Mới đó đã mùa Thu. Ngoài đường đã bày bán bí đỏ bí ngô, hoa cúc, đủ loại, đủ màu đủ sắc. Tuần rồi, có vợ chồng đứa em quen ở VN qua FL, ghé thăm. Thấy mấy chậu cúc "mâm xôi" ở nhà mình, hỏi thăm chưa tới Tết sao cúc đã trổ hết rồi ? Bên này cúc nở vào mùa Thu, chứ không phải mùa Xuân như ở VN. Mỗi nơi xuân về sẽ có những loài hoa trái khác nhau. Cho nên nếu hồi đó 3 ông Trịnh, Lâm, Ngân, mà ở Tây ở Mỹ thì bây giờ không có câu ca bất hủ " Mẹ ơi, hoa cúc hoa mai nở rồi". Tuỳ duyên là vậy :-).
Tán gẫu chuyện thời sự bên Mỹ cũng vậy, ông tổng thống hiện tại lên ngôi cũng được chục tháng rồi, chưa kể là trước đây ông cũng từng làm qua 4 năm tt nữa. Nên ít nhiều thì người ta cũng được nhìn thấy người thật việc thật, cảm nhận, hiểu biết thêm về tài năng lãnh đạo, và đạo đức tư cách của con người ông. Mình không muốn bàn đến chuyện tốt xấu, đúng sai ở đây, bởi mỗi người đều có tư duy, hiểu biết, và cái nhìn riêng biệt để suy luận. Ai cũng có quyền diễn đạt tư tưởng cá nhân, ai cũng có quyền chọn lựa đức tin cho riêng mình, và ai cũng cần có trách nhiệm với bản thân về sự chọn lựa của họ. Có điều mình tưởng rằng trong cuộc sống hàng ngày, một khi thiên hạ thấy biết một điều gì đó rõ ràng hơn, thì họ sẽ ít tranh cãi hơn. Giống như đã được thấy con voi rồi, thì không cần tranh cãi với nhau bộ phận nào to nhất nữa. Thế nhưng thực tế không phải vậy, nhìn lại cuộc sống chung quanh, những cuộc tranh cãi vẫn còn cứ tiếp diễn, sôi nổi và nóng bỏng. Tin thật tin giả, chính thống, nổi trôi, nửa gà nửa vịt, vẫn cứ đầy rẫy khắp nơi, trên mạng, quán cafe, quán nhậu, vũ trường, và ... quốc hội :-) .
Đôi khi mình cũng thắc mắc, cuối cùng thì con người thực sự tìm kiếm điều gì, và tìm ở đâu ?
Có một nghịch lý tồn tại trong đời sống nhận thức của con người, đó là ai cũng nói rằng mình yêu chân lý, nhưng khi sự thật hiện ra, không phải ai cũng đủ can đảm để đối diện với nó. Bởi lẽ, con người thường không tìm kiếm sự thật, mà chỉ tìm kiếm điều gì khiến họ cảm thấy dễ chịu, an toàn, hoặc phù hợp với niềm tin sẵn có của mình.
Trong sâu thẳm tâm lý, mỗi người đều có một “bản đồ” về thế giới, một hệ thống niềm tin, định kiến, và kinh nghiệm được tích lũy qua thời gian. Khi đứng trước một thông tin hay hiện tượng mới, người ta thường vô thức so sánh nó với "bản đồ" ấy. Nếu nó khớp, ta dễ dàng chấp nhận; nếu nó trái ngược, ta lập tức phản bác, thậm chí né tránh. Chính điều đó tạo nên hiện tượng mà các nhà tâm lý học gọi là “thiên kiến xác nhận”. Con người có xu hướng chỉ tin những gì củng cố cho quan điểm của mình, thay vì thử thách nó bằng sự thật.
Nhìn quanh đời sống xã hội, ta thấy điều này diễn ra ở khắp nơi. Trong các cuộc tranh luận, người ta không lắng nghe để hiểu, mà lắng nghe để phản biện. Trong việc học hỏi, nhiều người chỉ chọn đọc những gì mình đã tin, và gạt bỏ những gì khiến mình phải suy nghĩ lại. Thậm chí trong tôn giáo, khoa học hay chính trị, sự thật đôi khi không phải là điều được tôn vinh cao nhất, mà là một "phiên bản của sự thật" phù hợp với số đông, với quyền lực, với "dao to búa lớn", hoặc với cảm xúc của con người.
Thế nhưng, sự thật thì không cần ai tin để trở thành sự thật. Nó tồn tại độc lập với niềm tin của chúng ta. Sự trưởng thành trong nhận thức bắt đầu khi con người dám đặt câu hỏi cho chính mình như : Điều ta đang tin có thật là đúng không ? hay ta chỉ tin vì nó khiến ta thấy dễ chịu? hay ta tin vì bạn bè ta tin như vậy ? hay ta tin vì ông giáo sư tiến sĩ kia nói vậy ? hay ta tin vì ông sếp ta cũng tin như vậy? hay ta tin chỉ vì quyền lợi? hay ta tin chỉ vì muốn chứng tỏ ..v.v..và ..v.v.
Thông thường người trí tuệ không tìm sự dễ chịu, mà tìm sự thật, dù đôi khi nó cay đắng, cô độc, hoặc khiến họ phải từ bỏ những điều đã từng nâng đỡ hoặc đem lại quyền lợi cho họ trước đây. Đức Phật cũng từng dạy rằng: “Đừng tin vì nghe truyền lại, vì thấy hợp lý, hay vì người đáng kính nói ra. Hãy tự mình quán chiếu để thấy đó là sự thật.” Câu nói ấy không chỉ là lời khuyên cho người tu hành, mà cho mọi ai muốn sống thật với chính mình. Bởi chỉ khi ta dám nhìn thẳng, vượt qua cái tôi và định kiến, ta mới có thể chạm đến điều chân thật trong thế giới, và trong chính lòng mình.
Carl Jung, một nhà tâm lý học nổi tiếng của thế giới, cho rằng sự thật không nằm ở một hệ thống tri thức tuyệt đối bên ngoài, mà ở sự đối diện trung thực với chính vô thức của con người. Ông nói con người không thật sự “tìm kiếm sự thật”, mà chỉ đi tìm những hình ảnh giúp họ duy trì cảm giác an toàn trong tâm hồn. Phần lớn chúng ta sống trong thế giới của ảo tưởng bản ngã (ego), tự cho rằng mình hiểu biết, trong khi những động lực sâu xa của hành vi lại nằm trong vô thức tập thể (collective unconscious), nơi chứa các biểu tượng, nguyên mẫu và bản năng nguyên thủy.
Với Jung, “sự thật” không chỉ là điều được lý trí công nhận, mà là sự hòa hợp giữa ý thức và vô thức, giữa cái mà ta tin và cái mà ta sợ. Con người chỉ thực sự chạm đến chân lý khi dám đối diện với “bóng tối” của mình, tức phần tâm lý bị che giấu, bị chối bỏ, và dung hòa nó vào cái toàn thể. Ông từng nói: “Con người không được soi sáng bằng cách tưởng tượng ra ánh sáng, mà bằng cách làm cho bóng tối trở nên có ý thức.” Vì thế, với Jung, sự thật không phải là điều ta tìm thấy bằng tri thức, mà là điều ta trở thành khi dám nhìn sâu vào chính mình.
Từ xa xưa đến nay, trong cuộc sống hàng ngày luôn có những dị biệt, từ chuyện to đến chuyện nhỏ, từ thế giới quan cho đến nguyên tắc sống. Nguyên nhân không phải chỉ dừng lại ở sự khác biệt về trình độ, kiến thức, tôn giáo, hoàn cảnh ..... Mà thực chất là ở cái nhìn phiếm diện và cách hiểu chủ quan của từng người. Ví dụ như những năm gần đây, quan sát hiện tượng phân hoá và xung đột mâu thuẩn chính trị ở những nước dân chủ văn minh như Mỹ khiến người ta ngao ngán và thất vọng. Có lúc băn khoăn không biết ai nói đúng ai nói sai, hay là cả các bên đều nói dối, hay mạnh ai nấy hiểu, hiểu sai sự thật từ một vấn đề chung. Rồi dẫn đến bên nói gà, bên nói vịt, ai cũng cho mình tài, mình đúng :-) ? Thực ra cái căn bệnh "ta luôn đúng" này, thì vô cùng khó trị. Đó là căn bịnh ung thư đã di căn của nhân loại, không chừa một ai !
Theo thiển ý của mình, sự thật không bao giờ thuộc về kẻ cố bảo vệ quan điểm, mà thuộc về người đủ khiêm nhường để lắng nghe, đủ can đảm để thay đổi. Cho nên một số người thực hành sống tỉnh thức (mindfulness) thường cho rằng - chân lý không nằm trong sự khẳng định, mà nằm trong sự thức tỉnh !
Viết tới đây, bỗng nhớ đến một người, đó là Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (xin lưu ý, cái danh Thượng Sĩ này hình như là do vua Trần Thánh Tông kính trọng gọi Ngài, chứ không phải giống danh xưng "vô thượng sư" nghen :-). Nôm na, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (TTTS) là anh ruột của Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Ngài cũng vừa là bác họ, vừa là cậu, vừa là Thầy của Phật hoàng Trần Nhân Tông (người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm của VN sau này).
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia, từng là một danh tướng, không xuống tóc quy y, không sống theo thân phận hoàng tộc, mà chọn con đường hòa mình vào đời sống bình dị, gần gũi với dân gian, nhất là với những người dân chài ven biển. Ở giữa đời thường, Ngài vẫn sống một cách tự tại, thong dong, dùng trí tuệ và tâm từ để chỉ dạy cho người đời. Chính vì vậy, nhiều người xem Ngài là một bậc giác ngộ giữa cõi nhân gian, người đã chứng đạo mà vẫn không rời thế tục.
Vua Trần Thánh Tông, vốn am hiểu sâu sắc giáo lý Phật giáo và hết sức cẩn trọng trong việc giáo dục con cái, rất kính trọng Tuệ Trung Thượng Sĩ. Chính nhà vua đã giao phó việc chỉ dạy thái tử Trần Nhân Tông cho Ngài, vị thầy vừa là người thân trong hoàng tộc, vừa là bậc đắc đạo giác ngộ, không màng danh lợi. Nhờ được dẫn dắt từ thuở nhỏ trong tinh thần ấy, sau này Trần Nhân Tông mới có thể vừa là một minh quân, vừa là một thiền sư khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo và đời.
Đến ngày nay, nhiều bậc thiền sư hiện đại như Thích Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ... vẫn thường trích giảng các bài pháp kệ trong “Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục”, xem đó là những viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng Thiền học Việt Nam. Không chỉ là những lời dạy về đạo, mà trong đó còn phản chiếu tinh thần nhân văn, trí tuệ và lòng từ bi của người Việt thời Trần, thời đại mà Phật pháp, văn hóa, và lòng yêu nước hòa quyện làm một.
Thời kỳ ấy không chỉ có những pháp thoại và thiền kệ sâu xa, mà còn đầy ắp những câu chuyện về lòng dũng cảm, sự hy sinh, tình yêu, và khí phách ngút trời của một dân tộc nhỏ bé ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông, đế quốc hùng mạnh từng chinh phục cả Á – Âu.
Điều đáng tiếc là cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một tác phẩm văn chương hay điện ảnh thật xứng tầm để tái hiện trọn vẹn vẻ đẹp tinh thần của thời đại huy hoàng ấy, thời của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Hưng Đạo, và Trần Nhân Tông... Trong khi đó, trên các kênh truyền hình đại chúng, phim dã sử và anh hùng giả tưởng của Trung Quốc, Hàn Quốc lại tràn ngập, khiến khán thính giả VN càng thêm khát khao được nhìn thấy hào khí Đông A của chính dân tộc mình được sống dậy trên màn ảnh.
Trở lại chuyện hành trình đi tìm "sự thật", Tuệ Trung Thượng Sĩ từng dạy:
“Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.”
(Tạm dịch: Hãy soi lại chính mình, đó là việc lớn lao nhất đời người, đừng mong ai khác chỉ cho mình thấy sự thật.)
Sự thật vốn không xa. Nó nằm ngay trong từng hơi thở, từng ý nghĩ, từng hành động. Nhưng bởi con người ưa tìm kiếm ở ngoài, nên càng tìm càng xa. Ta đọc sách, nghe giảng, chất chứa tri thức… mà ít khi dừng lại để lắng nghe sự thật trong chính tâm mình. Cái "biết" càng nhiều, thì cái "thấy" lại càng bị che lấp. Càng cố chứng minh rằng mình đúng, ta càng đánh mất khả năng nhìn thấy điều đang là !
Có nhiều người cho rằng những bậc trí tuệ không sợ sự thật, vì họ hiểu rằng sự thật không đến để làm tổn thương, mà để giải thoát. Còn những kẻ chấp ngã thì sợ, vì sợ mất đi cái khung hiểu biết quen thuộc, sợ rằng nếu một ngày nhận ra mình sai, thì mình là ai? Nhưng chính khoảnh khắc ta chịu buông cái sai ấy, cũng là lúc chân tâm bừng sáng, như mây tan để mặt trời hiển lộ. Ngài TTTS cũng từng dạy cho vua Trần Nhân Tông “Phật là tâm ông, ngoài tâm không có Phật. Tìm sự thật cũng vậy, ngoài tâm không có sự thật. Nếu tâm ta bị khuấy động bởi ưa ghét, thương giận, thì sự thật liền bị nhuộm màu theo cảm xúc ấy. Khi tâm lặng, sự thật tự hiển. Không cần tìm, cũng chẳng cần hiểu, chỉ cần thấy."
Nhớ ngày xưa, mình đã từng đọc những phần này. Đọc tới đọc lui, rồi nghi ngờ tự hỏi: Chân lý cao siêu lại có thể đơn giản đến thế sao?
Giờ thì đã lang bạt tha phương mấy chục năm, lăn lộn với cơm áo gạo tiền, tiêu nhiều hơn muối (mà cũng có lúc muối nhiều hơn tiêu 😊). Quay trở lại, cũng đọc những chuyện ngày xưa ấy, lại thấy… không còn gì để nghi ngờ nữa.
Thế nhưng, lâu lâu mở YouTube, xem TV, nghe tin vịt, thấy người ta cãi lộn lung tung, vu khống, chụp mũ bên nọ bên kia trên mạng … thì tâm vẫn chưa thể "lặng" được. Rồi tự nhủ - Có lẽ con người thường đi tìm điều mình muốn nghe, chứ không tìm điều mình cần thấy. Mà chân lý sự thật thì vốn không sinh ra để làm vừa ý ai. Nó chỉ chờ một tâm hồn đủ tĩnh lặng để lắng nghe, đủ can đảm để buông bỏ cái biết cũ, và đủ khiêm nhường để nói là ... tôi chưa biết :-).
Thực tế thì đến một lúc nào đó, trí óc ai cũng trở nên già nua. Quy luật sinh, lão, bệnh, tử của vạn vật, chẳng ai tránh khỏi. Mình cũng vậy, có những lúc nhớ được một điều gì đó rất hay, nhưng lại không nhớ là đã từng đọc ở đâu, hay nghe ai giảng dạy. Ráng lục lọi ký ức mãi, không hình dung được, rồi lại bật cười: “Nhớ chi cho mệt. Ai nói thì cũng vậy thôi. Ông Phật, ông Chúa, ông xe ôm, ông vô gia cư, ông sư thầy, bà tiến sĩ giáo sư, hay một kẻ nghèo hèn khốn khổ nói, thì có gì khác nhau đâu ? Thực tế thì ai cũng có thể dạy mình !"
Quả nhiên là vậy, bằng cấp, vật chất, hay địa vị xã hội không bảo đảm được một trí tuệ (wisdom) thực sự, nhất là trong hành trình kiếm tìm sự thật của bản thân. Nhớ mang máng có ai đó đã từng dạy rằng: “Tìm kiếm sự thật không phải là gom nhặt thêm hiểu biết, mà là gột bỏ những lớp hiểu biết sai. Tu không phải là chạy ra ngoài tìm Phật, mà là trở về soi sáng tự tâm. Tu cũng không phải để trở thành, mà là để trở về. Một người có thể học cả ngàn kinh điển, mà vẫn chưa bước được một bước trên đường giác ngộ. Nhưng khi tâm đã an nhiên, lời và ý đều rơi rụng, thấy vạn vật như nó đang là, thì chỉ còn lại sự sáng biết (tánh biết) lặng lẽ. Lúc ấy, sự thật không còn là điều phải tìm, mà chính là ta đang sống trong nó, như con cá bơi trong nước, đâu cần hỏi nước ở đâu.”
Và mỗi lúc nhớ đến những lời dạy đó, mình thường nghĩ rằng - Đấy, chuyện chỉ đơn giản như vậy thôi, mà cả mấy ngàn năm qua, bao nhiêu kinh sách, bao nhiêu tông phái, bao nhiêu ông này bà nọ ...vẫn loay hoay đi tìm sự thật chưa ra, huống chi là kẻ phàm phu tục tử như mình :-). Mà quả nhiên là sự thật chưa từng ở đâu xa, chỉ vì ta không chịu nhìn vào chính mình, mà chỉ mải mê tìm kiếm hoặc chờ đợi từ nơi khác !
Và cũng biết đâu, trong câu chuyện Nỏ Thần của An Dương Vương – Triệu Đà ngày xưa, khi cụ Rùa Vàng (Thần Kim Quy) nói “Kẻ thù đang ở ngay sau lưng nhà ngươi", đó không chỉ là lời cảnh báo cho một vị vua, mà còn là thông điệp gửi lại cho hậu thế.
Bởi kẻ thù thật sự của con người không phải lúc nào cũng mang gươm giáo hay mưu mô, mà chính là những ảo giác, vọng tưởng và chấp niệm ta mang theo trong chiếc ba lô của hành trình cuộc đời mình. Chứ cũng chẳng phải lúc nào cũng có Trọng Thủy hay Mỵ Châu nào đó đâu. Chỉ có ta, với chính những bóng hình trong tâm tưởng mình. Tự biên tự diễn, vừa là người lữ hành, vừa là kẻ tự giăng bẫy rãi đinh trên đường đi 😊.
Thôi, lan man chút cho vui. Giờ đến lúc dọn vườn quét lá rồi. Chúc quý bằng hữu một cuối tuần an vui, hạnh phúc và tĩnh tại .
PN
10/2025
Cái khó nhất là tự hiểu mình. Sau đó mới hiểu người. Mà nhiều lúc cũng không cần hiểu..
ReplyDeleteDạ đúng !
ReplyDelete