Saturday, February 17, 2018

Tưởng niệm 17/2

Tưởng niệm những quân dân Việt Nam đã hy sinh vì cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Cọng ngày 17/2/1979.





Gửi em ở cuối sông Hồng
(Dương Soái)

Anh ở Lào Cai
Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt
Tháng Hai, mùa này con nước
Lắng phù sa in bóng đôi bờ

Biết em năm ngóng, tháng chờ
Cứ chiều chiều ra sông gánh nước
Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt
Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong

Đài báo gió mùa, em thương ở đầu sông
Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét
Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết
Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng hàng không?

Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng...
Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy
Em ra sông chắc em sẽ thấy
Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông.

Nhưng thơ ngây đâu còn ở chúng mình
Khi Tổ quốc trao anh lên tuyến đầu chặn giặc
Khi biên cương trong anh đã trở thành máu thịt
Đạn lên nòng anh giữ trọn nguồn sông

Nỗi nhớ cho em chưa viết được đôi dòng
Đạn quân thù bỗng cuồng điên vào thị xã
Xe tăng thù nghiến mặt sông êm ả
Nhịp cầu thù chặt đứt chờ mong

Bão lửa này mang sức mạnh hờn căm
Phá cầu thù, xé vụn xe tăng giặc
Giữa dòng sông nghìn xác thù ngã gục
Máu giặc loang ố cả một vùng

Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng
Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ
Là niềm thương anh gửi về em đó
Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh.

Lào Cai, 1979



Sunday, February 11, 2018

Lời tạ lỗi trước hoàng hôn !




Thần khẩu hại xác phàm ? Hay vẫn chưa là lời cuối cùng ?....

Một trong những câu chuyện dài 50 năm chưa dứt. Và những hơn thua được mất bên cạnh hàng ngàn đồng bào vô tội đã ngã xuống, bao mái ấm gia đình tang tóc chia ly  !!!






CUỐI NĂM NHÌN NHỮNG CHUYẾN XE QUA


Friday, February 09, 2018

Bằng cấp giả được, nhưng tư duy thì không !



Lâu nay cứ vài ba tuần, là những câu chuyện bằng cấp, học hàm học vị, lại trở lại. Những câu chuyện bi hài, chua chát, đôi lúc ấu trĩ, nhưng lại cứ tồn tại như một vở kịch xã hội lập đi lập lại, nhàm chán. Nào là bằng cấp giả, bằng "thiệt" kiến thức "giả", nhiều TS nhất, lạm phát TS GS nhất, học hàm tự phong tự xướng, mua bằng bán chức... Rồi nào là TS nói ngọng, TS đề xuất chữ viết thời thượng, TS phát biểu như mẫu giáo, TS truy vấn động cơ thiện nguyện, TS cuội học trên rừng mà tốt nghiệp dưới biển ..vv. Thượng vàng hạ cám, nghe hoài phát chán, nhạt phèo !

Thú thiệt là mình cũng may mắn được đi làm ở một số nước, nhưng chưa bao giờ gặp cái văn hoá bằng cấp kiểu như vậy. Mê mẩn và đắm chuộng bằng cấp danh vị một cách thái quá. Đi nhậu, đi chùa, đi ăn giỗ, ăn tiệc, đi làm, đi uống cafe ... thậm chí đi karaoke, bia ôm, cũng xưng tụng TS GS. Ngành nghề gì, lãnh vực gì, cũng tung hô TS GS một cách vô tội vạ. Gặp ông thầy chùa ngoài bắc cũng xoè cái cạc GS TS, đại biểu lung tung gì đó. Gặp ông coi bói tử vi, phong thủy, cũng có cái cạc TS cầm tay ... thì huống chi là mấy ông có chức quyền. Cũng chính vì sự cuồng tín vào những giá trị ảo của bằng cấp, vào các quyền lợi có được từ các quan niệm lệch lạc & các quy định bất hợp lý về học hàm học vị, mà nhiều người đã đua nhau tậu cho bằng được cái bằng TS GS. Rộ lên như một phong trào, bằng mọi hình thức, từ mua bán cho đến giả mạo, từ trường ảo cho đến trường ma, từ trường nội cho đến trường ngoại, từ đề tài cuội cho đến đề tài hài, bất chấp chất lượng học thuật và các hệ lụy nguy hiểm khác. Người ta vẫn thường nói "Nhiệt tình cọng với ngu dốt là phá hoại". Mình thì nghĩ quyền lực cọng với kém hiểu biết lại càng nguy hiểm hơn. Nhưng bên cạnh đó, cũng phải thành thật kính trọng những người vừa phải miệt mài công sức để đạt được những học hàm học vị thực sự, vừa phải kiên nhẫn tồn tại trong một môi trường vàng thau lẫn lộn như thế .

Ngồi nhìn lại lịch sử đất nước VN, có phải người Việt thực sự trọng bằng cấp thế không ? Có lẽ vậy. Một đất nước nông nghiệp thuần tuý, hệ thống phong kiến vua chúa, chức quyền chủ yếu dựa vào học vị học hàm. Ngày xưa nếu không phải là con ông cháu cha, thì chỉ có một con đường là phải học giỏi đỗ đạt cao, mới hòng thoát được gánh nặng giai cấp .Có thể đó là ảnh hưởng đầu tiên, cọng với tư tưởng so đo hơn thua xóm làng giòng tộc địa phương, càng làm cho giá trị bằng cấp thưc sự quan trọng. Nhưng rồi cũng có câu "Nhất sĩ nhì nông. Hết gạo chạy rông. Nhất nông nhì sĩ ". Nghĩa là cũng có những nhà Nho nghèo, thanh khiết, thuần tuý đem cái sở học của mình phục vụ thiên hạ mà không màn danh lợi. Những nhà Nho ngày xưa, học sách thánh hiền, đạo lý lễ nghĩa, nên tự trọng cao cả. Nhưng cũng nặng về định kiến bảo thủ, lại mang nặng hình thức "kẻ sĩ", nên chuyện nghèo túng cũng không khó hiểu lắm. Tuy nhiên ngày xưa, dù nghèo nhưng có học, cũng được người ta kính trọng .

Đến thời cận đại trước 1975, học vị và bằng cấp cũng còn được xã hội tôn trọng một cách đúng mức. Thầy cô giáo tuy không giàu có, nhưng cũng đủ sống thoải mái. Một ông giáo sư trung học cũng tiền bạc rủng rỉnh. Ông nào lỡ đi lính mà có tú tài cũng ngon hơn ông thành chung hay ri me. Nghèo mà học giỏi cũng còn có cửa đi lên. Ông nào học Phú Thọ ra cũng có cửa làm trưởng ty. Học Quốc gia Hành chánh ra cũng có cửa làm quận phó, tỉnh phó ... Còn giỏi nữa mà ra TS Quốc Gia thì còn ngon lành nữa. Mình có anh bạn vong niên, TSQG, một trong những rường cột sáng lập viên của ĐH HH dưới miền Tây ngày xưa (cùng với ông LPS). Lâu lâu gặp lại, ngồi nghe ảnh kể chuyện đi học ngày xưa, thấy mà ham, uống hoài hổng say :-) .

Nhưng sau 1975 thì khác, khác nhiều, nên nhiều khi mình thắc mắc về giá trị thật sự của việc chuộng học hàm học vị ngày nay. Thời bao cấp, cả nước nghèo đói. Bằng cấp, học vị, thời đó chả là cái đinh gì. Giáo chức dứt cháo ! Tiến sĩ giáo sư thì ngày lo hai bữa khỏi độn là giỏi rồi. Ông thầy dạy môn Toán Cao cấp của mình, TS NS, rất nổi tiếng về cac công trình nghiên cứu, dạy xong về bán chợ trời với vợ kiếm sống !
Nhớ có ông bạn cũ ngày xưa cũng thuộc dân học hành đàng hoàng, sau 75 nghèo đói tận cùng. Năm đó đứa con gái đến tuổi gả chồng, đẹp, nhiều anh theo đuổi. Anh không chịu gả con cho một anh nhà giáo, mà gả cho anh tài xế. Ngày con có chồng xong, rủ mình ra quán, nốc rượu đế mà khóc. Ngồi ngoài Thanh Đa với anh cả đêm hôm đó, nghẹn ngào. Nỗi lòng của người cha và những đánh đổi oan nghiệt của thời đại. Dạo đó, đọc "Đứng trước biển" của NMT, mình cũng nhủ thầm thời này học bác sĩ, kỹ sư, làm đếch gì, cứ đi viễn dương là có tất cả !

Vậy thì cho đến khi nào VN mới bắt đầu trọng bằng cấp, học vị ? Có thực sự là trọng giá trị tri thức của bằng cấp học vị không? Những người học giỏi, bằng cấp thực sự, có được xử dụng thoả đáng không ? Trọng kiến thức tư duy của người có học, hay là trọng cái quyền lợi kéo theo mà những học hàm học vị đó mang lại ? Cái này thì tuỳ người hiểu và tự có câu trả lời cho chính mình.

Ở nhiều nước văn minh trên thế giới, người ta tôn trọng kiến thức và tư duy thực sự của mỗi con người. Bằng cấp học vị chỉ là những chuẩn mực, thước đo, ở phương diện "academic". Còn kiến thức thì cũng có nhiều loại academic knowledge, practical knowledge, theoretical knowledge. Dĩ nhiên có học vị cao là thành tựu đáng quý, mhưng đó không phải là tất cả. Người ta không đề cao cái hình thức, cái phần "xác" của bằng cấp nặng nề như VN. Nếu có, chỉ là giai đoạn ban đầu xin việc hay khởi nghiệp. Ngược lại, họ luôn coi trọng cái "nội dụng", cái thành tựu mà những tấm bằng đó mang lại cho công ty, cho con người, và cho xã hội. Ở nhiều nơi trên thế giới, bằng TS không có nghĩa là giỏi hơn người khác, chỉ đơn giản là đủ tư cách để bắt đầu nghiên cứu độc lập và đóng góp cho xã hội ở một lãnh vực chuyên môn nào đó. Còn bên VN, một số người quan niệm tới đó là "hết chữ" rồi. Dùng học hàm học vị để xin việc, để lên chức, để in card visit, để thăng tiến, để tại chức lâu hơn, để cạnh tranh với các đối thủ khác là đạt yêu cầu rồi. Nên nhiều ông TS không bao giờ có nghiên cứu hay bài viết tham luận đóng góp gì cho xã hội. Cũng gặp nhiều ông TS có bằng bên Mỹ, nhưng không rành tiếng Anh. Có bằng bên Tây lại không rành tiếng Pháp, nên lên báo tiếng Việt cho dễ. Có lẽ vậy nên cộng đồng quốc tế ít khi thấy công trình nghiên cứu của TS GS bên ta mà thôi !
Thực ra, một ý nghĩa thành tựu rất quan trọng trong việc học hành đào tạo là tư duy và tính cách. Những người có bằng cấp học vị thưc sự luôn có ý thức tự trọng và trách nhiệm phụng sự xã hội dựa vào chính khả năng & kiến thức của mình. Một nền giáo dục làm được điều đó mới là nền giáo dục lành mạnh, đáng được tôn vinh.

Thiết nghĩ một một ông thợ rèn dở sẽ không làm nỗi con dao hay. Nếu dùng một ông TS "giả" để đào tạo hoặc thẩm định một ông TS khác, thì khó mà tìm ra được ông TS "thực". Nếu một cơ quan, trường học, hoặc công ty, chỉ đơn giản xử dụng những tấm bằng xum xê theo chỉ tiêu, mà không đo lường được cái tư duy và kiến thức thực sự của người sở hữu tấm bằng đó, thì coi như góp phần làm lũng đoạn nền giáo dục và phỉ báng giá trị thực sự của trí thức nước nhà. Như thế thì dẫu là số lượng TS GS bao nhiêu đi nữa, cũng không làm thay đổi số phận của đất nước. Có khi còn đục nước béo cò. Muốn thay đổi phải bắt đầu thay đổi từ những quan niệm trọng thị cơ bản nhất. Chấm dứt cách chọn người bằng những chỉ tiêu vô nghĩa, hữu danh vô thực. Thay vào đó chọn người có kiến thức thực sự, phù hợp với công việc. Phải thay đổi quan niệm "hồng hơn chuyên", thân thế lý lịch ... thì mới sử dụng được những tấm bằng có kiến thức thực sự.

Chắc hẳn lâu nay những nhà khoa học, TS, GS, trí thức VN chân chính cũng rất đau lòng về vấn nạn này. Mình tôn trọng và cảm thông với những trăn trở dằn vặt đó. Suy cho cùng thì bằng cấp, học hàm học vị, có thể lạm phát, có thể mua bán, nhưng tư duy của con người thì không thể giả mạo được !

Học hàm tăng đột biến và trường đại học bị loại khỏi Top 350

Let everyone shine !

Thế vận hội Mùa Đông 2018 bắt đầu .....





Tuesday, February 06, 2018

Phôi pha ....

Một trong những động lực lớn nhất thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng của các nước đang phát triển là FDI.  Những nước thành công được, là do tạo được một sân chơi hiệu quả cho các nhà sản xuất & doanh nghiệp từ nước ngoài vào đầu tư. Để đầu tư công nghệ được lâu dài, và sản xuất được hiệu quả cao, cần nhiều yếu tố. Trong đó yếu tố con người, lao động tay nghề cao là quan trọng nhất. Những đất nước từng nghèo đói vài thập niên trước đây như Trung quốc, Ấn độ ... nay trở nên vốn liếng hùng hậu là nhờ vào thị trường gia công và lao động giá rẻ cho các nước tư bản.

Những năm gần đây, các nước vùng Đông Nam Á chạy đua nhau tạo dựng những sân chơi mới hấp dẫn, để kêu gọi các nhà doanh nghiệp & sản xuất nước ngoài. Với mong mỏi sẽ san sẻ được thị phần FDI từ các nước như TQ, Ấn độ ... và tạo dựng được nét riêng của nghành công nghệ sản xuất ở đất nước họ. Trong đó có cả Campuchia, Lào, Thái Lan, Indo, Mã Lai, Phi luật tân, Miến điện .... Họ thi đua nhau đẩy mạnh phát triển nguồn lao động tay nghề cao, chất lượng & ổn định, để tạo niềm tin cho các nhà sản xuất, gây điểm nhấn về nguồn nhân sự & công nghệ sản xuất. Trong khi đó, VN lại đi xuất cảng lao động tay nghề cao !

Lao động VN hôm nay phải xuất ngoại tìm việc làm, có mặt nhiều nơi trên thế giới từ châu Phi, Trung đông, cho đến Nhật, Hàn, Đài Loan, Singapore, Mã Lai ... thậm chí cả Lào, Campuchia.

Ngoài việc đi xuất khẩu lao động chính thức qua các kênh hợp pháp, người VN còn phải đi kiếm công ăn chuyện làm bằng nhiều ngõ ngách bất hợp pháp khác. Thỉnh thoảng cứ đọc tin người mình bị bắt vì lao động trái phép ở nhiều nơi nhiều nước trên thế giới. Bên Pháp, bên Anh còn lập cả ngôi làng "Vietnam City", để chứa chấp lao động lậu từ VN sang, kể cả con nít.

Quê mình cũng vậy, giờ lao động trẻ khoẻ đi vô TP lớn làm công, làm mướn hết. Bọn trẻ đi học Đại học xong, cũng không về. Mỗi lần về quê nhìn cánh đồng xưa và những lao động già yếu còn lại anh dũng bám trụ ruộng vườn cha ông, bên cạnh những khẩu hiệu biểu ngữ giăng đầy ... Tự nhiên thấy có điều gì chua xót và xa xăm quá !


"Malaysia xem xét mở rộng tiếp nhận lao động tay nghề cao của Việt Nam"

"Ngôi làng Việt nam ở Pháp"




Monday, February 05, 2018

BÌNH MINH ĐÃ RẠNG - Nguyễn Tường Bách



“Morning has broken, like the first morning, Blackbird has spoken, like the first bird”.

Khoảng giữa những năm 70 của thế kỷ trước, lời ca trên được truyền đi trong tiếng hát của một chàng trai 25 tuổi, Cat Stevens.

“Bình minh vừa rạng, như buổi sáng ban đầu, Chim sáo đã lên tiếng, như con chim ban đầu”.

“Buổi sáng ban đầu” là ngày khởi đầu, ngày nguyên đán của vũ trụ, khi người nghe hiểu hết bài ca. Ánh dương vừa rạng, chim vừa cất tiếng, nhưng tâm người lại cảm nhận như buổi sáng tinh khôi của trời đất, như tiếng chim nguyên thủy của thiên nhiên. Kỳ lạ thay!

Tác giả ca từ là Eleanor Farjeon, một văn sĩ người Anh. Bà sinh năm 1881, vốn là một đứa trẻ ốm yếu, mắt kém. Vì sức khỏe quá kém, cha mẹ bà không cho đến trường, dạy bà học ở nhà. Lúc bà lên khoảng năm tuổi, người cha dạy viết văn và làm thơ.

“Praise for the singing, praise for the morning, Praise for them springing fresh from the Word”.

“Tán thán tiếng hót, tán thán buổi bình minh,Tán thán tất cả những gì vừa mới phát sinh từ Ngôi Lời”.

Eleanor Farjeon là người có tâm hồn tôn giáo sâu sắc, bà viết bài này trong độ tuổi già giặn khi đã quá 50. Bà viết vì lòng ngưỡng mộ nơi một nhất thể mà truyền thống của bà gọi là “Ngôi Lời”. Mọi hiện tượng trong thiên nhiên mà phương Đông gọi là “sắc”, thì trong bài ca của bà đều xuất phát từ một tự tính mà tôn giáo của bà gọi là “Thượng đế”.

“Sweet the rain’s new fall, sunlit from heaven, Like the first dewfall, on the first grass,

Praise for the sweetness of the wet garden, Sprung in completeness where His feet pass”.

“Ngọt ngào thay những giọt mưa vừa rơi, được ánh sáng chiếu từ trời cao,

Như giọt sương ban đầu trên ngọn cỏ ban đầu, Tán thán vị ngọt của khu vườn ướt sũng, Trở thành viên mãn khi chân Ngài bước qua”.

Mọi sắc thể trong trời đất không những xuất phát từ một tự tính duy nhất mà chúng vốn là “viên mãn”, trọn vẹn, sáng rỡ. Chúng mang trọn vẹn tính chất sáng đẹp của nguồn gốc vì mọi hiện tượng đều là “Thân” của Thượng đế cả.

Eleanor Farjeon còn tự thấy mình là một phần của Thượng đế, chính mình là một tiêu điểm, nơi mọi sắc thể hội tụ. Bà kết thúc bài thơ bằng:

“Mine is the sunlight, mine is the morning, Born of the one light, Eden saw play,

Praise with elation, praise every morning, God’s recreation of the new day”.

“Ánh sáng mặt trời là của con, Buổi bình minh là của con,

Sinh ra từ một thứ ánh sáng, thứ ánh sáng đã chiếu Vườn địa đàng,

Tán thán với lòng hân hoan, tán thán mỗi khi trời rạng, Mỗi ngày mới là mỗi lần Thượng đế lại sáng tạo”.

Câu thơ cuối là một chứng nghiệm hiếm có. “Thượng đế” của Eleanor Farjeon không phải sáng tạo một lần rồi thôi, bỏ mặc tất cả tự đấu tranh vật lộn với nhau trong một khung cảnh mà ta gọi là “trần gian” như nhiều người nghĩ. Ngược lại, mỗi ngày đều tinh khôi mới mẻ, dường mọi sự đều mới sinh ra lần đầu, như “buổi sáng ban đầu”, “con chim ban đầu”. Câu thơ cuối của bà chính là ý tưởng nhất quán của toàn thể ca từ.

Đọc Eleanor Farjeon ta không thể không liên tưởng đến nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagore. Trong tập thơ Gitanjali (Bài ca dâng hiến), ông cũng tán thán Thượng đế như cách của Eleanor Farjeon, tức là xem Ngài như một thể tính có nhân trạng. Tagore cũng nói về một thứ ánh sáng:

“Light, my light, the world-filling light, the eye- kissing light, heart-sweetening light!”

“Ánh sáng, ánh sáng của con, ánh sáng tràn đầy trong thế gian, ánh sáng hôn lên đôi mắt, ánh sáng ngọt ngào trong tim”.

Những vần thơ tha thiết của Tagore đã mang lại cho ông giải Nobel văn chương năm 1913.

Tương tự như trong các tác phẩm của Tagore, cảm khái chính của Eleanor Farjeon trong bài thơ Morning has broken là một thứ “ánh sáng” sống động, tinh khôi, soi chiếu từ tầng trời cao nhất đến từng giọt sương ngọn cỏ. Những ai có tu tập Thiền định đều biết rằng, trong một trạng thái nhất định của tâm, sẽ chỉ có một cái “Biết” đang nhận thức. Cái Biết đó làm cho mắt thấy được, tai nghe được, tâm cảm được. Mọi dạng sắc thể hiện lên trong cái Biết đó như ánh sáng soi chiếu mọi vật và tự soi chiếu chính mình. Thế gian mà ta tưởng là có người có ta chỉ là cái Thấy đang thấy, cái Nghe đang nghe chứ không có ai cả. “Ánh sáng” của cái Biết trong Thiền chính là “ánh sáng” của Eleanor Farjeon, của Rabindranath Tagore. Còn cái thể tính mà Farjeon hay Tagore gọi một cách truyền thống là “Thượng đế” thì Thiền gọi là “Không”.

Thế nên nếu Farjeon nói “Mỗi ngày mới là mỗi lần Thượng đế sáng tạo” thì Thiền giả nói Không tạo nên Sắc trong từng sát-na và Sắc chính là dạng xuất hiện của Không, như sóng là dạng xuất hiện của nước. Nhà văn nữ Eleanor Farjeon cũng như Rabindranath Tagore hẳn đã biết điều này, nếu không thì các bài thơ của họ đã không có một sức lôi cuốn như thế.

Bài thơ Morning has broken trở thành một bài thánh ca trong khoảng năm 1931. Bài ca được hát lên trong những dịp lễ tôn giáo hay sinh nhật trong các xứ đạo tại Anh. Thế nhưng bài ca này trở nên nổi tiếng thế giới từ khoảng 1973, khi Cat Stevens, sinh năm 1948, một giọng ca bất hủ người Anh trình bày rộng rãi trong công chúng. Như một duyên nghiệp định sẵn, Cat Stevens cũng lại là một con người có tâm hồn tôn giáo sâu sắc. Anh hát bài này lúc rất trẻ, với một giọng ca trong trẻo, một khuôn mặt thánh thiện. Chỉ chừng năm năm sau ngày thành danh, Cat Stevens cải đạo theo Hồi giáo, lấy tên mới là Yusuf Islam, bỏ sự nghiệp ca sĩ, bán đàn guitarre lấy tiền đi làm từ thiện.

Cô bé Eleanor Farjeon ốm yếu nọ cuối cùng sống đến 84 tuổi. Cat Stevens xa lánh sân khấu. Mãi đến khoảng 2006 anh đã trở lại thế giới âm nhạc với bộ râu đã bạc, song giọng ca vẫn còn hay như xưa.

Trong mọi Sắc thể của Không thì âm thanh là vi diệu bậc nhất. Ca từ được âm thanh chắp cánh và chuyên chở nên những cảm khái sâu xa nhất của Đạo xưa nay chưa bao giờ vắng mặt trong âm nhạc. Với phương tiện hiện đại người nghe có thể nghe lại bài ca của Morning has broken một cách dễ dàng bằng cách gõ từ “cat stevens morning has broken” trên mạng. Trong các youtube hiện ra, người nghe nên chọn bài ca có mang tấm hình của Cat Stevens lúc thanh niên.

“Morning has broken, like the first morning, Blackbird has spoken, like the first bird”.

Tiếng ca vang lên, cái Nghe đang tự vận hành!

Nguồn: Thư viện Hoa Sen
 (TC. Văn Hóa Phật Giáo)

Saturday, February 03, 2018

Hạt bụi nào ..... hoá kiếp thân ai ?


Ông tổng thống đầu tiên lập quốc Hoa Kỳ là George Washington, khi chết được chôn cất ở góc vườn của gia đình ông tại Mt. Vernon (tiểu bang VA) cùng với bà vợ. Cháu của ông ta dựng một tấm bia đơn giản cạnh đó bằng chính đồng bạc của gia đình họ. Không tường thành, không kèn trống, không lính gác, đơn giản nằm dưới bóng cây râm mát trong vườn. Nhớ lần đầu tiên đến đó, mình thực sự ngạc nhiên và kính phục cái tư cách khiêm cung, đơn giản, mà vĩ đại đó.
Thực ra thì bao nhiêu đời tổng thống Hoa kỳ sau này cũng vậy, đại đa số được đem về quê, chôn cất trong nhà thờ, nghĩa trang công cọng, hay nghĩa trang của gia đình họ ở quê hương. Đơn giản, chẳng cần cầu kỳ, chẳng cần phô trương, nhưng cái gì còn đọng lại thì sẽ đọng lại trong lòng người dân !

Bấm vào đây để coi nơi chôn cất của các đời tổng thống Hoa Kỳ từ thời lập quốc


Friday, February 02, 2018

Chiều cuối năm, nhớ nhà !

Cuối năm gọi điện hỏi thăm bạn bè, đứa say đứa xỉn, đứa vui đứa buồn, tất niên. Chắc là gọi nữa sẽ có đứa bôn ba ăn nhậu, đứa chờ vợ sai biểu, đứa còn say ke U23, đứa đi đòi nợ, đứa lo trả nợ, đứa lo sửa nhà, đứa chùi lư hương, đứa lặt củ kiệu, đứa bứt lá mai, đứa tỉa cành lan, đứa đi tảo mộ, đứa lén thăm bồ (nhí) ..... Nói chung tháng Chạp là tháng bận rộn bôn ba nhất, mà cũng là tháng nhớ nhà, nhớ quê, nhiều nhất !

Hồi nhỏ, thích tháng chạp là vì gần đến tết, được nghỉ học, được lì xì, được đi chơi, được giày mới áo đẹp ....Lớn lên chút nữa thời sinh viên, cuối năm bận rộn hơn, bôn ba hơn, nhưng lại đợi chờ hơn. Thi cử, chuẩn bị về quê, hẹn hò trông ngóng. Thằng có chút đỉnh tiền còm chạy mua sắm chút gì đem về cho gia đình. Thằng hiếu thảo hơn nhưng không tiền, đành đợi ngày về, canh nồi bánh tét và dĩa thịt kho dùm Mẹ. Có thằng nghèo hơn, không tiền về xe, lầm lũi ở lại ký túc xá, sáng chiều ra quán uống cafe ký sổ, ngồi mà nước mắt rưng rưng. Xuân về, chủ quán rộng lượng, cho ký sổ dễ dàng hơn. Những đứa ở SG thì đỡ hơn chút, dẫu gì gần nhà, chạy đi chạy về, thịt kho dưa giá gia đình có nhau. Nhìn lại, dạo ấy có những buổi chiều cuối năm thật buồn, nhưng đó lại là những quãng ngày có nhiều ký ức đẹp đẽ nhất. Đất nước đắng cay & nỗi buồn thế hệ !
Đám bạn bè mình thời đó đủ nghề đủ nghiệp, quê quán khắp nơi. Nên có đứa về quê, đứa ở lại SG, đứa được nghĩ tết, đứa làm luôn tết. Có đứa tị nạn ở đảo, có thằng bộ đội biên giới, chỉ có tờ thư lem luốt. Đứa chết ngoài khơi, đứa chết trên rừng, không về nữa. Thằng bạn thân nhất đạp xích lô, cuối năm bôn ba vất vả, nên lúc nào mình cũng ở lại nhậu nhẹt buồn vui với hắn cho đến giờ phút cuối mới về nhà. Mà những vui buồn đó lại là vốn quý nhất của đoạn đường sau này .....

Ra nước ngoài, những năm đầu tiên, chiều tháng chạp là những chiều khó qua nhất. Một bài ca, một câu thơ, một ly rượu, một cảnh chùa, một cành đào khô trụi lác đác vài cánh hoa, một khoe mẽ kệch cỡm, một sô diễn hạng xoàng .... của ngày cuối năm, cũng đủ để làm lòng mình tê tái. Thường thì chiều tháng chạp lại rơi vào mùa đông, giá tuyết. Những khung cửa hẹp, những hàng cây khô trụi, tuyết bay lất phất, vỉa hè hiu hắt, những bóng người co ro vội vã. Một bài nhạc xưa, một câu thơ cũ, một góc phố quen quen, một bóng hình ngờ ngợ .... thì rượu tuổi nào mới say ? (Thời đó chưa cho gọi đt về VN. Mà có cho chăng nữa, thì cũng chẳng mấy người có đt ).

Mờ mờ một dãi sương sa lối
Man man một dạ cố hương sầu
Rưng rức chiều nay nhà ai mới
Lặng lẽ bên thềm môi tím thâm
(PN - 1986)

Rồi những năm sau đó, đi đi lại lại được rồi, tò tí te được rồi, thì lại có những niềm vui và nỗi buồn khác. Nhưng tháng Chạp vẫn là tháng lo toan, tháng đợi chờ, tháng của ký ức, tháng vui buồn lẫn lộn. Và chiều cuối năm vẫn mãi mãi là buổi chiều đáng quý của những nỗi lòng trắc ẩn đời thường, những đứa con đau đáu hướng về quê nhà, những tâm hồn chai sạm đã không còn dễ vui buồn bởi đèn hoa & xưng tụng của những đêm dạ tiệc ...

Người mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khóe môi cười, nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bất tận
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao.
(Thầy TS)

Viết tới đây mới nhớ đến đứa em của thằng bạn cũ ngoài quê, NQT. Chiều cuối năm nào về quê thắp nhang cho ông bà, cũng bắt nó hát bài "Sông Lô chiều cuối năm", mà cứ ngỡ giòng sông quê mình. Nó hát hay hơn thằng anh nó nhiều. Năm nay không về được, lại nhớ !





Tuesday, January 30, 2018

Kỳ thị cá nhân !

Một anh chàng người Việt gốc Hoa đến Mỹ hơn 20 năm về trước, đi làm đủ công việc từ nhà hàng, lái xe tải ... để mưu sinh và lo cho gia đình con cái, không có thời gian để học hỏi tiếng Anh. Nay đi xin việc bị một anh chàng Mỹ khác làm ở phòng nhân sự công ty trả lời một cách khinh rẻ về khả năng tiếng Anh của anh ta. Thế là đứa con gái lên tiếng bảo vệ cha, lên án sự đối xử khiếm nhã và phận biệt của anh chàng Mỹ làm ở bộ phận nhân sự công ty (HR) kia. Cô gái nhận được nhiều sự ủng hộ đồng tình của người dân Mỹ. Người cha cũng được công ty kia xin lỗi, và nhiều công ty khác "offer" công việc. Dĩ nhiên anh chàng Mỹ làm ở phòng nhân sự cũng bị đuổi việc.

Những câu chuyện như thế này chắc thỉnh thoảng cũng xảy ra ở nhiều nơi nhiều nước. Một lần nữa nó nói lên được một số vấn đề rất ư bình thường mà đôi khi ta lãng quên mất.
Thứ nhất, ở đâu cũng có người xấu người tốt. Sự kỳ thị cá nhân thì ở nơi nào, nước nào cũng có, phụ thuộc vào tư duy của mỗi con người. Sự phân biệt kỳ thị không phải chỉ dừng lại ở màu da, chủng tộc hoặc trình độ ngoại ngữ như câu chuyện trên đây, mà còn là giàu nghèo, địa vị xã hội, sang hèn, trình độ học vấn, nam nữ, địa phương, gốc gác cha mẹ ông bà..v.v.. Thậm chí một số ít người còn kỳ thị kẻ đến trước, người đến sau, mít ướt mít ráo, với những đồng bào cùng thân phận tị nạn lưu vong như họ (!).
Bởi vậy, cho dù là người Mỹ, người ngoại quốc, hay người VN chăng nữa thì cũng có đứa khôn đứa dại, người thông thái kẻ mê muội, người rộng rãi kẻ chật hẹp. Đừng bao giờ nghĩ rằng người "tây" thì luôn tốt, ông sếp thì luôn đúng, ông VK thì biết nhiều hơn... Một công ty nho nhỏ như trường hợp ở trên, thì đội ngũ nhân sự thường đơn giản. Hãng càng lớn thì nhân viên quản lý hoặc nhân sự thường được tuyển chọn kỹ càng, có đẳng cấp cao hơn. Thường là vậy, không tuyệt đối !
Một điểm nổi bật nữa, là người nước ngoài có vẻ công bằng (fair) hơn. Họ lắng nghe, thông cảm, và tôn trọng sự thật. Rõ ràng là sau 1,2 ngày cô bé con gái nhận được bao nhiêu sự an ủi, ủng hộ, đồng thuận từ nhiều cá nhân và công ty khác của Mỹ. Riêng sự công bằng này thì không phải quốc gia nào cũng có được. Có những đất nước thông tin chỉ có 1 chiều, báo đài đồng loạt như nhau, nên chỉ được hiểu 1 chiều, không có tính phản biện, thiếu công bằng, cái nhìn phiếm diện. Luận công, luận tội, cũng thiếu công bằng !
Cuối cùng là quyền được nói và sự cởi mở can đảm của những đứa trẻ. Ở quê mình, nhiều khi thấy những đứa bé thiếu tự tin hẳn ra. Giáo dục của gia đình, trường học, xã hội, và chính quyền, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền hạn và khả năng phát biểu suy nghĩ cảm tưởng của con người, nhất là ở nhừng đứa trẻ. Ở những quốc gia  mà quyền tự do ngôn luận không được bảo vệ và khuyến khích, thì khó tạo ra được một đất nước phát triển lành mạnh & một xã hội công bằng bác ái.

Nhưng suy cho cùng, so với những câu chuyện nhiều người xin đi học hoặc đi làm, bị từ chối ngay chính trên quê hương họ bởi những tờ khai lý lịch, thì chuyện anh chàng lái xe người Việt gốc Hoa này đã là một câu chuyện cổ tích rồi :-) .

Đọc câu chuyện bằng tiếng Anh ở đây 


Monday, January 29, 2018

Nghiện !

Thế là giải bóng đá U23 cũng qua đi. Cơn địa chấn dần lắng dịu xuống. Dư âm còn lại của những câu chuyện giật gân cởi truồng chạy ngoài đường, sexy Vietjet, điên loạn, chửi bới, tây ta - thằng nói gà thằng nghe vịt, chửi Uzbekistan, sém vô địch, bão đêm bão ngày, phong vua phong tước, anh hùng lao động, thủ tướng, quốc hội ... rần rần một lúc, rồi cũng sẽ từ từ qua đi. Sáng nay đọc báo VN thấy bắt đầu có vài mẩu tin thời sự, kinh tế, chính trị, xuất hiện vào danh mục tin tức hàng đầu. Vui mà cũng buồn !

Mới năm nào đây, Dr. Daniel Wann của trường Murray State University (KY) viết về tính tương đồng của thể thao và tôn giáo. Các trạng thái niềm tin, ngôn ngữ, cũng như hiện tượng của hai lãnh vực này có nhiều điểm giống nhau. Lúc đó nhiều nhà tâm lý học đã tranh luận sôi nổi và quan tâm đặc biệt về khám phá đó. Bây giờ ngồi nghĩ lại, thắc mắc có khi nào mai mốt khai lý lịch, lại có người khai tôn giáo là đạo "bóng đá" chăng ? Chắc là không đâu nhỉ !

Thực ra thì nhiều nước, nhiều nơi trên thế giới, cũng nghiện, cũng điên dại đam mê một vài lãnh vực nào đó. Cũng là chuyện thường tình. Nơi nào ít sự chọn lựa thường có xu hướng cực đoan hơn, người nào ít có nhiều thứ để quan tâm thì thường đặt nặng vấn đề hơn. Thế thôi ! Còn chuyện lỡ quan niệm bóng đá là tôn giáo thì cũng không sao, cuồng tín mới là đáng sợ :-) .

Nhớ ngày xưa Karl Marx nói "Religion is the opium of the people" (tạm dịch là : Tôn giáo là thuốc phiện của con người). Nguyên gốc từ tiếng Đức là  "Die Religion ist das Opium des Volkes" . Dĩ nhiên khái niệm "vô thần" ngày đó đã bị nhiều quốc gia lên án mãnh liệt.  Còn đến bây giờ thì ai cũng hiểu thứ gì mới thực sự được coi là thuốc phiện !


Saturday, January 27, 2018

Hoan hô !

Hoan hô đội tuyển U23 Vietnam đã đá một trận chung kết đầy quyết tâm và cố gắng !
Hoan hô tinh thần kiên trì phòng thủ trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt và thể lực khác biệt !
Hoan hô cổ động viên VN (không tính mấy em ở truồng) :-) !

Chúc mừng thành tích giải Á quân AFC U23 championship 2018. Hy vọng lần tới !






Friday, January 26, 2018

Ngược giòng !

“Those who follow the crowd usually get lost in it.” Anonymous

“The one who follows the crowd will usually get no further than the crowd. The one who walks alone is likely to find themselves in places no one has ever been before.” Albert Einstein

"It’s easy to stand with the crowd, it takes courage to stand alone.” Gandhi

"It’s better to walk alone than with a crowd going in the wrong direction.” Gandhi



Wednesday, January 24, 2018

Thủ tướng chỉ đạo khen thưởng U23

Một giải bóng đá khiêm tốn gồm 16 đội dưới 23 tuổi của khu vực châu Á, một khu vực có thành tích bóng đá gần như kém nhất thế giới. Giải bóng đá U23 này được AFC (liên đoàn bóng đá châu Á) đặt ra vài năm trước đây, coi như là một trong những giải phụ bên cạnh AFC Asian Cup được tổ chức bốn năm một lần .
Ngoài giải U23 cup, còn nhiều giải phụ khác của AFC như Asian Champions League, ASEAN cup (Tiger), và U khác (19,20,21....v.v) cũng được tổ chức. Đó là nổ lực của AFC để tạo phong trào và duy trì sự hiện diện của bộ môn túc cầu ở khu vực của mình. Các liên đoàn bóng đá của các châu lục khác cũng làm việc tương tự như CAF, CONCACAF, UEFA, CONMEBOL ...etc. Dĩ nhiên không ai có nhiều giải như châu Á .

Thế nhưng một trong những sự thành công lớn nhất của AFC là đã làm nên điều thần thánh cho đất nước Vietnam. Coi trận bán kết của Vietnam và Qatar, trên khán đài lèo tèo vài nhóm người nhúm chụm lại, đa phần là cổ động viên của 2 nước. Mình nghĩ giới truyền thông VN đã rất khéo léo trong việc quay cảnh để truyền tải  tin tức về nước nhà của mình. Nhưng điều đó dường như không quan trọng lắm với người dân trong nước, vì đã lâu không được thắng, không được kiêu hãnh, cọng thêm là giới truyền thông biết cách tung hứng giá trị của giải đá bóng này, nên sự kiện U23 đã trở nên một huyền thoại. Bão nổi lên rồi !

Nhà nhà xuống đường, người người xuống đường .... Nồi niêu và xoong chảo, cha mẹ và con cái, thành thị và nông thôn, thủ tướng và bà nội trợ, chính phủ và đảng, nhân dân và lãnh đạo, cởi truồng và phê đá, cờ xí và vật vã ....đều hoà mình vào cơn bão đó. Bão bùng mọi nẻo, bụi bờ khách sạn, dân số lại gia tăng. Mưa giải thưởng từ trung ương, chính phủ, đến mọi tầng lớp, từ Macallan đến Huda, Dũng Quất, Saigon, Tiger, Ken lon, Ken chai... Tiền dân nay lại về dân ! Dường như mọi người dân có cảm giác nổ tung, nghĩ rằng cả thế giới đang hâm mộ thần tượng VN ta . Dạ thưa không ! không có điều đó, vì thế giới ít ai biết giải này, trừ một số người châu Á quan tâm đến bóng đá. Họ không quan tâm đến giải U19, U20, U21, U22, U23... nào đó của một châu lục không mấy có truyền thống đá banh. Ngay cả các giải AFC lớn hơn cũng không được chiếu trên các kênh truyền thông chính quốc tế hay của châu Phi, Châu Âu, châu Mỹ. Cứ nhìn kỹ những hàng ghế trống toác trên sân vận động Changshu hôm đó thì rõ.

Sáng ngủ dậy coi báo, từ bữa thắng Iraq cho đến nay, báo chí mạng tràn lan tin tức U23, có hôm chiếm gần hết các mục chính. Thời sự, chính trị, kinh tế, chẳng là cái đinh gì so với U23 chiến thắng . Nhiều cái tít xấc xược "U23 đặt cả châu Á dưới bàn chân", "thế giới khiếp sợ" ... Báo Nhân Dân cũng nói " Thế nước mạnh, vận nước lên" .......Khí thế đến thế là cùng ! Thật ra kẻ thắng cuộc thực sự phải là báo đài VN, là các nhà tuyên giáo truyền thông trong nước.

Gọi dt cho người bạn, bạn nói - "Đã lâu không có gì vui" . Mình hiểu điều đó, mình hiểu cái niềm vui thiên niên kỷ đó . Hiểu cái ý nghĩa của "chào U23 đỉnh cao muôn trượng" . Dân ta dễ vui dễ mừng, nên mới là dân lạc quan nhất nhì thế giới . Chỉ cần cây bánh tét dài nhất, cái chả giò lớn nhất, cái tháp truyền hình cao nhất, buồng chuối nhiều trái nhất, tiến sĩ nhiều nhất .... hoặc một hãng phim ngoại quốc vào đóng phim khỉ đột King Kong hạng thường cũng lên bàn nghị sự quốc hội. Chỉ cần nhất là đủ, huống hồ là một giải U23 trong khu vực có đến 16 đội tham gia. Dễ đến, dễ đi, dễ vui, dễ buồn. Một HD 981, một Gạc Ma, một Hoàng Sa, một Trường Sa, lại không đủ làm ta thổn thức. Kiên cường. Nhưng chỉ cần một Jack Ma - thủ lãnh của ngành hàng giả hàng nhái - đủ làm dân ta quỳ xuống, ngã gục. Một vài tên tuổi Hàn quốc hạng xoàng đến VN, ta điên dại khóc tế bò càng chà đạp lên nhau....
Những nỗi đau của ngư dân Lý Sơn, Bình Châu, những oan nghiệt của Formosa, những hệ lụy thực phẩm độc hại. Những oan khiêng ruộng vườn, những mái trường du dây lội suối ... không đủ làm ta nhỏ lệ. Anh hùng. Nhưng chỉ cần một Hoàng Kiều "đêm bảy ngày ba", một Ngọc Trinh hở váy, đủ làm xôn xao rộn ràng cả nước.

Mình vốn dân mê đá banh, nên rất vui, rất khí thế, rất tự hào về đội U23 VN. Cảm ơn ông HLV người Hàn gốc Lạng Sơn (nghe có ông VN giải thích Hang Seo = Heo Sang = Lợn Sang = Lạng Sơn) đã đưa nàng Tấm vào cổ tích. Sáng 3g thức dậy coi đá banh, hồi hộp và vỡ oà theo chiến thắng của quê nhà . Nhưng mình vẫn cho đó là một giải thi đấu U23 của khu vực. Vẫn nghĩ rằng VN có thể đi xa hơn rất nhiều nếu ta không dễ thoả mãn và tự hào đến mức điên dại vì một giải túc cầu nhỏ của AFC dành cho lứa tuổi dưới 23 trong khu vực.

Cầu trường vắng vẻ của trận U23 Vietnam - Qatar tại TQ:



Tuesday, January 23, 2018

Từ Vietnam U23(2018) nhớ về Bồn Lừa của Duyên Anh !

....
Năm ấy, các hội nhà nghề Âu-châu, Mỹ-châu viễn du tưng bừng. Họ qua Á-châu, tung hoành ở Do-thái, thao túng Mã-lai-á, ca khúc khải hoàn ở Hương-cảng, Nhật-bản, Đại-hàn. Trên đường về, mỗi hội đều muốn biết Việt-nam. Một là để nghỉ chân, hai là đề lượm thêm chút bạc. Hội đầu tiên khai mạc những trận quốc tế tại vận động trường Cộng-hòa là Milan của Ý-đại-lợi. Ý-đại-lợi đã từng đoạt hai lần giải túc cầu thế giới. Những con cưng của, hội Milan, phần đông, đều "nhập cảng" từ Nam Mỹ, vườn ươm sao sáng bóng tròn, quê hương của Pelé, Garrincha... Hội Milan, năm rồi, đá bại tất cả các hội nhà nghề trong nước chiếm giải vô địch Ý-đại-lợi. Chuyến viễn du Á châu, họ chỉ biết thắng chứ chưa hề biết thảm bại.

Hội Milan nhận đấu ba trận với Tổng Tham-mưu, hội tuyển Sài-gòn và đương kim vô địch Việt-nam : Thiếu-niên. Trận đấu Milan đụng Tổng Tham-mưu, hạ hội nhà binh 4 bàn không gỡ. Trận thứ hai, Milan gặp hội Thiếu-niên. Cầu trường không hở một tấc, ở những khán đài bình dân. Khán giả Việt-nam đi xem anh em Bồn lừa rửa mối nhục "tiểu nhược quốc". Những người cả đời chưa coi đá bóng, cũng chen rách áo hoặc mua vé chợ đen xem trận đấu lịch sử này. Bồn lừa, hai tiếng đó như hai tiếng của mầu nhiệm, len lỏi vào mạch máu của mỗi người Việt-nam. Những em bé nghe hai tiếng Bồn lừa bỗng cảm thấy mình lớn lên, phi thường cơ hồ Bồn lừa ! Đó là thần tượng của nhi đồng, là anh hùng vô địch. Tổng thống Việt-nam cứ chết đi, không ai thèm khóc cả, nhưng Bồn lừa mà chết, chắc chắn hàng triệu nhi đồng lăn xuống đất, khóc nức nở thâm quầng mắt. Bồn lừa bất tử. Kẻ làm đẹp cho quê hương bất tử. Bồn lừa ơi, mày nghe rõ chưa ? Hàng triệu em bé đang muốn phi thương trên sân cỏ, trong mọi lãnh vực. Hãy đá bại Milan.

Hội Thiếu-niên bắt hội nhà nghề Milan, vô địch Ý-đại-lợi, phơi áo với tỷ số thê thảm : 6 trái. Milan gắng sức kiếm một trái danh dự mà đành thất vọng tới phút mãn cuộc. Chiều đó, gió thổi mạnh song cờ Ý không tung bay nổi. Chỉ có cờ Việt-nam phần phật reo trong gió. Khí thế Việt-nam mạnh mẽ vô cùng. Men chiến thắng làm hăng say hội tuyển Sài-gòn. Nên trận chót, hội tuyển Sài-gòn tạo một sự ngạc nhiên : thắng Milan 2-1. Cựa của anh em Bồn lừa đã phô. Cựa của con cháu Lý Thường Kiệt, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ đã phô và Milan phơi áo. Tin này làm xúc động cả nước Ý, làm bàng hoàng thế giới. Các hội bóng Âu, Mỹ nóng lòng sang Việt-nam. Và họ đã sang để đau đớn phơi áo như Milan. Phơi áo trong nỗi cảm phục. Trên bản đồ thế giới, nước Việt-nam bé nhỏ được hàng trăm nước lấy bút chì màu tô thẫm nét.

Việt-nam thuộc Á-châu đấy. Hình cong giống chữ S hai đầu phình ra, giữa thót lại. Người Việt-nam vốn là dòng giống Bách-việt có lịch sử lập quốc vĩ đại nhất thế giới, có huyền sử "trăm con trăm trứng" đẹp nhất loài người. Dòng giống Bách-việt là dòng giống văn minh trước nhất nhân loại. Dòng giống đó kiêu hùng như rồng, phóng khoáng như tiên. Chưa một nước nào dám đơn phương đánh nước Trung-hoa, trừ dòng giống Bách-việt. Đánh Trung-hoa là thắng, không biết bại. Nước Việt-nam có điệu thơ mơ màng nhất thế giới là thơ lục bát. Thơ lục bát lơ lửng trong tâm hồn mọi người Việt-nam cơ hồ tiếng sáo diều của họ lơ lửng trên bầu trời. Không nước nào bắt chước người Việt-nam làm thơ lục bát được. Nước Việt-nam lại có đội bóng tròn bách chiến bách thắng gồm Chương còm, Bồn lừa, Tí điên, Tư chăn vịt, Dzũng Đakao, Tiến gầy, Hưng mập, Sơn trán cao...

Thế giới đã biết Việt-nam như vậy đó. Bồn lừa và anh em nó bắt thế giới phải biết quê hương Việt-nam của anh em nó. Thế giới khâm phục Việt-nam rồi. Bồn lừa đã tới. Cả nước đồng ý bầu hội Thiếu-niên làm Hội-tuyển Quốc-gia. Kỳ này, hội Thiếu-niên, đại diện Việt-nam, tham dự giải vô địch bóng tròn thế giới.
....

Dân chúng Trí-lợi không bao giờ dành cảm tình cho đội bóng nào bắt đám con cưng của họ phơi áo. Thế mà họ đã hoan hô, ngưỡng mộ mười một hảo thủ nhô con Việt-nam. Cả Mỹ-châu, cả Âu-châu tự kiêu tự đại nghiêng mình phục Việt-nam. Thế giới có bao nhiêu người mê say bóng tròn thì bấy nhiêu người thuộc lịch sử, địa dư nước Việt-nam.

Báo chí Pháp công khai xin lỗi nước Việt-nam và coi chuyện tám mươi năm đô hộ là chuyện nhục nhã của dân tộc Pháp. Bóng tròn đã làm lu mờ tất cả và khuynh loát chính trị. Thế giới hướng về Trí-lợi mong ước Việt-nam đoạt cúp Jules Rimet và đòi hỏi hòa bình danh dự cho dân tộc Việt-nam.

Thế giới lên án những kẻ gây chiến tranh, những tên lái súng, những âm mưu thực dân mới. Không qua Trí-lợi với tư cách các nhà ngoại giao nhưng anh em Bồn lừa đã trở thành các nhà ngoại giao, phục vụ quê hương đắc lực. Hai tiếng Việt-nam sơn son thiếp vàng trong tim nhân loại. Người ta ngước nhìn cờ Việt-nam đang bay, nghiêm trang kính cẩn.

Buổi chiều hôm vào chung kết, sân cỏ Santiago muốn nứt ra. Vì khán giả kỷ lục.

Hàng trăm ngàn người vây quanh vận động trường hò hét, phẫn nộ, không mua được vé. Những người giầu thuê máy bay trực thăng bay trên trời, dùng ống nhòm theo rõi trận đấu.

.....

Khí vừa chui ở hầm vận động trường lên, Việt-nam đã được ngót trăm ngàn khán giả chèn cá hộp trên các khán đài sân Santiago cổ võ tưng bừng.

- Viet-nam, le premier !

- Viet-nam, il primo !

- Viet-nam, number one !

Ba thứ tiếng biểu dương lòng khâm phục của thế giới bóng tròn. Việt-nam số dzách. Thủ quân Bồn lừa phá luật quốc tế, cho anh em xếp hàng, chạy quanh sân một vòng chào khán giả.

Mũ, khăn mùi xoa, hoa ảnh, cả giấy bạc nữa, tung như mưa lá me đầy sân. Bắt tội ban tổ chức phải đi lượm. Khán giả muốn cho Việt-nam tất cả, cho cả trái tim họ. Những cô sinh viên Trí-lợi đẹp tuyệt vời đã nhẩy cỡn, hét lớn :

- Bon lua, I love you.

- Bon lua, Je t'aime.

Bồn lừa đưa anh em ra giữa sân, quây tròn lại, biểu diễn vài xảo thuật. Khán giả muốn nổi điên. Anh-cát-lợi chỉ mới coi Việt-nam biểu diễn vài đường huê mỹ đã toát mồ hôi trán rồi.

Tiếng còi rít lên. Một trăm ngàn con tim trong sân Santiago đứng lại. Hàng trăm ngàn con tim ngoài sân Santiago ngừng đập. Hàng triệu triệu khán giả theo rõi trận đấu bằng vô tuyến truyền hình hồi hộp, trông chờ. Sinh hoạt tại các nước trên thế giới cơ hồ tê liệt. Ống khói của các nhà máy thôi phun khói. Tàu bè hạ neo. Công xưởng nghỉ việc. Đường phố vắng hoe. Tất cả đổ xô vào những quán rượu, những nơi có vô tuyến truyền hình. Những cuộc đánh cá hào hứng đã xẩy ra. Hầu như người ta đặt tiền nơi chân cẳng Việt-nam, trừ dân Anh-cát-lợi.

Ở quê hương nhà thì khỏi kể. Tin Việt-nam cho các đội túc cầu khét tiếng phơi áo để vào chung kết gặp đương kim vô địch Anh-cát-lợi đã khiến hàng triệu người khóc nức nở. Những giọt nước mắt sung sướng chảy xuống làm thành dòng sông Hồng thứ hai. Dòng sông mang tên Hãnh Diện phát nguyên tự những tâm hồn vĩ đại của Bồn lừa và anh em nó. Bất cứ một người Việt-nam nào cũng cảm giác mình lớn lên, khỏe ra, không thua kém ai. Niềm tự ti "tiểu nhược quốc" biến mất. Người Việt-nam bắt đầu mơ mộng, bắt đầu nghĩ đến nhiều chuyện phi thường khác ngoài lãnh vực túc cầu. Bồn lừa đã là cảm hứng cho những giấc mộng phi thường đó. 
......

Từ vạn dặm, tiếng nói của Huyền Vũ vượt biển cả, rừng sâu, vọng về đất nước :

"Thưa đồng bào,

Chúng ta sẽ thắng. Việt-nam sẽ thắng. Tiến gầy vừa dọ dẫm một đường ban nhẹ mà Anh-cát-lợi đã bối rối. Bây giờ, Bồn lừa là tất cả. Bồn lừa là mạch máu, là tim phổi, là lẽ sống của một trăm ngàn khán giả nhấp nhổm tại Santiago. Thưa đdng bào, thủ môn Springett đã đá bổng ban lên."

Hữu nội Hunt được bóng, đưa lên, đưa lên nữa. Bắn sang góc phải. Tả biên Kevan lướt địch thủ đem bóng sâu thêm xuống đất Việt-nam. Tả nội Peacock chạy theo Kevan, nhận bóng. Bảo méo mồm ra truy cản. Peacock tạt nhẹ vào giữa, Haynes đã có mặt. Anh này lừa Sơn trán cao và toan một mình gây chuyện lạ. Trái sút búa bổ sút thẳng vô khuôn thành của Chương còm. Nhà thủ môn tăm tre Việt-nam nhẫy lên, bắt bóng bằng tay trái. Cùng một động tác bắt bóng, tay phải Chương còm giơ cao, chào khán giả.

Cầu trường ngạc nhiên đến rụng rời. Thủ môn Việt-nam có thể một tay bắt bóng, một tay chào khán giả ư ? Lịch sử túc cầu tự cổ chí kim đã ai dám chơi như vậy đâu. Thế mà Chương còm vừa mới "chơi" thế đấy. Nhà thủ môn Việt-nam đóng vai con mèo rỡn con chuột trung phong khét tiếng Anh-cát-lợi. Khiến Haynes tức ứa máu mắt,

Ngày xưa chúng mày vào Sài-gòn tước khí giới Nhật, chúng mày đem theo bọn thực dân Pháp. Rồi liên quân Anh, Pháp, Ấn dùng võ khí tối tân đánh nhau với gậy tầm vông của thanh niên tiền phong. Chúng mày đã bắt đồng bào ông ứa máu mắt thì hôm nay, ông bắt cả nước mày ứa máu mắt để chúng mày biết đau đớn mà dậy chút tình thương yêu nhân loại, dứt bỏ tinh thần kỳ thị chủng tộc ở châu Phi đi, dứt bỏ tinh thần đế quốc đi...

Chương còm đã nghĩ tới mối nhục của quê hương trước khi bắt trái bóng lạ đời. Chương còm đá bổng trái bóng lên, y hệt những đường bóng trong giấc chiêm bao thời thơ ấu của Bồn lừa. Haynes nhận được bóng. Chuyền cho Peacock. Anh này dẫn xuống đất Việt-nam, Peacock hất nhẹ cho Kevan, Kevan sút vào giữa. Haynes đánh "cú tết" chuyền cho Hunt. Hữu nội Anh-cát-lợi gắng sức lừa khỏi màng lưới Tí điên và...

"Thưa đồng bào, Hunt sút thật mạnh ! Nhưng trái bóng đã dính chặt trong tay nhựa của chiến sĩ Chương còm. Cú sẫm sét của Hunt tưởng đã tung lưới Chương... Không ai ngờ Chương còm bắt bóng dễ thế".

Trái bóng của Hunt giống trái bóng của Garrincha, bay chéo vào thành, cách cột trụ và sà ngang hơn gang tay. Chương còm tung người lên, tay phải chộp bóng ôm gọn vô nách. Cả sức mạnh vô biên và tài nghệ của Hunt, bỗng nhiên, bị thu hút y hệt thỏi sắt bắn mạnh vào miếng nam châm. Đến lượt Hunt ứa máu mắt.

Trận đấu mỗi lúc một sôi nổi, ngoạn mục. Việt-nam xuống quân ào ào nhưng, chưa muốn "làm thịt" Anh-cát-lợi mà cố ý biểu diễn hiến khán giả thế giới một nghệ thuật nhồi bóng điêu luyện của Việt-nam, Từ cách dàn xếp tới lối làm bàn, Việt-nam đều vượt lý tưởng túc cầu. Ông thầy túc cầu thế giới Anh-cát-lợi không còn dám nhớ mình là cha đẻ của nghệ thuật túc cầu nữa. Việt-nam không quên hai trận hội tuyển quân đội Anh làm mưa gió trên sân Cộng-hòa thuở xưa. Thành thử, họ cố kéo dài những phút tội tình, dồn Anh-cát-lợi vào cái thế không dám nghĩ đến thất vọng nhưng cũng không dám nghĩ đến hy vọng.

Sang hiệp nhì, Việt-nam đàn áp ngay. Sau vài phút toan tính mở tỉ số. Anh-cát-lợi rút hết về thủ thành. Và Chương còm dựa lưng vào cột gôn, ngáp vặt. Bồn lừa thật sự tỏa ánh hào quang. Nhà trung phong Việt-nam bắt bầu trời Trí-lợi sa sầm lại. Sa sầm lại, tối um cho rõ ràng Bồn lừa. Vũ trụ, dưới mắt một trăm ngàn khán giả ở sân Santiago, chỉ còn có Bồn lừa. Bồn lừa thôi miên trái bóng. Trái bóng tuân lệnh Bồn lừa. Bồn lừa thêu dệt gấm vóc. Mười ngôi sao sáng dần quanh ngôi sao sáng nhất. Khán giả điên lên vì tài nghệ siêu việt của Việt-nam.

Biết bao người đang nhóm trong tim ngọn lửa mơ mộng: mơ mộng được làm người Việt-nam, được bằng người Việt-nam. Trái bóng đang nằm dưới chân Bồn lừa. Chàng ngước nhìn lá cờ Việt-nam. Hai mươi triệu linh hồn những người còn sống và triệu triệu linh hồn những người đã chết ngự trị trên đó. Linh hồn tổ quốc không nói nhưng Bồn lừa mơ hồ nghe tiếng nói Việt-nam đầm ấm, giục giã chàng : "Hãy chiến thắng đi, Bồn lừa !"

Bồn lừa gạt bóng sang trái cho Tiến gầy. Haynes nhào tới. Tiến gầy trả bóng Bồn lừa. Đồng đội bị ốp dữ, Bồn lừa... lừa qua mặt Hunt, Armfield, Wilson. Nhà trung phong Việt-nam vừa chạy hết tốc độ vừa sút bóng. Bồn lừa lộn đầu xuống đất, hai chân giơ ngược lên trời. Cú sút "trồng cây chuối" đã tung lưới Springett mở tỷ số đầu cho Việt-nam.

Tiếng hoan hô vang dội tại sân San­tiago tưởng chừng cả trái đất đều nghe rõ. Ba phút sau, Bồn lừa phá lưới Anh-cát-lợi bằng một cú "ngả bàn đèn". Tiếp theo, Dzũng Đakao, Quyên Tân-định, Bảo méo mồm, Tiến gầy, nhóc con Hùng, mỗi người tặng Anh-cát-lợi một trái. Mãn cuộc, Việt-nam hạ Anh-cát-lợi bảy trái không gỡ, chiếm chức vô địch bóng tròn thế giới, đoạt giải Jules Rimet. Cả nước Anh-cát-lợi khóc ròng tin thảm bại này. Cả nước Việt-nam hả hê cơ hồ đang hả hê trong mùa xuân Quang Trung.

....

Ở SÂN CỎ ẤY, CŨNG NHƯ NGÀN vạn sân cỏ Việt-nam từ thành thị đến thôn quê, các em bé trước và sau buổi tập luyện bóng tròn, đều kể cho nhau nghe chuyện Bồn lừa, Chương còm, Dzũng Đakao, Tiến gầy, Bảo méo mồm, nhóc con Hùng, Quyên Tân-định, Hưng mập, Tư chăn vịt, Tí điên, Sơn trán cao. Bồn lừa đã trở thành nhân vật cổ tích đẹp nhất trong những chuyện cổ tích. Mỗi ông nhô kể một lối. Và thần thánh thêm, khiến Bồn lừa lạc vào huyền sử.

Nhưng Bồn lừa đâu phải là thần thánh. Người lớn nói cho trẻ con nghe thế này :

- ..."Bồn lừa con nhà nghèo, sống trong con ngõ miệt ngoại ô Tân-định. Nó đá bóng với bọn Chương còm, Dzũng Đakao tại sân Hoa-lư. Bồn lừa biết mộng mơ làm đẹp cho quê hương. Có người thuật cho nó nghe "Phiến đá thần". Nó đã leo lên được ngọn núi, soi bóng mình vào phiến đá thần. Vì nó chăm chỉ học hành, gắng sức trau dồi tài nghệ. Bồn lừa đã làm đẹp quê hương Việt-nam."

Người lớn kể xong, hỏi trẻ con :

- Mày thích làm Bồn lừa không ?

Trẻ con chớp mắt, mím môi, vươn cao đôi tay, đá mạnh vào không khí, hét điên cuồng:

- Con sẽ như Bồn lừa...

Duyên Anh (1966)



Thursday, January 18, 2018

Ta hèn nhát hay người thâm hiểm ?



Mỗi năm cứ đến ngày 19/1, nhiều người VN (đúng ra phải là tất cả) đau đáu nghĩ về thân phận của quê hương mình. Hoàng Sa, một phần đất nước đã bị Trung cọng cưỡng chiếm, bắt đầu từ năm 1974, và sau đó liên tục các phần lãnh thổ khác ở Trường Sa và Tây Bắc .
Thiết nghĩ, những người con thực sự của đất Việt cần phải hiểu rõ nội dung của những sự kiện đau thương này. Thời nay, không khó lắm để tìm ra tài liệu xác thực và chân tướng của những câu chuyện lịch sử. Chúng ta lại càng không nên để các phương tiện chính trị rẻ tiền bên lề dẫn dắt lịch sử một cách sai trái. Lâu nay, tội bán nước luôn bị nhân loại phỉ nhổ khinh miệt, tội xâm lược cưỡng chiếm cũng bị thế giới lên án mãnh liệt.

Đất nước VN lâu nay được thế giới nhắc đến một cách khâm phục là tính bất khuất, không bị đồng hoá dù ngàn năm, trăm năm ... bị ngoại bang đô hộ. Điều đó xảy ra được là do cha ông ta không dễ bị ru ngủ, lừa mị. Họ nhắc nhở nhau, truyền tai nhau, tri ân tiền nhân, tưởng niệm sử kiện oai hùng, và dạy dỗ con cháu chân tướng của lịch sử chính nghĩa .

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Tiệt nhiên định phận tại thiên thư !". Đơn giản là thế. Do vậy, sự kiện mất Hoàng Sa 19/01/1974 luôn cần được nhắc nhở, tưởng niệm, cho dù bất kỳ thể chế chính trị nào, bởi điều đó thuộc về lịch sử đất nước và trách nhiệm của dân tộc VN.

Nếu không dám chính thức tưởng niệm và lên án sự kiện xâm lược cưỡng chiếm 19/1 của Trung cọng ngay chính trên quê hương mình, thì đã là một tủi nhục đớn hèn. Còn nhiệt liệt chào đón cả đoàn văn công TQ - kẻ đã xâm lược tổ quốc mình - vào ca hát nhân ngày mất Hoàng Sa, thì quả nhiên là không còn ngôn từ nào đáng để nói. Còn nếu cho đây là một ứng xử ngoại giao, thì là một ứng xử văn hoá ngoại giao rất cần suy ngẫm lại ! Ta hèn nhát hay người thâm hiểm ?
(Cũng cần nên biết là ngày 18/1/1950 là ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa chính phủ Việt Nam dân chủ cọng hoà và Trung Cọng, nên hàng năm cứ đến ngày 18/1, chính phủ TQ lại thuờng xuyên tổ chức các sự kiện ca hát nhảy múa với VN, đặc biệt là sau sự kiện cưỡng chiếm Hoàng Sa 19/1/1974.)

Thiết nghĩ, đây mới là chuyện thông tin văn hoá !

Một ứng xử cần suy gẫm lại ! 
(đường link của bản tin này đã bị tháo gỡ, và đoàn Văn công TQ đã không diễn đêm 19/1 vì "sự cố kỹ thuật".)

Tuesday, January 16, 2018

Thắng mà thua, thua mà thắng !

Năm 1995, nước Mỹ xôn xao vì vụ đại án OJ Simpson, kéo dài cả năm trên tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng. Đại đa số dân chúng Mỹ đều cho là OJ Simpson có tội, nhưng cuối cùng thì OJ được thả tự do vô tội, thắng kiện. Thực ra kẻ thắng cuộc thực sự là luập pháp Mỹ. Một lần nữa, nó cho người ta thấy ý nghĩa thực sự của luật pháp là dựa vào bằng chứng, lý lẽ, và sự tranh luận công bằng. Nhiều người Mỹ ấm ức & không hài lòng với kết quả phiên toà ấy, nhưng họ lại hài lòng và tin tưởng vào hệ thống luật pháp rõ ràng mình bạch .
Mấy ngày qua, đọc tin tức (từ những tờ báo chính thống) của hai phiên xử Hà Nội (PVN) và Sài gòn (VNCB), mình thấy như có cái gì hơi khác lạ. Từ việc toà nam hỏi Trầm Bê về lai lịch căn nhà, đến chuyện toà bắc giải trình cách tính thiệt hại vật chất vụ án kinh tế, mình ngạc nhiên về cách điều hành phiên toà của các ngài tại chức. Không hiểu các nhà làm luật và đầu tư nước ngoài sẽ nghĩ ra sao ? Mình cũng không hiểu các ông luật sư suy nghĩ gì về công việc và nghề nghiệp mà họ đang theo đuổi ?
Dĩ nhiên, không ai lại đi bênh vực cho kẻ tội phạm, lạm dụng luật pháp, lợi dụng lỗi hệ thống, lỗ hổng cơ chế, để tư lợi quá đáng, hại dân hại nước. Tội phạm phải được xét xử nghiêm minh. Nhưng tôn chỉ cuối cùng của một phiên toà là khẳng địng tính pháp quyền của một đất nước, tạo dựng niềm tin của người dân về hiếp pháp và công lý. Luật pháp phải rõ ràng, toà án phải công khai minh bạch, án kết phải dựa vào căn cứ, bằng chứng, lý lẽ. Quyền tranh luận phải được thực thi công bằng giữa đôi bên. Không định hướng nội dung và kết quả !
Nếu mất đi cái tôn chỉ đó, thì những việc như thu hồi tài sản, cách chức, bỏ tù .vv....chỉ là những cái được của hạt muối bỏ biển. Mất quá nhiều so với được !


Saturday, December 30, 2017

Phiếm - cuối năm 2017...

Cuối năm, trời lạnh hơn. Pha ly cafe đậm, muốn ngồi viết mà lại chẳng biết viết chuyện gì. Cái lạnh cũng thường lệ, tiệc tùng cũng thường lệ, kết thúc một năm cũng thường lệ . 
Một người bạn hỏi mình năm nay có gì nổi bật không . Mình trả lời :
- Thêm một tuổi như thường lệ !
- Sao đơn điệu thế ?

Ừ nhỉ, cuộc sống này cũng ngộ. Cũng bấy nhiêu chuyện đó xảy ra, nhưng khi nhìn ở góc cạnh này thì cho là phức tạp, nhìn ở góc cạnh khác lại cho là đơn điệu. Nhưng cuối năm thì bao giờ cũng là thời khắc thú vị nhất để nhìn lại những đơn điệu hay phức tạp đó.

Tính ra, thì từ ngày có internet, quá nhiều thứ đổi thay, trong đó chính nhất là mảng thông tin & truyền thông. Con người bây giờ ngồi một chỗ biết tất chuyện thiên hạ, từ đông sang tây, từ âu sang á. Nên thời này người ta cuối năm nhìn lại, thì không những chỉ nhìn chuyện mình, mà còn nhìn cả chuyện thế giới chung quanh. Dĩ nhiên lợi có, mà hại cũng có ! 
Mình có ông bạn quen thường nói: "Hồi xưa đấu tố ở ngoài bắc, ít ra là có tập trung lại, nghe thằng nào đó kể tội, thấy mặt thấy mũi, rồi mới ném đá. Giờ ở quê ta, thì khỏi cần nghe, khỏi cần thấy mặt. Muốn đấu tố đứa nào, cứ nêu tên nó lên mạng vài ngày, thì ông bà cha mẹ, chú bác cô dì nó, thậm chí nó ăn chỗ nào, ngủ chỗ nào, ỉa đái chỗ nào cũng được khai ra, mà chẳng cần biết đúng sai !" . 

Mình thì luôn nhìn truyền thông ở góc cạnh tích cực hơn. Mình tin vào sự minh bạch và đa dạng của thông tin sẽ làm cho xã hội văn minh hơn, con người ít bị giam hãm trí tuệ, it thiển cận, và ít cuồng tín vào những điều không có thực. (Cũng có thể là minh may mắn được sống ở những môi trường, mà ở đó tính xác thực của tin tức, và giá trị riêng tư của con người, được tôn trọng nhiều hơn).
Cuối năm, như một thường lệ, ngồi lướt qua một vòng trên mạng, đọc những bài tổng kết cuối năm của báo, đài. Dĩ nhiên là vui có buồn có, hỉ nộ ái ố, đủ hết, nhưng đó cũng là những hiện tượng và trình tự nhất định ở đời thường. Coi cho biết, coi cho vui, coi để chấm hết một năm cũ qua đi, và để bắt đầu một năm mới .
Thường thì tin tức bên nước ngoài đa dạng hơn nhưng lại rõ ràng hơn, đọc để biết, không vui không buồn. Còn tin tức bên quê nhà, định hướng rõ hơn, tội nhiều hơn công, chồng chéo hơn, đọc thấy buồn nhiều hơn vui. Nhưng rồi vẫn mong năm tới tốt hơn năm nay, tin tốt nhiều hơn tin xấu !
Ngày mai tiệc cuối năm rồi, đón giao thừa, thêm một tuổi. Đếm ngược, đếm xuôi, những ly rượu, những vòng tay, những nụ hôn, những nụ cười ... thân thiện và vui nhộn. Năm nào cũng thế, không thể thiếu được. Mà Saigon bây giờ cũng vậy thôi, nhiều nơi tổ chức cũng vui nhộn ác liệt, chỉ có cái tiết mục hôn nhau lúc giao thừa thì hơi khác thôi 🙂 . Nhớ mấy năm còn ở bên VN, giao thừa tết tây, nhiều nơi dưới Q1 đông nghịt ... Level 23 Bar, Liquid Sky Bar, Saigon Saigon Rooftop , La Dolce Vita Bar, Sofitel, Legend, REX .... chật cứng. Không biết bây giờ mấy thế hệ KS sau như Park Hyatt, Reverie Saigon, InterContinental ... có làm xôm tụ, sôi nổi hơn không ? Nhưng chuyện vui tết tây ở VN thì cũng chỉ là 1 số rất ít thôi, quê ta dân ta thì vẫn quan tâm tết ta thôi !
Thôi hết năm, vui buồn, sướng cực, giận hờn gì, thì cũng nên cho qua đi, vì sẽ qua đi. Thân chúc tất cả các bạn và gia đình một năm mới an khang thịnh vượng, dồi dào sức khoẻ !
(Ngẫm lại thì người VN mình may mắn hơn Tây phương, vì được chúc tết đến 2 lần, đã lâu quen rồi. Nên ông nào xúi bỏ tết âm lịch, thì căng đấy, căng cả hơn ông Bùi Hiền )




Monday, December 04, 2017

KHÁI NIỆM VỀ VÔ MINH TRONG PHẬT GIÁO

KHÁI NIỆM VỀ VÔ MINH TRONG PHẬT GIÁO
(Hoang Phong)

Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác Ngộ là Trí Tuệ, và đối nghịch với Trí Tuệ là Vô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh. Vô Minh mang lại khổ đau và Giác ngộ thì mang lại sự Giải Thoát. Trí Tuệ là liều thuốc để hóa giải Vô Minh tức để loại bỏ khổ đau. Chính vì thế mà vô minh là một khái niệm vô cùng quan trọng trong giáo lý nhà Phật bởi lẽ nếu không hiểu được vô minh là gì thì quả thật là khó mà loại bỏ được nó. Vô minh được kinh sách đề cập trong ba trường hợp khác nhau:
- Vô minh là nọc độc thứ nhất trong số ba nọc độc gọi là Tam Độc: đấy là sự đần độn hay u mê (moha - si mê); sự thèm khát và bám víu (raga - tham lam) và hận thù (krodha - sân hận). U mê (moha - ignorance - si mê) sẽ đưa đến những hành động ngu đần và sai lầm, mang lại những xúc cảm bấn loạn trong tâm thức.

- Vô minh (avidya/avijja) là "nút thắt" hay cái "khoen" đầu tiên trong số mười hai "nút thắt" của chuỗi dài lôi kéo và tương tác gọi là "Thập nhị nhân duyên", trói buộc chúng sinh trong thế giới luân hồi. Cái nút thắt đầu tiên ấy còn được gọi là vô minh nguyên thủy (sahajavidya), tức sự kiện không hiểu biết về Tứ Diệu Đế, về quy luật nguyên nhân hậu quả (nghiệp) và không ý thức được sự hiện hữu trói buộc của chính mình.

- Vô minh mang ý nghĩa của sự lầm lẫn, thiếu sáng suốt (ditthi, wrong views - tà kiến) nghĩa là không nhìn thấy bản chất của mọi vật thể, tức phương thức hiện hữu đích thật của con người và mọi hiện tượng.

Kinh sách, bài giảng, bài viết... về khái niệm vô minh nhiều vô kể, do đó bài viết ngắn này chỉ nhằm nhắc lại một vài định nghĩa chủ yếu và chỉ khai triển thể dạng thứ ba của vô minh tức là sự lầm lẫn và u mê về bản chất của mọi vật thể, đồng thời nêu lên một vài thí dụ cụ thể để chúng ta cùng suy ngẫm. Từ "vô minh" nói chung thì tiếng Phạn gọi là Avidya và tiếng Pa-li là Avijja, nghĩa từ chương của chữ này là sự "thiếu hiểu biết", thế nhưng cũng có thể hiểu đấy là một sự "nhầm lẫn". "Thiếu hiểu biết" không có nghĩa là thiếu sự hiểu biết mang lại từ sự học hỏi từ chương trong sách vở, hay sự thiếu hiểu biết mang tính cách thông thái của một nhà bác học. Nói một cách đơn giản thì ta có thể hiểu vô minh như là một cách "nhìn sai" hay "hiểu sai". Đối với Phật Giáo thì một học giả uyên bác, một triết gia thông thái, một khoa học gia lỗi lạc hay một chính trị gia khôn ngoan v.v... vẫn có thể là những người "vô minh" và "u mê", vì tuy rằng họ hiểu rành rọt về chuyện này thế nhưng cũng có thể nhìn sai và hiểu sai về một chuyện khác. Không những thế, cái chuyện khác ấy đôi khi lại có một tầm vóc quan trọng hơn nhiều so với những chuyện mà họ biết thật rành rẽ, bởi vì nó có thể liên hệ đến hạnh phúc và tương lai lâu dài của họ và của cả những người khác nữa.

Tóm lại dù đấy là một vị giáo sư hay chỉ là một người không có cái may mắn được học hành thì cả hai cũng đều có thể rơi vào sự lầm lẫn như nhau. Nếu sự lầm lẫn ấy chỉ liên hệ đến những biến cố và sự kiện thường tình trong đời sống thì hậu quả mang lại đôi khi cũng không đến đỗi quá tệ hại. Thế nhưng nếu đấy là một cái nhìn lầm lẫn, một sự quán thấy lệch lạc, không nhận biết được bản chất đích thật của chính mình và của mọi sự vật, không quán thấy được ảo giác của mọi hiện tượng đang biến động chung quanh mình và những xung năng trong tâm thức mình, thì hậu quả mang lại sẽ trầm trọng hơn nhiều.

Sự phức tạp của vô minh và sự đa dạng của việc tu tập

Như vậy nếu muốn phá bỏ hay "khắc phục vô minh" để mở rộng sự hiểu biết và tìm thấy trí tuệ thì phải làm thế nào? Việc tu tập quả thật là rắc rối. Con người có quá nhiều xu hướng khác nhau, từ bản chất cơ thể cho đến giáo dục, từ truyền thống cho đến kinh nghiệm cá nhân, từ hoàn cảnh cho đến những định hướng tư lợi, mà tất cả những thứ ấy đều là hậu quả của nghiệp tích lũy từ trước. Quả thật hết sức khó để có thể tìm ra một phương thức chung có tính cách phổ cập, thích ứng cho tất cả mọi người. Vì thế cũng không nên lấy làm lạ là chung quanh ta "mỗi người tu một cách", các tông phái, chi phái thì "nhiều vô kể", và sách giảng thì cũng đủ loại. Thật ra thì đấy là các phương cách khác nhau mà Đạo Pháp dùng để thích ứng với sự đa dạng của chúng sinh, hay nói một cách giản dị là để thích ứng với cái vô minh và cái ngã của từng người mà thôi.

Giáo lý nhà Phật cũng không phải là không ý thức được việc đó, vì thế mà Đạo Pháp xem đấy đều là những "phương tiện thiện xảo" (upaya) "chấp nhận" cho mỗi người tự tìm lấy một "con đường" thích hợp cho mình, và tất nhiên là cũng phải tôn trọng một số nguyên tắc căn bản nào đó trong Đạo Pháp. Kinh sách cho biết là có tất cả 84.000 "phương tiện thiện xảo", và theo truyền thống văn hóa Ấn độ thì con số này chỉ mang tính cách tượng trưng, có nghĩa là các phương tiện thiện xảo nhiều lắm, đếm không xuể. Vô minh cũng thế, cũng nhiều lắm và đếm không xuể. Mỗi người có một cái vô minh riêng của mình, cũng có thể xem như một thứ "gia tài" riêng, "bị" thừa hưởng từ nghiệp của mình mà ai cũng muốn bảo vệ cái "gia tài" ấy, "bám chặt" vào nó, "hãnh diện" vì nó, "ôm khư khư" lấy nó. Vì thế việc tu tập tất nhiên cũng phải phù hợp với cái vô minh của từng người là như vậy.

Chúng ta hãy thử nhìn vào một thí dụ thực tiễn và cụ thể như sau. Một vị thầy thuyết giảng giáo lý cho một đám đông Phật tử đến chùa. Phật tử ngồi lắng nghe thật yên lặng và thành tâm, vị thầy thì thuyết giảng rất hăng say và cũng rất thành tâm, có lúc hùng hồn, có lúc khôi hài, có khi lại rất trịnh trọng và nghiêm trang, nhằm thu hút sự chú tâm của người nghe. Thế nhưng biết đâu vị thầy cũng chỉ lập đi lập lại những gì mình đã thuộc lòng (!). Trong số Phật tử thì chắc hẳn cũng có người nghe và nghĩ thầm là "lanh quanh cũng thế, chẳng có gì mới lạ", hoặc nghĩ rằng vị thầy này giảng không "hấp dẫn" bằng vị hôm trước. Trong khi đó thì cũng lại có kẻ đang nghĩ đến việc sắp phải rước con vì sắp đến giờ tan học, mà vị thầy này lại giảng hăng quá mà chẳng biết đến khi nào mới chấm dứt, người khác thì hơi sốt ruột vì còn phải lo việc chợ búa và trăm chuyện phải làm, v.v. và v.v... Rồi thì buổi giảng cũng chấm dứt, thầy trò đều mừng rỡ, cùng nhau chắp tay hồi hướng công đức để cầu xin cho thế giới này được an bình hơn, hạnh phúc hơn... Các Phật tử ra đến cổng thì vừa chen lấn vừa áp tay vào túi quần vì sợ bị... móc túi, người ăn xin thì quá đông nên chẳng biết phải bố thí cho người nào, xe chạy như mắc cửi, phải nhìn trước trông sau để tránh xe... Trong chùa thì vị thầy vừa giảng xong cũng muốn nghỉ ngơi một tí, vì chiều nay lại phải giảng về đề tài này tại một ngôi chùa khác. Mỗi người trở lại với những sinh hoạt thường nhật của mình và cũng có thể không ai nghĩ đến là sau khi nghe giảng thì mình có cải thiện được phần nào cái vốn liếng trí tuệ của mình hay không?

Vô minh quả thật là phức tạp và đa dạng, do đó việc tu tập nếu muốn thực sự "hữu hiệu" thì cũng đành phải chạy theo sự đa dạng và phức tạp đó. Thế nhưng may mắn thay cứu cánh của Đạo Pháp thì lúc nào cũng chỉ là một: đấy là Trí Tuệ. Dù phải vướng mắc trong bối cảnh hỗn tạp do nghiệp và cơ duyên tạo ra, thế nhưng ta cũng nên luôn cố gắng nhìn xa hơn và sâu hơn trước những biến cố quen thuộc đang xảy ra chung quanh.

Sự chú tâm để quán thấy những thứ ấy càng mạnh, càng thường xuyên và sâu xa, thì trí tuệ của ta cũng theo đó mà ngày càng được phát triển hơn. Tóm lại đấy là cách giúp ta thoát ra những trói buộc thường tình để nhìn xa hơn vào các hiện tượng đang biến động chung quanh và để thấy rõ hơn các xúc cảm và xung năng đang chi phối tâm thức mình hầu giúp mình quán xét, phân tích và tìm hiểu chúng để khám phá ra bản chất đích thật của chúng, nhằm giúp cho mình chọn lấy một thái độ ứng xử thích nghi hơn.

Cách nhìn vào các hiện tượng biến động và bản chất của hiện thực

Cách nhìn như vừa mô tả trên đây gồm có hai khía cạnh hay hai lãnh vực khác nhau: trước hết là cách nhìn vào những hiện tượng đang biến động tức các thể dạng "bên ngoài" hay "ảo giác" của hiện thực, và sau đó là cách nhìn thẳng vào "bản chất đích thật" của hiện thực. Thật ra thì cả hai khía cạnh hay lãnh vực ấy của hiện thực đã được mô tả trong vô số kinh sách và cũng đã được các vị thầy đại diện cho Đạo Pháp thuyết giảng cho chúng ta nghe, thế nhưng chính ta phải tự nhìn thấy nó vì không ai có thể nhìn thấy chúng thay cho ta được. Hai cách nhìn ấy như sau:

- Nhìn vào các hiện tượng biến động của hiện thực

Ta hãy thử tréo chân ngồi xuống, giữ yên lặng và phóng luồng tư tưởng nhìn ra vũ trụ, để hình dung ra địa cầu đang xoay vần chung quanh mặt trời, rồi mặt trời và thái dương hệ thì đang quay cuồng trong thiên hà, và thiên hà lại bắn tung trong vũ trụ... Toàn bộ tất cả những thứ ấy đang chuyển động với một vận tốc khủng khiếp, đấy là cái vận tốc của một vụ nổ lớn trong vũ trụ (Big Bang). Cùng với địa cầu và thiên hà, ta đang bị bắn tung trong không gian... Thế nhưng trước đây vài phút, lúc ta chưa ngồi xuống để hình dung ra vị trí của mình trong cái khoảng không gian mênh mông đó thì ta vẫn có cảm giác bình yên tự tại, vẫn cảm thấy vững chân trên mặt đất và dường như chẳng có việc gì xảy ra: trên đầu ta là bầu trời cao vời vợi với những đám mây trôi êm ả, dưới chân ta là mặt đất vững vàng, và căn nhà của ta được đóng cừ và xây móng chắc chắn. Tóm lại việc ta cứ "bình chân như vại" mà không quán thấy cái chuyển động khủng khiếp đấy là một thứ vô minh rất dễ nhận ra, thế nhưng chỉ vì cứ phải chạy ngược chạy xuôi cho nên ta không nhận thấy cái vô minh đó của mình mà thôi!

Địa cầu là một hạt cực nhỏ xoáy lộn trong không gian, thế mà ta vẫn cố ngước lên để tìm một cái gì cao cả, và nhìn xuống để ý thức ra sự đọa đày. Ta tự đặt mình vào vị trí trung tâm của vũ trụ để tự nhận diện chính mình. Các vị trí dùng để định hướng như trung tâm, bên phải, bên trái, bên trên, bên dưới... không hề mang một ý nghĩa gì cả, đấy chỉ là những điểm chuẩn hoàn toàn mang tính cách tương đối và quy ước. Thế nhưng đối với ta đã gọi là "trên trời" thì nhất định là phải ở trên đỉnh đầu, ta không thể chấp nhận "trên trời" lại cũng có thể là ở... "dưới chân" ta. Một người ở bắc bán cầu thì "trên trời" sẽ có một hướng đối nghịch lại với cái hướng "trên trời"của một người ở nam bán cầu. Ta ngước "lên trên" để tìm kiếm một đấng tối cao, một chốn thiên đường hạnh phúc hay một cõi cực lạc an bình, bất chấp là cái hạt bé tí gọi là địa cầu đó đang bị xoáy lộn "lên phía trên" hay bị tung "xuống phía dưới" trong vũ trụ này. Đấy là một trong số hàng nghìn cách nhìn giúp cho ta nhận thấy cái vô minh của mình trước những biến động chung quanh.

Nếu tiếp tục thu hẹp tầm nhìn để quay trở lại với những gì đang xảy ra chung quanh ta trong giới hạn của quả địa cầu này thì ta cũng sẽ thấy rằng mọi vật thể và hiện tượng nơi cái hành tinh bé nhỏ này cũng biến động không ngừng, từ con người đến vạn vật, từ văn hóa đến chính trị, từ địa dư đến lịch sử và từ những biến cố cổ xưa đến cận đại. Có những khi mùa màng mưa thuận gió hòa thì cũng có những lần mà thiên tai sát hại hàng trăm nghìn người một lúc. Có những đứa bé sinh ra đời thì lại có những người nằm xuống, và trong số những người nằm xuống thì cũng có những đứa bé còn bú mẹ, có những người già nua đau yếu, và cả những người còn trẻ và khoẻ mạnh... Tất cả những hiện tượng ấy trên bình diện "bên ngoài" hiện ra như có vẻ độc lập, được xác định rõ rệt. Thế nhưng nếu ta hiểu rằng một cơn sóng thần giết hại hơn hai trăm nghìn người phải bắt nguồn từ một cuộc địa chấn. Động đất xảy ra là phải có các mảng lục địa trôi dạt trên lớp đá nóng bỏng và chảy lỏng nằm bên trong lớp vỏ của địa cầu, các mảng lục địa va chạm vào nhau, chồm lên nhau, bị dồn nén, bị "gẫy" để tạo ra động đất. Sở dĩ ta không nhận thấy những chuyển động đó là vì chúng xảy ra quá chậm trong khi cuộc sống của ta thì lại quá dồn dập, xảy ra và chấm dứt như một tia chớp. Ngược về quá khứ xa hơn, ta sẽ thấy rằng những biến cố động đất và sóng thần liên hệ đến địa cầu từ lúc hành tinh này còn là một khối lửa đang nguội dần, có những mảng lục địa đang hình thành và đá lỏng vẫn chưa nguội hẳn...



Khi thấy một đứa bé còn bú, ta có thể hình dung ra một người già yếu và bịnh tật sau này. Khi thấy xác chết của một người trọng tuổi, ta có thể hình dung ngược lại hình ảnh một đứa bé khi còn được bồng trên tay mẹ. Từ những biến động vật chất của địa cầu cho đến cái chết của một đứa bé còn bú mẹ, hay cái may mắn của một đứa trẻ được lớn lên để rồi trở thành một cụ già, tất cả đều là những biến động liên tục, chằng chịt và liên đới, tạo ra bởi vô số nguyên nhân. Tóm lại nhận dạng một hình tướng độc lập, tách rời ra khỏi những ràng buộc chằng chịt và những điều kiện dự phần tác tạo ra nó là một cách nhìn vô minh, tức sai lầm, nông cạn và ngây thơ.

Nếu tiếp tục ngồi yên và thu hẹp tầm nhìn hơn nữa thì biết đâu bất chợt ta sẽ trông thấy một con kiến đang bò trên mặt tường trước mặt ta, rồi sau đó thì nó bò ngược lên trần nhà. Ta sẽ hiểu rằng ta không làm được như nó, không thể bước thẳng lên bức tường và đi ngược lên trần nhà được bởi vì thân xác của ta quá nặng và sức hút của địa cầu sẽ làm cho ta rơi xuống. Nếu trước đây ta cảm thấy mình là một hạt bụi trong vũ trụ thì giờ đây ta lại cảm thấy mình là một sinh vật khổng lồ, quá kềnh càng so với con kiến, ta có nhu cầu nhiều hơn, tham lam hơn, quá sức "nặng nề" và không được nhẹ nhàng như con kiến.

Nếu thay thế bảy tỷ người trên hành tinh này bằng bảy tỉ con kiến thì hành tinh này sẽ trở nên an bình hơn, sẽ không có chiến tranh, không có số khí giới khổng lồ như hiện nay. Nhu cầu của bảy tỉ con kiến cũng sẽ vô nghĩa trước sự tham lam vô độ của con người, và số kiến ấy sẽ không làm cho hành tinh này trở nên ô nhiễm và bị tàn phá như hiện nay, các sinh vật không còn sợ con người ngược đãi và ăn thịt chúng nữa. Tóm lại nếu ta nhìn con người là những sáng tạo thông minh nhất, hoàn hảo nhất trong toàn thể vũ trụ này, hay ít ra là trên hành tinh này, thì đấy quả là một cái nhìn vô minh. Người ta có thể cho rằng cách so sánh trên đây mang tính cách tự biện và lạm dụng, điều ấy rất đúng, thế nhưng đấy không phải là một lối lý luận nhằm chứng minh một sự thật nào cả mà chỉ là một cách để làm nổi bật sự lệch lạc khi đánh giá về vị thế của con người trong vũ trụ này cũng như về cái nhìn vô minh của họ đối với chính họ và bối cảnh chung quanh.

Tuy nhiên con kiến vẫn còn quá to, vì nếu đưa cánh tay để nhìn gần hơn nữa thì các khoa học gia sẽ cho ta biết là trong mỗi phân vuông trên da của ta có khoảng 200.000 vi sinh vật sinh sống, nhờ vào hơi ấm, mồ hôi và lớp da chết đào thải làm thực phẩm. Đối với các vi sinh vật ấy thì thân xác ta là cả một vũ trụ vô cùng phức tạp. Khi đưa ra các hình ảnh như trên đây để so sánh thì ta sẽ nhận ra rằng ta vừa là một hạt bụi trong vũ trụ và đồng thời lại cũng là một vũ trụ đối con vi sinh vật trên cánh tay ta, cả hai không có "cái tôi", "cái của tôi" hay "cái ngã" nào cả. Nếu nhìn thấy "cái ngã" của mình và của từng vi sinh vật chia sẻ sự sống chung với mình và gọi đấy là "tôi", thì đấy chính là một cái nhìn vô minh.

- Nhìn vào bản chất đích thật của hiện thực

Bản chất đích thật của hiện thực là: vô thường (anitya/anicca - không kéo dài), khổ đau (duhkha/dukkha - sự bất toại nguyện) và vô ngã (anatman/anatta - tự-nó-không-hiện-hữu). Vô minh là không nhìn thấy được những đặc tính đó của các vật thể. Vậy một cái nhìn sáng suốt không lầm lẫn là thế nào? Kinh sách cho biết cái nhìn ấy phải như thế này:

"Đây là một vật thể, đây là cách thức mà dựa vào đó thì vật thể hiển hiện ra, đây là sự chấm dứt của nó, và đây là cách làm cho nó phải chấm dứt. Nếu nhìn một vật thể xuyên qua quá trình đó thì ta sẽ thấy rằng mọi vật thể tựnó không có một sự hiện hữu thật sự nào cả, không có một sự độc lập nào cả, mà chúng chỉ là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã" (tóm lược dựa vào ý nghĩa của một bản kinh).

Thế nhưng trên thực tế thì chúng ta lại không nhìn thấy bản chất một vật thể đúng như vậy, và điều này khiến cho ta biểu lộ sự yêu quý nó và thèm khát được "có nó", hoặc mong muốn "ghét bỏ nó" để rồi khổ đau khi bị bắt buộc phải nhận chịu sự hiện diện của nó. Nếu đấy không phải là một vật thể mà là một thể dạng hình thành nào đó, thì ta lại muốn được "trở thành như thế" hoặc kinh sợ bị bắt buộc phải "trở thành như thế". Tóm lại vô minh làm phát sinh ra sự thèm khát hay bám víu - tức muốn được chiếm giữ hay ghét bỏ - và ngược lại sự thèm khát hay bám víu ấy lại làm phát sinh ra vô minh. Đấy là cặp bài trùng kềm kẹp chúng ta trong vòng luân hồi và khổ đau.

Hãy nêu lên một thí dụ cụ thể khác, chẳng hạn như sự bám víu vào cái ngã hay là năm thứ cấu hợp - ngũ uẩn - tạo ra một cá thể, tức là thân xác (rupa - sắc), giác cảm (vedana - thụ), sự cảm nhận (samjna - tưởng), tác ý (samskara - hành) và tri thức (vijnana - thức). Ngũ uẩn còn được gọi là "năm thứ cấu hợp của sự chiếm hữu". Tại sao lại gọi đấy là những thứ "chiếm hữu"? Bởi vì ta luôn luôn tìm cách nắm bắt và chiếm giữ cái tổng thể gồm năm thứ cấu hợp luôn luôn biến động và đổi thay ấy mà gọi đấy là "cái ta" "cái ngã" (attman/atta) của ta, đấy là "ta". Từ đó phát sinh ra trong tâm thức của mình cái ảo giác về một thực thể mang tên là cái "tôi", và năm thứ cấu hợp ấy là những cái "của tôi", thuộc riêng tôi. Sự nhận định sai lầm đó gọi là vô minh hay là một sự hiểu biết lầm lẫn. Tóm lại vô minh chính là cách nắm bắt hình ảnh tạm thời của năm thứ cấu hợp vô thường để tác tạo ra ảo giác của một "cái tôi" thực sự. Khắc phục được vô minh có nghĩa là không còn tiếp tục nhìn nhận năm thứ cấu hợp ấy là "cái tôi" nữa.

Chúng ta hãy thử nhìn gần hơn nữa vào cái tổng thể gồm năm thứ ngũ uẩn ấy bằng cách chọn uẩn thứ nhất - tức hình tướng - để quán xét xem sao. Khi phóng nhìn vào cấu hợp hình tướng của một cá thể thì ta gán ngay một số đặc tính nào đó cho cái hình tướng ấy, chẳng hạn như to lớn, béo lùn, cao ráo, trắng trẻo, xinh đẹp, thơm tho, hôi hám, duyên dáng , thô kệch, thanh tú, khả ái, dữ tợn, hiền lành... Thật ra đấy chỉ là những biểu lộ "bên ngoài" của hiện thực, và là những ảo giác do vô minh diễn đạt. Thế nhưng nếu ta vẫn cứ nhất quyết cho rằng cái tổng thể ảo giác đang chuyển động ấy là một thực thể vững bền mang một ý nghĩa nào đó, thì tức khắc sự thèm khát hay ghét bỏ sẽ phát sinh.

Nếu đến thật gần hơn nữa để nhìn thẳng vào chính cái thân xác tượng trưng cho các cấu hợp trên đây thì ta sẽ thấy gì? Cái thân xác đó được Kinh Đại Niệm Xứ (Maha-Satipatthana-Sutta, Trường Bộ Kinh, 22) mô tả là gồm có:

“Tóc, lông, móng chân, móng tay, răng, da;
Thịt, gân, xương, tủy, thận; tim, gan, màng nhầy, thận, phổi;
Ruột, màng treo ruột, bao tử, phẩn, óc ;
Mắt, dung dịch tiêu hóa, mủ, máu, chất dầu, mỡ;
Nước mắt, mồ hôi, nước miếng, nước nhầy, chất nhờn ở các khớp xương, nước tiểu;
Cái tổng hợp đó có chín lỗ, từ các lỗ ấy các chất dơ dáy và kinh tởm chảy ra
không ngừng, chín lỗ ấy là: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng, lỗ tiểu tiện và hậu môn”.
Nếu nhìn vào cấu hợp hình tướng dưới góc cạnh đó thì ta sẽ cảm thấy ít bám víu hơn vào nó bởi vì cách nhìn ấy có vẻ gần với hiện thực hơn, hoặc nói một cách dễ hiểu hơn là tương đối "khách quan" hơn, ít diễn đạt hơn. Tuy nhiên đấy vẫn chưa phải là hiện thực tuyệt đối.

Chúng ta hãy thử trở lại với thí dụ nêu lên trên đây về mối liên quan giữa ta, vũ trụ và con vi sinh vật sống bám vào lớp da của ta. Ta là cả một vũ trụ đối với nó, thế nhưng đối với địa cầu thì ta lại chỉ là một hạt bụi, và so sánh với vũ trụ thì cả địa cầu lại cũng chỉ là một hạt bụi nhỏ bé. Tất cả đều là tương đối. Vì mang tính cách tương đối nên con vi sinh vật ấy không có cái ngã, ta không có cái ngã, địa cầu không có cái ngã, mà cả vũ trụ cũng không có cái ngã. Vô ngã là một đặc tính tuyệt đối của hiện thực. Nếu so sánh khái niệm vô ngã và khái niệm tánh không thì chúng ta sẽ hiểu ngay rằng chính vô ngã là tánh không, và tánh không có khả năng chứa đựng từ một sinh vật nhỏ bé cho đến cả vũ trụ này.

Sự thực tuyệt đối vượt lên trên mọi khái niệm quy ước, đối nghịch và nhị nguyên, vượt lên trên cả "cái xấu" và "cái tốt", "cái đúng" và "cái sai"..., có nghĩa đấy là tất cả mọi tạo dựng của tâm thức. Nếu cái nhìn của ta còn vướng mắc trong sự thực tương đối thì cái nhìn ấy gọi là cái nhìn vô minh, và cái nhìn ấy tất sẽ mang lại khổ đau. Cái xấu hay cái tốt đều mang lại khổ đau, cái xấu mang lại các hậu quả tồi tệ, thế nhưng cái tốt cũng mang lại những khổ đau tương quan với cái tốt. Dầu sao cũng xin mở một dấu ngoặc ở đây để minh chứng là cách diễn đạt ấy không phải là một cách khuyến khích không làm điều thiện, mà chỉ muốn nêu lên là sự "thèm khát" được làm điều tốt cũng là một thứ khổ đau vì chính trong "cái tốt" cũng hàm chứa những khổ đau thật tinh tế và khó nắm bắt cho tất cả mọi người. Ước mơ được làm công an phường để cải thiện ngày hai bữa cho vợ con hay được làm tổng thống da màu [vàng] quản lý một quốc gia cường thịnh nhất hành tinh này cũng đều là khổ đau. Làm đại diện cho Thượng Đế mà mỗi khi ra đường lại phải chui vào cái lồng kính súng bắn không thủng thì cũng không được thoải mái gì cho lắm. Ta sinh ra con cái, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng, để rồi đến khi lớn khôn thì chúng lại quay ra chế nhạo và khinh thường ta thì làm thế nào mà ta có thể cảm thấy hạnh phúc được. Sáng tạo thì cũng sẽ phải khổ đau với sự sáng tạo của mình là như thế.

Chỉ có sự quán thấy bản chất tuyệt đối của hiện thực, tức một cái nhìn vượt thoát khỏi vô minh mới có thể giúp ta không bám víu vào những biểu hiện ảo giác của hiện thực nữa, tức có nghĩa là hiểu được rằng không có bất cứ một thứ gì hay một vật thể nào đáng để cho ta "có nó" hay "trở thành như thế". Sự hiểu biết ấy chính là sự Giải Thoát.

Kinh Aggi-Vacchagotta-Sutta (Majjhima-Nikaya, 72, PTS, 483-489) có ghi lại những lời Đức Phật giải đáp cho câu hỏi của một người tu khổ hạnh là Vacchagotta liên quan đến hình tướng, tức thân xác của Ngài như sau:

"Này Vaccha, không thể hình dung ra hình tướng vật chất của Như Lai vì Như Lai đã rứt bỏ nó đi rồi. Nó bị gạt ra một bên, nhổ bỏ tận rễ, khiến nó giống như một gốc cây dừa [đã mất rễ] không còn mọc lại được. Này Vaccha, Như Lai không nhìn và không tự nhận dạng mình xuyên qua cái thể xác bằng hình tướng đó nữa. Chính vì thế, nên cái thể xác hình tướng đó trở nên sâu thẳm, không thăm dò được, mênh mông như đại dương".

Đức Phật dùng cách giải thích tương tự như trên đây để tiếp tục giảng cho Vacchagotta về các cấu hợp khác là: giác cảm, sự cảm nhận, tác ý và trí thức (consciousness) của Ngài. Nhằm mục đích rút ngắn nên chúng ta hãy cùng xem câu giảng liên quan đến tri thức như sau:

"Này Vaccha, không thể hình dung ra tri thức của Như Lai. Cái tri thức ấy Như Lai đã rứt bỏ đi rồi. Nó bị gạt ra một bên, nhổ bỏ tận rễ, khiến nó giống như một gốc cây dừa [đã mất rễ] không còn mọc lại được. Như Lai không nhìn và không tự nhận dạng mình qua cái tri thức đó nữa. Vì thế, nên cái tri thức ấy sâu thẳm, không thăm dò được, mênh mông như đại dương".

Đức Phật không nhận dạng mình xuyên qua năm thứ cấu hợp tức là ngũ uẩn nữa, vì sự lệ thuộc và biến động không ngừng của chúng chỉ có thể tạo ra được ảo giác mà thôi. Xem ảo giác là thật, chính là vô minh. Đức Phật không hề xác nhận mình biến mất hay nhập vào cõi hư vô mà chỉ tự nhận mình là "Như Lai", tức có nghĩa là "Như Thế" (Ainsité/Suchness), "không từ đâu đến cả" và cũng "chẳng đi về đâu cả", mà chỉ là một "Người đạt được cái thể dạng tự nhiên là như thế".

Gạt bỏ mọi ảo giác là để nhìn thấy bản chất trống không của hiện thực, và cái bản chất ấy không phải là hư vô. Gạt bỏ mọi ảo giác cũng không phải là xóa bỏ hiện thực mà đấy chỉ là một cách "dừng lại" với hiện thực, một sự đình chỉ (nirodha - cessation) để "hòa mình" với hiện thực. Cái tánh không của hiện thực tượng trưng bởi sự đình chỉ thật ra đầy ắp và "thật sâu thẳm, không thăm dò được, mênh mông như đại dương".

Bures-Sur-Yvette,
(Hoang Phong)
(Source:Thư viện Hoa Sen)