từ ngữ Hán Nôm hoặc tiếng TQ phiên âm mà tôi thường nghe từ bé nhưng không hiểu. Cũng trong thời gian đó, tôi có cơ duyên gặp được Thầy Abhinyana. Thầy không có danh tiếng, không trụ trì, không có chùa, không tài sản, không cả mộ phần. Nhưng điều Thầy để lại là một dấu ấn sâu sắc trong lòng những ai từng được gặp Người.

Tuy nhiên, đời sống thường nhật cuốn tôi đi. Tôi mải mê công việc, bạn bè, rượu chè, hưởng thụ, và quên đi khát vọng học hỏi về đạo pháp. Mãi đến những năm gần đây, tôi mới có cơ hội nghiên cứu nhiều hơn. Càng tìm hiểu, tôi càng thấy kiến thức của mình nhỏ bé và sai lệch. Những thứ tôi từng tự hào hóa ra chỉ là trở ngại, chỉ làm tăng thêm sự tự mãn và lý luận rối rắm. Càng học, càng buông bỏ, càng thấy đơn giản, và cũng càng cảm nhận sự an lạc nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống. 

Nhìn lại, từ những lời giảng dạy đơn giản của Bụt ngày xưa, đến nay đã hình thành vô số kinh điển, luật luận, tông phái, và các pháp tu tập truyền thừa. Từ Luật tông, Tịnh Độ tông, Thiền tông, Pháp Tướng tông (Duy Thức tông), Mật tông (Chân Ngôn tông), Thiên Thai tông (Pháp Hoa tông), Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Câu Xá tông, Thành Thật tông..v.v.. cho đến sự phân biệt giữa hạnh nọ hạnh kia, đầu đà (dhuta), khất sĩ, Tiểu thừa, Đại thừa, Nam truyền, Bắc truyền... Ngôn ngữ, khái niệm, định nghĩa, hình thức, nghi lễ, cứ thế đan xen và biến đổi qua từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng đất nước khác nhau. Trong dòng chảy ấy, không ít người lẫn lộn giữa phương tiện và mục đích, giống như câu chuyện ngón tay chỉ mặt trăng ngày xưa, khi người ta chỉ chăm chú vào ngón tay mà quên mất mặt trăng.

Và một ngày nọ, tôi chợt nhớ lại bài giảng năm xưa của Thầy, "Nhìn" và "Thấy". Tôi mới hiểu rằng "Nhìn" là sự nhận biết của các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và ý (mind). Nhưng cái "Thấy" mà Thầy muốn nói không phải là sự phân biệt theo tưởng tri hay thức tri, mà là sự nhận thức bằng trí tuệ. "Thấy" trong Phật giáo là tuệ tri, là sự nhận biết không bị che mờ bởi thành kiến, kiến thức hàn lâm, hay lý thuyết cao siêu. Có lẽ đây là một trong những tư tưởng quan trọng nhất của Phật giáo mà tôi từng được nghe.

Đức Phật vốn không lập ra tôn giáo để thờ phụng hay mê tín. Ngài chỉ có một mục đích duy nhất là tìm con đường diệt khổ cho chúng sinh. Khi tìm ra con đường ấy, Ngài được gọi là Bậc Giác Ngộ (Buddha). Chữ Buddha trong tiếng Phạn chỉ đơn giản có nghĩa là người tỉnh thức (the enlightened one/the awakened one), chứ không hề mang màu sắc thần thánh hay phép thuật siêu nhiên. Chữ Buddha tiếng Sanskrit có gốc từ chữ Budh (Bụt), nghĩa là tỉnh thức (to wake up), hoặc biết (to know).

Tất nhiên, ở đây đang nói đến cái "thấy đúng" và "biết đúng" của bậc Giác Ngộ. Còn như mình, cứ nhìn gà hóa thành cú, "thấy" gì cũng qua lăng kính "thiên tài" của bản thân, thì cao siêu lắm cũng chỉ là ảo giác và ngộ nhận 😊. Trong PG, có sự phân biệt rõ ràng giữa "tướng biết" và "tánh biết". "Tướng biết" là cái biết chủ quan, dựa trên hình tướng bên ngoài, bị che lấp và bóp méo bởi vô minh. Còn "tánh biết" là sự nhận thức trong sáng, rỗng rang, tịch tịnh của trí tuệ. Đây chính là trí tuệ (wisdom) vốn sẵn có trong mỗi con người, không ai tạo ra nó, cũng không ai có nhiều hay ít hơn ai. Nhiều vị thiền sư đắc đạo ví von rằng: Chỉ cần những đám mây tan biến, thì bầu trời xanh sẽ hiện ra - Kiến tánh thành Phật. Cho nên điều này không nhất thiết cứ là kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ, giáo sư, nhà nghiên cứu... hoặc giàu có, học thức, địa vị xã hội, quyền cao chức trọng linh tinh gì đó thì có thể đạt được. Câu chuyện giữa Ngài Huệ Năng và Ngài Thần Tú chính là một minh chứng rõ ràng cho chân lý này. Nhưng trong đời sống thường nhật, chúng ta vẫn bị cuốn vào những vòng xoáy vô minh. Ai cũng mang theo lớp vỏ của thành kiến, danh vọng, tiền tài, và những mê muội cá nhân. Rốt cuộc, cái "Thấy" của chúng ta vẫn chỉ là cái thấy đầy chấp trước và ngộ nhận.

Trở lại với đời thường, mỗi ngày chung quanh chúng ta nhan nhản những cái "nhìn", cái “thấy" đầy thiên kiến lệch lạc. Và tất nhiên là cho dù cố gắng tỉnh táo đến đâu, thì ít nhiều mình cũng sẽ bị ảnh hưởng, bởi cuộc sống vốn là một bữa tiệc buffet phong phú - Gần ông lý luận, nghe toàn chuyện lý sự, thuyết nọ thuyết kia. Gần ông hám danh, nghe toàn những bánh vẽ ảo vọng, con cóc cũng có thể hóa thành ông trời. Gần ông cơ hội, hôm nay kết thân với người này, mai kề cận với người kia, bao nhiêu câu chuyện làm quà. Gần ông ham tiền, suốt ngày chỉ nghe nhắc đến chuyện tiền tỉ, tiền ức. Gần ông mê chính trị thì ra rả suốt ngày nghe chuyện hơn thua, mưu kế, thủ đoạn xấu xa. Gần ông bùa phép mê tín thì nghe toàn chuyện oan gia trái chủ, ma quỷ, địa ngục thiên đường. Gần ông nông dân, thì đơn giản chỉ có cái cày, cái cuốc...v.v.. Cứ thế, thích món nào thì chọn món đó, ai thuận ta thì “đúng” ai nghịch ta thì “sai”, rồi dính mắc vào nhau !

Nhiều người rất đa nghi nhưng lại dễ tin, nghe có vẻ mâu thuẫn và hài hước, nhưng lại là sự thật. Cho nên nếu không đủ tỉnh táo, có khi ta lại rước cả cái vô minh của thiên hạ vào mình; và những đám mây đen, mây đỏ, che lấp bao quanh đã dày lại càng dày thêm. Bản thân tôi cũng vậy, cứ thỉnh thoảng hết nghe bà vô thượng sư này lại đến ông thần y kia, hết ông "Phật sống" này đến bà “Bồ tát” kia, hết nhà nghiên cứu này đến ông chuyên gia nọ, hết ông tiến sĩ này lại đến giáo sư kia, hết người thông thái này đến gã phi thường nọ.... Đọc hoài câu "ưng vô sở trụ", nhưng cứ gặp chỗ nào hơi cộm chút là lại bám vào chỗ đó. Thành ra cái "thấy", cái "biết" của mình vẫn cứ mãi là một ly nước đầy vẫn đục của kẻ phàm phu 😊. Ngược lại, những người hồn nhiên, trong sáng, không bị dính mắc, họ lại sống an nhiên, tỉnh thức, và hạnh phúc hơn nhiều !

Thôi dài quá, xin tạm dừng nơi đây. Đã lâu không viết lách, mới viết lại tuần rồi nên giờ gõ máy chút đỉnh đã thấy mỏi tay :-). Xin mến chúc tất cả một cuối tuần an vui và hạnh phúc .

PN
(02/2025)



Saturday, February 08, 2025

Chúc mừng năm mới,

Đầu năm,

Lâu ghê, mình không ghé lại trang blog này. Cũng không phải là không có thời gian, cũng không phải là lo âu phiền muộn chuyện gì. Nhưng có lẽ ngày càng thấy tự trọn vẹn với chính bản thân. Những vấn đề và sự kiện bên ngoài không phải là những thứ làm cho mình quan tâm lắm, nên cũng lười không muốn viết lách gì thêm. Âu đó cũng là những thay đổi bình thường trong cuộc sống, xảy ra như một trình tự tự nhiên của ý thức.

Hôm nay nhân dịp đầu năm, rảnh rang, thanh thản, muốn viết đôi lời để chúc mừng năm mới đến quý anh chị em và bạn bè thân hữu. 


Tết năm nay về VN ăn tết với Má, đúng một tuần. Dù ngắn ngủi nhưng sự đón tiếp chân tình của những anh chị và bạn bè làm mình thực sự xúc động. Những món ăn quê hương đậm đà hương vị ngày tết, đầy ắp kỷ niệm thời thơ ấu ở quê nhà. Sáng 5 giờ sáng, chưa chợp mắt được bao nhiêu sau chuyến bay dài, các ông anh đã đưa mình đi về BL ăn tết và mừng tuổi Má. Ra đến tận Dầu Giây, trời mới sáng, ăn sáng uống cafe mà nhiều người vẫn còn ngái ngủ. Hai bên đường hoa kiểng chưng bày rực rỡ sắc màu, tràn ngập không khí Tết. Thật bình an và hạnh phúc, đặc biệt là Má mình rất vui. Xong ba ngày Tết xuống lại SG, những ly rượu đầu năm với anh em bạn bè giữa rừng người hớn hở đón Xuân, ấm áp tình thân.

Sáng mùng một tết, đẩy xe đưa Má đi thăm một số ngôi chùa, đâu đâu cũng rộn rã tiếng cười mùa Xuân. Ghé thăm một ngôi chùa mới, được nhắc đến nhiều những năm gần đây, cảnh trí rất đẹp. Tình cờ gặp được vị sư trù trì, mời vào uống trà, đàm đạo đầu năm. Cũng là duyên lành, an lạc đầu năm :-).

Thực ra thì hầu như năm nào mình cũng về thăm Ba Má. Có lúc trước Tết, có lúc sau Tết, có lúc mùa hè, nhưng thỉnh thoảng mới về đúng vào dịp Tết. Ngày xưa, mỗi lúc về VN vào dịp Tết, những cuộc vui tiệc tùng, rượu bia triền miên, làm cho lúc nào cũng thấy bận rộn nặng nề. Giờ thì càng lúc càng lớn tuổi, những cuộc vui hoặc rượu bia cũng dần dần không còn sức hấp dẫn nữa. Đặc biệt là năm nay, đi đâu cũng có "duyên" được nghe nói về các câu chuyện Phật, Pháp. Từ những cuộc trao đổi về kinh điển, điển tích ngày xưa với các vị ni, sư; cho đến các mẫu chuyện tâm linh tín ngưỡng của VN hôm nay - chùa to, cúng bái, mê tín, hoặc chuyện những nhà sư đi bộ đang thu hút sự chú ý trên mạng ..v.v.  May mắn và thú vị, vì bên Tây bên Mỹ, bận rộn đời sống hiếm khi được nghe nói về những đề tài này.

Nói về ngày Tết, lâu nay mình vốn có một thói quen là chiều cuối năm thích đi lang thang, và đêm 30 (năm nay chỉ có đêm 29) một mình ngồi nhìn lại những mùa Xuân đi qua cuộc đời mình. Đã bao nhiêu năm trôi qua, vẫn thói quen đó, nhưng mỗi lần là mỗi cảm nhận khác nhau. Buổi chiều cuối năm nào cũng rộn ràng xuân sắc, người mua kẻ bán, người ở kẻ đi, nhưng bao giờ cũng là những niềm vui và nỗi buồn. Hân hoan và sâu lắng !

Ngồi nhớ lại những cái Tết từ thời bao cấp. Thương cảm cho các bậc cha mẹ đầy ắp lo toan; những nhọc nhằn của kẻ tha phương cầu thực; những nỗi buồn thân phận của người sa cơ thất thế ... Rồi nghĩ đến những cái Tết xa quê của những đứa con lưu lạc xa nhà, biển đảo rừng sâu, luôn đau đáu nhớ về gia đình, về quê hương đất nước của mình. Gần đây hơn, đời sống quê nhà tuy có khá hơn, nhưng vẫn còn đó những nỗi lòng trắc ẩn mỗi độ Xuân về. Mỗi người mỗi cảnh làm sao kể xiết. Đã có bao nhiêu đêm 30 đi qua trong cuộc đời mình, và bao nhiêu cảm xúc vui buồn lẫn lộn xen kẽ lẫn nhau. Những bài thơ xưa của các vị thiền sư như Mãn Giác, Đạo Xuyên, Trần Nhân Tông ...cũng như những nỗi niềm trắc ẩn cuối năm của các thi sĩ như thầy Tuệ Sỹ, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyễn Bính, Quang Dũng ... cứ đến hẹn lại lên, lãng đãng cùng mình vào những đêm Giao thừa. Quả đúng là dính mắc !

Chong đèn chực tuổi cay con mắt
Đốt trúc khua na đắng lỗ tai
(Nguyễn Trãi)

Lận đận năm chầy nữa
Sinh nhai ngọn gió rừng
Hàng cà phơi nắng lụa
Ngần ngại tiếng tha phương
(Tuệ Sỹ)

Nhưng thực ra cho dù có chào đón hoặc âu lo, mừng vui hay buồn tủi, thì mùa Xuân vẫn cứ đến giờ đến khắc là xuất hiện. Không ai tạo ra nó được, mà cũng không ai ngăn chận được nó. Mùa Xuân không buồn cũng không vui, tự nhiên đến, và tự nhiên đi. Tuy nhiên mỗi người chúng ta sẽ tạo ra một cái “mùa Xuân" cho riêng mình để hạnh phúc, buồn vui, lo lắng, nhớ nhung hoài niệm, hoặc phô trương gì đó. Đến rồi đi. Suy cho cùng thì đó cũng chỉ là những cảm nhận cá nhân dựa trên cái tưởng tri, thức tri, của riêng từng người, không ai giống ai, và cũng không "mùa Xuân" nào giống "mùa Xuân" nào. Và thời gian cũng vậy, cứ tuần tự trôi qua, thản nhiên và lặng lẽ. Không ai có thể tiết kiệm thời gian được, cũng không ai có thể níu kéo thời gian được, mà chỉ có thể không phung phí thời gian của chính mình. Bụt ngày xưa cũng thường dạy “What you think, you become. What you feel, you attract. What you imagine, you create.”. 


Quả nhiên là vậy, chính suy nghĩ của mỗi người tạo ra đời sống của riêng họ. Mình thì luôn tin rằng tới một lúc nào đó, ai cũng sẽ nhận ra những thứ cần thiết cho cuộc sống vốn đã có sẵn từ bản thân. Buồn vui gì cũng đến từ bên trong, không cần phải tìm kiếm đâu xa. Thế giới này vốn đồng nhất và tự nhiên, rỗng rang và tịch tịnh. Nó tự vận hành theo cách hoàn hảo nhất của nó. Tuy nhiên, mỗi người chúng ta từ cái thế giới chung đó lại tạo ra cho mình một cái "thế gian" riêng, để rồi vui buồn sướng khổ, tham ái, phân biệt, tranh giành, hơn thua, hận thù, đố kỵ lẫn nhau. Cuối cùng thì cốt cũng chỉ để tạo ra cái "tôi", cái “ngã” cho bản thân theo một cách hiểu biết nhất định nào đó, hoặc là chạy theo thông lệ tiêu chuẩn của xã hội mà họ đang sống, hoặc theo văn hóa địa phương vùng miền, hoặc theo truyền thống của gia đình tộc họ, hoặc theo tham vọng cá nhân..v.v. Mấy bữa rồi được nghe các anh chị và chư vị tăng ni nói nhiều về "Phật Pháp", mình càng chiêm nghiệm đạo lý này. Thôi thì năm mới, mong rằng ai cũng tự tạo cho mình một mùa xuân an vui, một năm mới hạnh phúc, sống buông xả nhẹ nhàng, ít giận hờn sân si :-).

Nhân nói về đề tài này, cũng xin mạn phép gởi đến các anh chị và bạn bè thân hữu một bài thơ mình viết vào buổi sáng cuối năm, trên đường đi về nhà cùng với các ông anh đồng hương của mình. Một ngày rất vui và an lạc, đặc biệt là có dịp được ghé thăm một vị sư thầy tận trên Định Quán. Đọc cho vui đầu năm...

Một mình,

Đò ngang ai đợi ai chèo ?
Bao năm u tối trăng treo đỉnh đầu
Loay hoay sở đắc về đâu
Giật mình tỉnh giấc mưu cầu huyễn tri

Trong ta có hết, đợi gì ?
Tự mình đốt đuốc mà đi, tự mình
Tự chèo, tự thấy, tự soi
Rỗng rang, tịch tịnh, không đòi, không mong
Không sinh, không hữu tác thành
Còn đâu luyến ái tham giành sở tri ?

Ngẩng đầu gió thổi mây đi
Trời cao xanh ngắt có gì xanh đâu ?
Cuối đầu nhìn xuống sông sâu
Lăn tăn sóng nước tìm đâu bóng mình ?
Vô thường chấp ngã, vô minh !
Vô tâm, kiến tánh, hữu hình như không !

Trả đò về lại giòng sông
Trả Như Lai lại thinh không. Niết Bàn !

PN (27 Tết năm con Rồng)

Nhân dịp đầu Xuân năm mới, kính chúc tất cả quý anh chị, bạn hữu, cùng gia đình một năm mới sức khoẻ, bình an, hạnh phúc, và an nhiên tự tại.

Thân mến,

PN