Saturday, March 31, 2018

Công bằng ?


Mới hôm rồi về nhà, chạy ngang Cầu Bông mua heo quay bánh hỏi, đi qua Lăng Ông. Vẫn còn tháng Giêng, ghé viếng thăm Lăng chút rồi đi. Dọc đường, cậu tài xế hỏi:
- Sao Lăng Ông thì vẫn còn, mà không thấy đặt tên đường nào cả anh hén ?
Ừ, lâu nay mình vẫn biết thế nhưng chẳng ai hỏi, ai nhắc, rồi cũng quên. Mình nghĩ nếu Sài Gòn mà không có tên đường Lê Văn Duyệt là quá thiếu sót, quá nhỏ nhen.

Một vị Tổng Trấn lâu đời nhất, đã có công kiến tạo Sài Gòn Gia Định phát triển rực rỡ thời ban đầu, khiến người ngoại quốc Anh, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha ... phải thán phục và tôn kính. Dân chúng ai cũng kính cẩn gọi Ngài là Cụ Thượng. Chính sách an ninh nghiêm khắc, văn hoá an dân, xây dựng thương cảng, giao thương rộng mở, ưu đãi ngoại thương, bình đẳng tôn giáo, bang giao hữu hảo với láng giềng Chân Lạp Xiêm La, nghiêm trị bọn tham quan cửa quyền. Hỏi thử mấy thế kỷ sau, cho đến bây giờ, có bao ngài thị trưởng, đô trưởng, hoặc lãnh đạo của SG, đã có tư duy và tài năng làm được như thế ?

Nội điểm sơ qua cái trí tuệ của các cuộc dẹp loạn bình an dân từ Nam ra Bắc. Cái sáng suốt xây dựng kinh tế thương mại và phồn thịnh đất nước. Cái can đảm dám ngăn vua GL không truyền ngôi cho Minh Mạng. Cái dũng khí xử tử tham quan, kể cả phó tổng trấn Huỳnh Công Lý (cha vợ vua Minh Mạng). Cái sĩ & trung nghĩa của một vị quan vì dân vì nước, không nịnh nọt bợ đỡ bề trên, không sợ cường quyền, không tham nhũng hối lộ.... Bấy nhiêu đó cũng đáng cho người đời tôn kính và noi theo rồi. Thế thì tại sao tên Ông không được đặt cho con đường nào cả, đặc biệt ngay chính trên cái thành phố mà Ông đã có công kiến tạo nên ?

Mình không rõ lắm, nhưng nghĩ có thể là liên quan đến việc làm quan thời Gia Long, chứ không phải vì câu chuyện Lê Văn Khôi. (Mở ngoặc chút, nội cái chuyện Gia Long là công hay tội, mà không biết đã có bao nhiêu sử gia miệt mài năm tháng, rồi mỗi ông nói một nẻo. Người sợ, kẻ làm thinh, tới giờ vẫn chưa dám trả lại sự thật cho lịch sử   :-)). Xưa nay, tất nhiên là đại đa số người dân sống dưới chế độ nào thì phải làm việc cho chế độ đó, đặc biệt là dưới thời phong kiến, mang nặng ý thức hệ bề tôi, quần thần. Có người đi làm vì mưu sinh, vì trách nhiệm. Có người phụng sự vì lý tưởng. Nhưng bên cạnh đó cũng có kẻ chỉ vì cơ hội, hám danh hám lợi, cậy quyền cậy thế, xu nịnh hà hiếp người khác. Quan cũng thế mà vua cũng vậy. Còn triều đại đó có xứng đáng được vinh danh hay không, có đem lại sự thịnh vượng cho nước nhà hay không, lại là một góc cạnh khác. Lịch sử dân tộc nào cũng vậy, cũng sẽ ghi nhận và đánh giá điều đó rõ ràng, cho dù có những giai đoạn bị bóp méo xuyên tạc. Thời nay cũng thế thôi, "ăn cơm chúa phải múa tối ngày", còn chuyện ai tốt ai xấu thì khó lường cho đến khi bị lộ :-). Nhiều quan lại bây giờ có khi còn thua xa các vị quan ngày xưa về sự can đảm, trung nghĩa, lòng tự trọng & ái quốc thương dân.

Vậy thì chỉ vì có định kiến với triều đại nhà Nguyễn (chủ yếu là Gia Long), mà bao nhiêu công trạng của các vua quan nhà Nguyễn, Chúa Nguyễn, đều bỏ cả sao ? Hàng trăm năm mở mang bờ cõi, xây dựng đất nước cho chúng ta có được VN hôm nay, đều xấu cả sao ? Những con đường, những ngôi trường, những đền đài, mang tên Minh Mạng, Duy Tân, Lê Văn Duyệt, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Phan Thanh Giản.... đều phải gỡ bỏ hết sao ?
Thực ra nhiều người cũng thắc mắc tại sao triều đại nhà Nguyễn bắt đầu từ vua Gia Long đều không được trọng thị, tất cả tên hiệu của vua quan đều bị gỡ xuống. Có người cho rằng vì triều Gia Long là triều đại phong kiến cuối cùng. Có người cho rằng vì nhà Nguyễn về sau yếu kém nên để Pháp đô hộ. Có người cho rằng vì Nguyễn Ánh đi cầu viện nước ngoài để giành lại đất nước .v.v.... Mình thì luôn nghĩ nên có cái nhìn khách quan vào hoàn cảnh xã hội và chính trị mỗi thời kỳ, cũng như bối cảnh chính trị thế giới của từng giai đoạn lịch sử, để đánh giá công tội của các bậc tiền nhân công bằng hơn. Thời đại ngày nay cũng có những quốc gia trên thế giới nhờ cậy sự giúp đỡ chi viện từ nước ngoài, hoặc dựa dẫm quan hệ quốc tế để giành lại chính quyền, hoặc đi theo chủ thuyết ngoại bang để xây dựng đất nước. Chẳng lẽ đời sau cũng xoá sạch công trạng của họ sao ? Không. Mình nghĩ đời sau phải nên công bằng để luận công và tội của các tiền nhân. Càng không nên gieo vào đầu của những thế hệ trẻ những hận thù vô cớ & những quan niệm dựa trên ý thức hệ sai lệch và chủ quan. Trên thế giới, rất nhiều quốc gia dạy dỗ con nít sự công bằng (fairness) và lòng vị tha (forgiveness) từ hồi còn mang bỉm, mang tã.

Không ai phủ nhận công trạng của các bậc anh hùng tiền nhân đối với đất nước, nhưng cũng phải chấp nhận sự thật rằng ai cũng có những khiếm khuyết nhất định của họ. Vua chúa cũng thế, mà quần thần cũng thế. Ví dụ: Quang Trung tài ba, anh dũng, nhưng khi thành công lại đào mồ các Chúa Nguyễn. Cho nên Gia Long lên ngôi, lại truy sát tận diệt Tây Sơn là thế. Lâu nay vẫn thường vậy, đời sau "xử" đời trước. VN và Tàu ngày xưa luôn luôn bị lôi cuốn vào những bi kịch này, nên nội chiến triền miên, không tận dụng được tính kế thừa, chậm tiến so với thế giới phương Tây. Thử hỏi bao nhiêu công việc bận rộn để trả thù và gieo rắt hận thù như thế, rồi lo xây dựng tượng đài, lo xây lăng tẩm mồ mả, rồi lo dấu đi cho khỏi bị đập phá, lo yếm phong thuỷ địa lý để kéo dài thời đại, lo phô trương, rồi lo đi cầu hàng .....thì còn lại bao nhiêu thời gian để xây dựng đất nước và chăm lo đời sống người dân ? Thực ra Nguyễn Huệ và nhà Tây Sơn anh dũng, giỏi chiến đấu, giành được non sông nhưng lại yếu kém về mặt xây dựng đất nước. Quân đội đa phần là nông dân nổi dậy, chỉ giỏi đánh nhau. Đặc biệt là sau khi vua Quang Trung mất, triều đình suy thoái loạn lạc, tranh giành quyền lực. Người dân phải chịu nhiều khổ lụy, nhất là dân miền Nam và miền Tây Nam bộ, nên họ ủng hộ Nguyễn Ánh phục hưng. Người ta thường nói, đánh lộn thì dễ, làm hoà mới khó. Giành nước thì dễ, xây dựng quốc gia mới khó. Nhưng nếu không biết công bằng giữa công và tội, không phân minh giữa tốt và xấu, thì làm sao làm hoà, làm sao xây dựng kiến tạo ?

Nhớ hồi mình còn nhỏ đi học, học cả Nguyễn Huệ lẫn Nguyễn Ánh. Có những con đường, trường học, căn cứ huấn luyện, mang tên nhà Tây Sơn như Quang Trung, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân ... nhưng cũng có cả tên anh hùng của triều đại Gia Long như Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Lê văn Duyệt, Duy Tân.... Suy cho cùng, đất nước nào thời đại nào cũng có những anh hùng tận tụy hy sinh vì nước vì dân, vì quê hương đồng bào của họ. Bên cạnh đó cũng không hiếm bọn bán nước cầu vinh, coi tư lợi trọng hơn quốc gia, cơ hội chủ nghĩa.
Thiết nghĩ, những vị anh hùng liệt sĩ hy sinh vì nước vì dân đều đáng được tri ân. Cho dù ý thức hệ có khác nhau, nặng tính triều đại phong kiến, nhưng có xưa mới có nay. Mỗi thời đại lịch sử có những ưu khuyết nhất định của nó, nhưng không nên vì thế mà phỉ báng tất cả công trạng cao cả của họ với đất nước. Lịch sử phải được công bằng nói lên sự thật. Một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ trở thành thế hệ "tiền nhân". Liệu ta có mong muốn thế hệ sau có cái nhìn phiếm diện, thiếu công bằng về những người đi trước hay chăng ? Chết là hết. Thiết nghĩ người chết không ai quan tâm đến công trạng thị phi nữa, nhưng người sống phải có trách nhiệm công bằng với công và tội của tiền nhân. Nghĩ vậy !


Saturday, March 24, 2018

Đêm bên bờ Trà Khúc



Gió bấc ngàn xưa về đây chớm lạnh
Rờn rợn trăng tàn lấp lánh trên sông
Ly rượu cuối năm cay nồng khoé mắt
Rát mặt môi cười hiu hắt phố đông

Bến cũ rêu phong rỉ máu Hàm Rồng (*)
Trắng đêm đầu sóng nẫu lòng Thiệu Khôi (**)
Đoản kiếm lọc lừa trên ngôi tuẫn tiết
Nước mắt thật thà chảy miết quanh đây

Cuộc rượu đêm nay rót đầy trắc ẩn
Cổ tích một thời cứ vẫn nợ nhau
Ai nợ Giao Châu bên bờ Nam Chiếu
Ai nợ quần thần để thiếu minh quân ?

Nhớ tiếng gươm xưa cờ lau xao xác
Nửa đời phiêu bạt ngơ ngác chim Di
Non thế kỷ đám con lì chinh chiến
Mẹ quê nhà đau điếng đói rưng rưng ...

Đêm thấm lạnh, mắt trừng soi phương bắc
Chuyện nghìn năm quay quắt một đêm say !

(*) Long đầu hý thuỷ
(**) Điển tích Mẹ vua Nam Chiếu & Cao Biền

PN

Friday, March 23, 2018

Phiếm: Về quê xưa



Mình nhớ có một nhà văn Mỹ nào đó khi trở về quê cũ của ông, đã nói như thế này "When you finally go back to your old hometown, you find it wasn't the old home you missed but your childhood." (Tạm dịch: Cuối cùng khi trở về lại quê mình, mới nhận ra rằng không phải là nhớ ngôi nhà xưa, mà là luyến tiếc thời thơ ấu"). Đúng vậy, mình cũng quan niệm như thế. Dĩ nhiên trong những kỷ niệm của thời thơ ấu, có cả ngôi nhà xưa cũ kỹ của mình.
Riêng mình, cả gia đình cha mẹ đã rời xa quê ấy lâu lắm rồi, cả gần thế hệ. Nơi đó, chỉ còn lại những ngôi mộ của ông bà, người thân, ngày mỗi riêu phong bạc phếch. Thế nhưng lần nào về VN, dù bận bịu thế nào cũng tranh thủ chạy về nơi đó thắp vài cây nhang, chạy xe máy một vòng, bờ đê ruộng lúa, nương mía nương mì, con sông ngọn núi, lang thang.... Xong, lên thị xã uống vội vài ly rượu với bạn bè, rồi đi. Dẫu ở xa cho mấy, rồi cũng thèm về ngồi cạnh mộ ông bà, nhổ cây cỏ, thắp cây nhang, ngồi nhớ lại những quãng ngày thanh bình, êm đẹp.

Mình lớn lên ở quê Ngoại nên không biết nhiều về quê Nội. Quê Nội mình là vùng chiến tranh, mất an ninh, mãi sau năm 1975 mới đến được. Gia đình mình thì gần như bị bắt buộc phải về quê nội ngay sau ngày đình chiến. Ở đó được vài năm nhưng không có nhiều ký ức đẹp đẽ lắm, ngoài những chuyện như cưỡng chiếm ruộng vườn, vô hợp tác xã, chứng lý lịch, hận thù và đố kỵ ....v.v. Quê Nội mình cũng có những cánh đồng mía bát ngát, dòng sông trong vắt lững lờ. Bên kia sông có bờ xe nước đêm ngày thổn thức cạnh luỹ đằng ngà râm mát quanh năm. Nhưng đáng tiếc, những nét đẹp ấy đã sớm bị lu mờ bởi những tranh chấp nghiệt ngã và định kiến nhỏ nhen của những con người thiệt thòi cả về tư duy lẫn ý thức hệ. Điều đó cũng dễ hiểu và dường như là hiện tượng tất yếu sau lưng một cuộc cách mạng vô sản. Một số nước khác trên thế giới cũng từng trãi qua hoàn cảnh tuơng tự như thế, rồi họ thay đổi. Cho nên mỗi lần về đó thắp hương, mình vẫn thương cái nơi chốn ấy. Cầu mong ngày mỗi thông thoáng, tốt đẹp hơn !

Với quê Ngoại thì khác, mình thuộc cả từng cái mương cái hào, bờ tre khóm dứa. Từng phiên chợ chiều, từng ngôi chùa làng, từng mái đình lối xóm. Từng khu gò mả, từng cái chòi canh, từng ao sen bàu cá. Những con đường thân thuộc mỗi ngày Ba La, Vạn tượng, Quán láng, Thu Xà, Tân Mỹ, Phổ An, Hiền Lương, Khánh Lạc, Sung Túc, Hàm Long, Hổ tíu, Phú Thọ .... Đâu đâu cũng có một cái gì còn lại để nhớ để thương. Ngôi nhà Ngoại mà mình đã sống và lớn lên từ nhỏ cũng đã bị đốt cháy, nhưng quả nhiên cái ký ức tuổi thơ vẫn còn mãi mãi .....không ai thiêu rụi được !

Và về quê, thì cũng chỉ cần có thế là đủ. Lần nào cũng vậy, sau khi thắp hương cúng giỗ cho ông bà xong, mình mượn chiếc xe máy chạy một vòng những nơi chốn cũ quen thuộc. Vẫn thế, vẫn nghèo nàn, vẫn thân thuộc, vẫn một mùi lúa rạ, mùi phân bò phân trâu, cỏ rác, khói đốt .... nhưng mà vẫn mê vẫn thích mới lạ. Đôi khi nhớ đến TCS .... "Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy. Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày xưa ...", rồi lại phì cười một mình. Có lẽ rồi ai ai cũng có một "đường chạy vòng quanh" cho cuộc đời mình, còn vòng quanh đó lớn hay nhỏ lại là chuyện khác :-).

Một người bạn thân thường cứ thắc mắc " ...Sao những người bà con ở gần đấy không làm chuyện mồ mả, mà mày xa xôi thế cứ nhất định phải về ?". Thực ra thì mình cũng chưa bao giờ trả lời cho bạn ấy. Câu hỏi của bạn mình thuộc về vấn đề trách nhiệm và nghĩa vụ. Còn đối với mình, việc chăm sóc mồ mả thờ cúng ông bà, chưa bao giờ là trách nhiệm hoặc nghĩa vụ, mà chủ yếu là vì nhu cầu bản thân. Như một bản năng cần thiết, như con cá hồi có nhu cầu trở về chốn cũ, như con cá thài bai cứ lội ngược giòng trở về cố hương, như một đứa con thèm được một cảm giác gần gũi thương yêu che chở bên cạnh cha mẹ ông bà. Mình từ nhỏ sống với ông bà Ngoại, nên cảm giác thân thuộc đó trở thành một nhu cầu cần thiết. Bởi thế mình ít quan tâm người khác có làm nghĩa vụ ông bà hay không. Nếu có, thì mình vẫn cứ về. Về chỉ để được ngồi cạnh ngôi mộ ông bà ấm áp. Về để được chạy xe máy vòng vòng trên những lối rẽ ngày xưa. Đôi khi không có thời gian, vội vã về vội vã đi, như lần mới vừa rồi cũng vậy, thế mà cứ thích.

Nhưng về quê mà không nói đến con sông quê thì cũng là điều thiếu sót. Nhớ có ai đó đã nói "...trong mỗi con người VN đều có một giòng sông ...". Có lẽ đúng thiệt. Mỗi người VN hình như luôn mang trong mình một giòng sông nào đó. Cho dù có lỡ bồi dâu bể, gương trong soi tóc, hay xuôi ngược lục bình, thì vẫn cứ lững lờ theo suốt hành trình tháng năm của họ. Nên lần nào về quê, dù gấp gáp thế nào cũng ráng ra bờ sông ngồi chút. Con sông bây giờ khác lắm so với con sông ngày xưa ở thời niên thiếu của mình, nhưng vẫn cứ là một hoài niệm bất tử. Mà ngộ, mỗi lúc được im lặng ngồi nhìn giòng sông quê lững lờ, mình cứ nghĩ lung tung về câu chuyện Siddhartha (Tất Đạt) gặp người lái đò Vasudeva (Vệ Sử) trong "Câu chuyện giòng sông" của Hermann Hesse. Một trong những câu chuyện sâu sắc nhất mà mình được đọc ngày xưa. Họ gặp nhau, rồi cả hai cùng làm việc của những người đưa đò và sống trong bình yên và an phận. Họ cùng lắng nghe rất nhiều âm thanh của giòng sông mà ngộ ra nhiều thứ cần thiết trong cuộc sống. Còn mình thì quả nhiên là phàm phu tục tử, ngồi đó hoài chẳng ngộ ra điều gì hay ho. Uống vài ly rượu, vài chai bia, tào lao thiên địa với mấy ông bạn già, rồi lại bỏ đi, hẹn lần sau .....:-) .



Thursday, March 22, 2018

Re-post: Tản mạn cuối năm (1)

Người VN mình bao đời nay vốn quen thuộc với cuộc sống lưu lạc. Chiến tranh, lưu đày, di trú, sinh nhai ... làm cho họ hội nhập & quen dần với những vùng đất mới, kể cả món ăn, ngữ điệu, và phong tục văn hoá địa phương. Đến ngày nay văn hoá ẩm thực phong phú đa dạng, ba ngày tết, kẻ nấu người ăn, món ngon vật lạ, đôi khi chẳng biết xuất xứ tận phương nào. Mà thật ra cũng chẳng cần phải biết !

Nhà mình ở tận vùng cao nguyên nghèo, hẻo lánh. Ở đó người Kinh, người dân tộc, người gốc bắc, trung, nam, đều có đủ. Quanh năm lam lũ, dành dụm cho mấy ngày xuân. Tết về, la cà từ nhà này sang nhà nọ, bạn bè rủ nhau nhậu nhẹt, có gì đãi nấy, cứ thế mà mần. Có khi về đến nhà lại quên mất đã ăn qua món gì. Từ gỏi tré, thịt đông giò thủ, giò bò chả lụa, dưa món củ kiệu, thịt kho hột vịt, giò nấu măng, ba rọi thả mắm ... cho đến khô cá dứa, cá trám kho riềng, cá kèo khô nướng ... đủ món vùng miền, cholesterol các loại. Rượu thì cũng thế, từ vang Đà lạt cho đến rượu dâu tằm, từ bia nội đến bia ngoại, từ rượu đế đến rượu tây, không uống không được. Miền núi vào tiết xuân, trời se lạnh, mưa phùn, sương mù giăng rắc. Chậu mai, cành đào, lan rừng, lan đất, hoa huệ, hoa hồng, thược dược, lay ơn, cúc vàng, cúc tím ... sắc màu rực rỡ. Những phiên chợ cuối năm ở nơi đây luôn làm rạo rực lòng người, ngay cả những thời kỳ đất nước nghèo đói nhất.

Mình lúc nào về nhà, qua đèo Chuối đến đèo BL, cũng ngừng lại la cà hàng giờ, uống cafe ngắm rừng ngắm suối, ăn trái cây. Tuỳ mùa, có khi măng cụt, có khi sầu riêng, có khi chôm chôm, có khi mít tố nữ ... Dân vườn không biết cách chưng bày, nhìn không được đẹp mắt như Bến Thành, Hàm Nghi, nhưng toàn là cây nhà lá vườn, mới hái. Có một món mình thường mua đem về là măng rừng lồ ồ, đặc sản núi rừng. Lúc trước người dân tộc còn gùi ra bán, giờ cũng thưa dần, chỉ còn lại nhiều là măng mạnh tông. Măng khô ở đây cũng rất ngon, mua về hầm giò ăn tết. Bây giờ trên đèo còn có cả nhà hàng cơm lam rau rừng, nhưng cái hương rừng thực sự thì đã bay xa ...

Mấy năm gần đây, đường sá được sửa lại khang trang hơn, đường về nhà tưởng chừng như ngắn lại. Cuối năm lên đèo, cũng ngừng lại như mọi lần. Nhưng những thứ quen thuộc ngày xưa cũng bắt đầu xách gói ra đi. Người du lịch qua lại mua bán ngày càng nhiều, và cái chân thực hồn nhiên của người nhà vườn, của người dân tộc, cũng dần dần thay đổi. Thưa dần những nhánh mai rừng, những giò phong lan bụi bặm, những túi mật ong còn nguyên xác nhộng... Nhưng chuyện đổi thay âu cũng lẽ thường tình !
Tết năm nào về đây cũng thấy lòng mình lãng đãng, thích đi lang lang & nhớ mơ hồ về những điều đã cũ, đã xa. Mới hiểu cụ Vũ đình Liên... hồn ở đâu bây giờ ? Qua Đại Lào nhìn về Phương Bối Am, không biết "Sơn Núi" có còn ở đó ? Nhớ những đam mê một thời "Nẻo về của Ý", "Đường xưa mây trắng"... giờ cũng phai dần theo năm tháng. Nhớ Đại Bình, nhớ giòng Đạ Bin cần mẫn chảy qua núi Spung. Nhớ Dambri có còn những chiếc cầu vồng mịt mờ bụi nước ? Nhớ tiếng chuông Bát Nhã văng vẳng trên đồi mà thưở nào đã hàng giờ ngồi mơ mộng "Hồn bướm mơ tiên " ? Quanh bờ hồ, Viseri và màu sơn mới, những quán cafe sập sình mới mọc. Ngang qua trường Nông lâm súc B'lao, bất chợt đâu đó những khóm hoa vàng, giấy đỏ, giấy trắng, bỗng nghĩ về Trịnh Công Sơn với cao nguyên bụi đỏ sương mù ....

Mà suy cho cùng, về quê ăn tết, cùng chỉ là như vậy. Gặp gỡ bè bạn gia đình, ăn lại món xưa, đi lại chốn cũ, mơ màng chuyện đã qua... rồi lại đi. Cho dù to lớn đến đâu khi về với gia đình cha mẹ, rồi cũng thấy mình non nớt, nhỏ bé như hôm nào. Vẫn ước mơ những điều đơn giản, và vẫn thèm từng món của Mẹ, Ngoại, nấu ngày xưa !


Wednesday, March 21, 2018

Chuyện đời thường ...


(Hình của hai mẹ con Jane & Jenny được anh T chụp hôm cuối tuần rồi, tháng 3/2018)

Năm đó, mình ở Tân Bình, có lẽ cách đây đã hơn mười năm. Có người cho con chó Chiwawa rất đẹp. Đem về, con mình mừng lắm, ngày nào đi học về cũng nựng nịu suốt, đặt tên Jane. Con chó khôn lạ lùng. Mình trước đó cũng từng nuôi qua chiwawa, nhưng chưa gặp con nào khôn như vậy, dù còn bé tí xíu.
Khi nhận Jane về, nghe người cho nói rằng Jane đã qua một đợt chích ngừa ban đầu, nên mình cũng chưa cần đem lại bác sĩ thú y ngay, mà đợi cô nàng lớn lên chút nữa. Mấy tuần sau, bỗng nhiên Jane ngã bịnh nặng, sốt, không ăn uống. Mình vội chở Jane đi bác sĩ bằng xe máy. Đặt trong chiếc giỏ để phía dưới chân xe tay ga, chạy gấp đến phòng mạch BS. Không hiểu lý do gì, mình đang lái xe, thì cô nàng dọt ra ngoài giỏ . Đầu của Jane (lúc đó khoảng 2-3 tháng tuổi) đập mạnh xuống lòng đường, may là những chiếc xe sau né được. Nó nằm ngay đơ, thoi thóp. Mình vội gởi xe lại, đón taxi, ôm nó vào lòng, đem qua nhà ông anh (anh T), nhờ gọi BS thú y đến coi gấp. Anh T nuôi nhiều chó, nên có ông BS thú y ruột, giỏi, thường xuyên chăm sóc, gọi đến ngay.
Ông BS đến khám Jane rất cẩn thận, rồi nói cho mình và anh T, nên tiêm muỗi thuốc cho Jane đi nhẹ nhàng, vì sẽ không thể nào cứu nỗi chú cún đáng thương này. Lúc đó nghe thấy rất đau lòng. Vừa cảm giác bất lực, vừa cảm giác tội lỗi, vì đã không bảo vệ được một sinh mạng nhỏ bé. Vợ chồng anh T thì nói thôi "còn nước còn tát", không chích thuốc, cứ để anh chị nuôi cho đến ngày Jane mất.
Muôn vàn khó khăn để nuôi một cô chó con bị chấn thương sọ não, không mở miệng, không nhai ăn được, lại bị dịch bịnh nặng nề. Cứ vài giờ, phải bơm thức ăn dinh dưỡng và nước vào miệng. Ban ngày đã khó, ban đêm lại càng khó hơn. Hàng đêm vợ chồng anh T thay phiên nhau thức dậy chăm sóc, nửa đêm vài lần, 2-3 giờ sáng. Dạo đó anh chị T có đứa con dâu đang sinh nở. Hôm nào con dâu của anh chị T cũng dành chút sữa Mẹ cho Jane để có thêm dinh dưỡng. Và cứ thế, thức đêm thức hôm, chăm sóc từng ly từng tí như thế mỗi ngày, sữa thuốc đủ loại. Như một phép nhiệm màu, vài tháng sau, Jane khỏi bệnh, cứng cáp, và đứng lên đi lại được. Tuy nhiên, di chứng của chấn thương sọ não, vẫn không chữa được. Jane đi đứng không bình thường, chốc lát lại quay vòng vòng, đập đầu xuống đất. Anh T nhờ người thiết kế cái loa cổ đeo vào, để chống va đập sọ đầu, và tiếp tục chăm sóc tiếp.
Rồi thời gian qua đi, công việc bận rộn, thỉnh thoảng mình ghé thăm anh chị T, thấy Jane vẫn sống, vẫn khoẻ mạnh, vẫn bị động kinh thường xuyên. Thấy thương nhưng cũng chẳng biết làm sao hơn. Cảm ơn anh chị T đã dày công chăm sóc Jane. Ông BS thú y thì cứ vẫn không tin điều đó là sự thật.
Một hôm anh T. gọi báo tin cho mình là Jane vừa hạ sinh được một cô con gái, anh đặt tên Jenny. Mình vô cùng ngạc nhiên, chở thằng con, chạy qua coi ngay. Cô bé con lông màu nâu, đẹp giống Mẹ như đúc. Mình cứ nghĩ như là một thứ nhiệm màu, nhưng lại lo lắng cho vấn đề khả năng làm mẹ của Jane, nuôi nấng và bảo vệ được cho con. Ai dè, chính Jane, một con chó tật nguyền, được sống sót, bị động kinh liên tục, lại là người Mẹ nuôi con giỏi nhất. Nó bảo vệ con rất tốt, và chăm sóc Jenny còn tốt hơn bao nhiêu con chó bình thường khác. Hai mẹ con quấn qúit bên nhau mà sống, vui vẻ mà tồn tại, mà trưởng thành mỗi ngày. Mỗi lúc nhìn thấy hai mẹ con bên nhau, một hình ảnh rất dễ thương và vô cùng cảm động !

Hết thời gian làm việc tại VN, mình về lại Mỹ. Lâu lâu về VN, ghé thăm anh chị T, vẫn thấy mẹ con Jane và Jenny mạnh khoẻ, chạy nhảy vui đùa. Đã mười năm qua đi, cả hai mẹ con đều già đi, nhưng vẫn thương yêu, gắn bó nhau mà sống như xưa.

Gần đây anh chị T dọn về một ngôi nhà, đầy hoa và yên tĩnh. Phía trước là một giòng sông, chung quanh nhà và lối đi nhiều loại hoa, đủ màu đủ sắc, chim chóc hót líu lo cả ngày. Anh T. vẫn làm công việc cho chim ăn mỗi ngày, và dọn dẹp rác trên sông, làm sạch môi trường, làm sạch đường đi. Hàng ngày, ngàn ngàn con chim trời kéo về đó ăn uống rồi bay đi, líu lo ca hát. Mỗi tháng anh phải mua cả mấy tạ lúa cho chim ăn. Lo lắng chim bay đụng cửa kiếng chết, mua giấy màu về, nghiên cứu tỉ mỉ dán ..... Mẹ con Jane & Jenny cũng được đưa về đó, rộng rãi thoáng mát hơn. Vẫn mạnh khoẻ, và thương yêu nhau như ngày nào.

Đôi lúc mình vẫn thường nghĩ về cái nhân đức của con người đời thường. Sẽ không thể nào dựa vào cái nhìn bên ngoài, hoặc những lời nói ngọt ngào bóng bẩy, những cái "tâm, tầm" luôn đưọc kể lể, mà khẳng định được điều gì. Ví dụ như nhìn cái ngoại hình dữ dằn của anh T, đâu có ai thấy được một trái tim nhân hậu núp đằng sau ấy. Nhưng cuộc sống này vốn là thế, không có ai hoàn hảo cả, có người làm tốt chuyện này, nhưng chưa làm tốt chuyện khác. Quý nhau là ở cái tâm hồn của họ. Nên lâu lâu nhìn thấy mấy ông quan chức, trọc phú, mệnh phụ .... phóng sinh cầu phước, trồng cây, làm thiện, chụp hình đưa tin, mình cũng hy vọng một ngày nào đó họ làm thiện với cái tâm thực sự của mình, có lẽ cuộc sống được an vui tự tại hơn.

Mình cũng có bạn bè và quen biết nhiều người thành công trong cuộc sống (đa phần là về mặt vật chất), nhưng một số ít lại thích hơn thua nhau. Vô tình hay cố ý, họ so đo quá nhiều trong cuộc sống, ít chịu hy sinh cho người khác, huống hồ là cho những con vật, cỏ cây vô thức. Mình thực sự không biết sự so đo, hơn thua đấy, có đem lại hạnh phúc gì cho họ không ? Nhưng mình vẫn luôn nghĩ rằng hạnh phúc là những gì mình đang làm chứ không phải là cái đích để đến. Mỗi ngày thấy nhẹ nhàng hơn, tha thứ hơn, ít câu nệ hơn, làm nhiều việc có ý nghĩa hơn, thì đã là hạnh phúc rồi. Trong Đạo cũng có nói khi giúp đỡ người khác hay làm việc tốt, thực ra là đang giúp đỡ chính mình, nên cũng chẳng cần ai đáp trả. Có lẽ đó mới là cái gốc của sự an lạc vậy !