Showing posts with label Chuyện quê người. Show all posts
Showing posts with label Chuyện quê người. Show all posts

Sunday, April 12, 2020

Những tiếng vỗ tay mùa đại dịch Vũ Hán




Hôm nay ngày lễ Easter (Phục Sinh). Hàng năm vào tuần này, nhiều nơi, nhiều khu phố, nhà thờ, hội đoàn ... tổ chức các trò chơi cho các em bé, ca hát nhảy múa vui chơi. Gia đình, bạn bè, sẽ có những buổi hội họp ăn uống, để chào mừng không khí mùa xuân bắt đầu. Nhưng năm nay thì không, không hội hè đình đám, không bạn bè thân hữu tập trung. Nhiều nhà thờ cũng không tổ chức hội họp. Đức Giáo hoàng Francis cũng làm lễ Thánh trong giáo đường St. Peter's Basilica lặng lẽ.

Tuy nhiên, những khoảng cách không gian, những social distancing trước đại dịch Vũ Hán đã không làm cho con người quên đi những khoảng lặng của tình người, lòng tri ân cuộc sống, và những giá trị nhân bản cần thiết của xã hội. Chiều nay 6g, nhiều người dưới thành phố mình đang sống, hẹn nhau cùng mở cửa vỗ tay tri ân những người y tá, bác sĩ, cảnh sát, nhân viên y tế xã hội ....v.v...đã không sợ nguy hiểm làm việc ở tuyến đầu chống dịch Vũ Hán. Trên thế giới, mấy tuần qua, nhiều quốc gia, nhiều địa phương, cũng đã làm như thế để tri ân, để tạ ơn, để cổ vũ những người "thiên thần áo trắng" ngày đêm chống dịch cứu người. Nhiều nơi, các nhà hàng, các khu phố còn đem những thức ăn thức uống, hoặc các dụng cụ bảo hộ trao tặng cho đội ngũ nhân viên ý tế coi như thay lời cảm tạ. Mình rất xúc động và trân trọng những ứng xử nhân văn như thế.

Nghĩ đến đôi lần mình coi tin tức bên VN, thấy các "đại gia" hay "đại ca anh chị" gì đấy, hoặc thành phần bất hảo ... vào tận bệnh viện chửi chém bác sĩ y tá, mà rùng mình ghê sợ. Dĩ nhiên là cũng có những người bác sĩ y tá tắc trách trong công việc hoặc tranh thủ cơ hội lợi dụng, chứ không thể hoàn hảo tuyệt đối được. Nhưng một nền giáo dục mà dẫn đến tình trạng đánh thầy cô, cướp sư sãi, chém thầy thuốc ... .v.v...thì có nhiều thứ phải đáng suy gẫm lại.

Những người thầy thuốc, đội ngũ y tá bác sĩ, trong xã hội nào cũng đáng được tôn trọng. Bởi nếu họ nhỏ nhen, đố kỵ, phân biệt chính trị, sang hèn, sướng khổ, màu da, chủng tộc ... thì xã hội này đã loạn từ lâu rồi. (Tất nhiên là ở đâu và thời nào cũng có những cá nhân lợi dụng cái nhãn mác bác sĩ, y tá, lương y, để làm những chuyện sai trái. Nhưng đó chỉ là thiểu số, và chuyện nên lưu ý nhận xét & phân tích để đề phòng luôn là cần thiết).

Xin mạn phép nhắc lại một ký ức tuổi thơ của mình. Thời mình còn nhỏ, Má mình làm y tá, trông coi một Trạm Xá ở một vùng chiến tranh ác liệt, "ngày quốc gia đêm cọng sản". Nhiều lúc nửa đêm, mờ sáng, cũng phải đi băng bó cứu thương cho đồng bào hay binh lính. Có đêm hoả châu, đại bác vang rần, Má đi mà cả nhà thấp thỏm đợi chờ lo lắng. Thời đó chiến tranh ngày càng khốc liệt, quanh vùng quê mình, cứ đêm về, bom mìn bẫy gài giăng đầy, đến sáng mới được gỡ. Hên xui may rủi, sống chết khó lường, nhưng rồi may mắn mọi chuyện cũng qua. Chiến tranh nào cũng tàn nhẫn, và người dân luôn là kẻ bị thiệt thòi.
Nhớ nhiều lần mình đi theo Má trong những đợt phát thuốc sốt rét hay chích ngừa cho đồng bào ở miền núi, vùng sâu vùng xa, bán an ninh. Có khi có cả lính Mỹ đi theo, để bảo vệ nhân viên Hội chữ thập đỏ, tổ chức Y tế thế giới v.v... Ai cũng biết là trong số những người dân đen đó có cả những người cán bộ, du kích, kháng chiến quân. Nhưng đã làm ngành nghề này thì thấy ai chết cũng phải cứu. Cuộc sống ở vùng "bán an ninh" đều như thế, không thể biết ai là ai, nhưng người dân nào bịnh cũng phải được cứu chữa. Người dân nào cũng được quyền chăm sóc, phải được chích ngừa phát thuốc bình đẳng như nhau. Má mình cũng như bao nhiêu người làm công việc y tế cứu thương khác ở vùng chiến tranh, cho dù cận kề cái chết, đi sớm về khuya, cũng phải làm nghĩa vụ của mình. Cũng giống như những người y tá bác sĩ ngày nay, bất kể là gốc đen trắng vàng đỏ, giàu nghèo sang hèn, ai cũng phải được cứu trị. Thâm chí nhiều vị bác sĩ y tá chấp nhận rủi ro lây nhiễm, sống chết để cứu người khác, cũng là chuyện bổn phận bình thường mỗi ngày.
Nói đến đây, nhớ lại thời 1975, có mấy ông cán bộ địa phương đến kêu Má mình phải đi học tập cải tạo vì từng làm việc cho "Mỹ Nguỵ". Vừa buồn cười vừa xót xa !

Nhưng đó là chuyện đã xa rồi. Thời này, chắc chắn ai cũng văn minh hơn, nhân bản hơn. Xin hãy tri ân những người thầy thuốc ngày đêm tuyến đầu chống dịch bệnh cứu người. Nếu không có gì quý tặng nhau, không vỗ tay cổ vũ nhau, thì ít ra cũng xin đừng chửi chém nhau !

Cầu mong bệnh dịch Vũ Hán sớm qua. Chúc mọi người an lành. Và trân trọng ghi ơn những vị anh hùng áo trắng đã hy sinh cứu người trong cơn đại dịch khủng khiếp này.

Dưới đây là chương trình Hát cho Hy vọng của Andrea Bocelli, trình diễn hôm nay.
(Andrea Bocelli: Music For Hope - Live From Duomo di Milano)


Friday, March 20, 2020

Tia sáng cuối đường hầm



Hôm qua, Mark Zuckerberg (Facebook) đã có một cuộc phỏng vấn khá chi tiết với Dr. Anthony Fauci - người hiện nay được cho là chuyên gia bậc nhất về các dịch bệnh do virus gây ra. Nếu quý vị nào nghe được tiếng Anh, nên nghe. 

https://www.usatoday.com/story/tech/2020/03/19/mark-zuckerberg-facebook-anthony-fauci-coronavirus-covid-19/2881623001/

Nhiều vấn đề được đưa ra nhưng đa phần liên quan đến nước Mỹ. Riêng về dịch Vũ Hán đại khái có những điểm cần lưu ý như sau:

- Hiện tại thuốc ngừa (vaccin) của bịnh covid-19 đã tiêm chủng vào 45 người thiện nguyện tại Mỹ . Tuy nhiên theo BS. Fauci, sau vài tháng sẽ là đợt thử 2 trên diện rộng nếu có phản ứng tốt . Đó là quy định an toàn bắt buộc, nên sớm nhất để có vaccin cho dịch cúm Vũ Hán phải trên 1 năm . Ông cho rằng từ năm 2002 đến nay đã có mấy lần dịch coronavirus (SARs, MERs ...), nên ông nghĩ hợp lý hơn là nghiên cứu và sản xuất vaccin cho tất cả các chủng Corona thay vì chỉ tập trung vào COV-19. Vì nếu không, sẽ tiếp tục còn các chủng corona mới trong tương lai .

- Do vậy, nên giải pháp thay thế là tìm kiếm các loại thuốc đã có sẵn ngoài thị trường, hoặc sắp hoàn chỉnh, để xài cho tình hình hiện nay. Như thế sẽ nhanh hơn và giải quyết được tình trạng cấp bách. Ông có nhắc đến một số tên thuốc, trong đó có chủng loại chống sốt rét đã được sử dụng bao nhiêu năm nay, là ký ninh thần thánh .....

- Nói về các chủng loại thuốc ký-ninh thì VN ta quá quen thuộc rồi. Từ thời chiến tranh, nằm rừng chống muỗi, hoặc dân cư vùng quê vùng sâu vùng xa ....nhiều người đã từng nếm qua. Đến thời bình, hết sốt rét, dư đủ rủng rỉnh, thì lại xài ký-ninh để pha chế cafe, tẩm thực phẩm, nấu bánh ..... cho đậm đà hương vị, đẹp mắt, lâu hư ..v.v.. Gần gũi & quen thuộc.

- Một lưu ý rất đáng quan tâm, BS Fauci từng nhắc đi nhắc lại nhiều lần ở các cuộc họp báo khác là : Giới trẻ (U30) sẽ rất ít bị ảnh hưởng bởi virus Vũ Hán. (Có thể bị nhiễm bệnh nhưng lướt qua được, và không có triệu chứng nguy hiểm bên ngoài) . Cũng bởi thế nên nhiều người trẻ không biềt mình nhiễm bệnh . Tuy nhiên họ vẫn là nguồn gây bệnh cho kẻ khác nguy hiểm nhất, nhất là với những người lớn tuổi và có tiền sử bệnh tật . Nên ông kêu gọi giới trẻ nên hiểu biết và giữ gìn cho người khác, cách ly để đừng phát tán cơn bịnh này )

- Còn nói đến yêu cầu thử nghiệm và điều kiện để chấp thuận một loại thuốc mới ở Mỹ thì rất là khắt khe, nên lúc nào cũng đòi hỏi những quy trình thử nghiệm (clinical trials) cẩn thận chi tiết. Đây là một chính sách và phương thức rất tốt, tôn trọng giá trị sinh mạng con người. Nhưng có thể là một yếu điểm trong những tình hình cấp bách như hiện nay. (Cho dù tổng thống Trump rất ủng hộ giải pháp thay thế này). Tuy nhiên, ở các nước châu Âu thì quy trình thử nghiệm dễ dàng hơn. Mấy hôm nay bên Pháp đã thử nghiệm lâm sàng phương thức dùng ký ninh kết hợp, rất hiệu quả & thành công. Mỹ cũng đang thử nghiệm áp dụng chloroquine (một chủng ký ninh dạng viên) để trị cúm Vũ Hán. Dĩ nhiên đây chỉ là giải pháp thay thế tạm thời, không phải trường hợp nào cũng ứng dụng được. Và ký ninh cũng không phải là thuốc dành để trị cúm, nhưng có còn hơn không, có còn hơn không .... Chỉ là một giải pháp tạm thời trong khi chờ đợi những điều tốt hơn xảy ra như vaccin chẳng hạn, nên sẽ không hứa hẹn sự hoàn hảo nhất. Mọi người không nên sử dụng tùy tiện các loại thuốc chống sốt rét này vì các phản ứng phụ rất nguy hiểm, phải cần có sự chỉ định của bác sĩ. Nhưng nói chung cũng là tin vui và là ánh sáng cuối đường hầm cho nhân loại lúc này.

(Mà nói tới đây, mình phải thành thật cảm phục những vị lãnh đạo của Mỹ, các vị thống đốc tiểu bang & tổng thống Mỹ. Ngày nào cũng xuất hiện trên TV để cập nhật thông tin chính xác và tìm các giải pháp hổ trợ cho người dân. Từ đề xuất giải pháp cho đến các gói hổ trợ, đến họp báo với các cơ quan ban ngành, quốc hội, CDC (cơ quan kiểm soát dịch tể), FEMA (cơ quan giải quyết tình trạng khẩn cấp), SBA (doanh thương nhỏ), Bộ tài chánh, Cơ quan thuế IRS .v.v... Đích thân ra mặt để điều hành giải cứu đất nước. Rất đáng trân trọng. Đây có lẽ là sự khác biệt rõ nhất giữa nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền !!!)

- Cũng mở ngoặt chút là dược chất Chloroquine phosphate kỳ này lên ngôi. Mà VN là một trong vài nước hiếm hoi trên thế giới có phosphate, cây nhà lá vườn và hoàn toàn có khả năng chế ra món này nghen.
Dưới đây là bản tin về thử nghiệm thành công dùng ký ninh trị cúm Vũ Hán và study của Mỹ . Chắc nay mai lại sẽ có nhiều thông tin khác liên quan đến đề tài "Hydroxychloroquine" này .


Cầu mong dại dịch sớm qua, và thế giới được an lành . Chúc tất cả bình an .

Thursday, November 28, 2019

Phiếm: Ăn gà tây, nhớ gà ta :-)

Nhân ngày tạ ơn nói chuyện không tạ ơn ..... của các bác "trí thức" quê nhà :-)

Mấy hôm nay, báo chí mạng xã hội lại rần rần chuyện mấy nhà "trí thức" quê ta bừng bừng khí thế đấu tranh giành quyền không đặt tên đường cho mấy ông giáo sĩ phương Tây đã tìm ra chữ quốc ngữ năm xưa. Cụ thể là 2 ông Alexandre de Rhodes và Francisco De Pina. Nhiều nhà "trí thức" cho rằng mấy ông giáo sĩ đặt ra chữ Quốc ngữ là để đô hộ VN, chứ chẳng công trạng gì. Có ông "trí thức" khác nêu lý do không đồng ý, là vì ông Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) viết cuốn "Phép giảng tám ngày" bằng tiếng Quốc ngữ nhằm mục đích truyền đạo Thiên Chúa giáo, và sử dụng câu chữ thô bạo để công kích Tam giáo ở Việt Nam (Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo). Amen !

Thực ra, mấy bữa trước có coi qua rồi, nhưng hoải quá, rồi cũng chẳng có ý kiến ý cò gì . Hôm nay lễ Tạ ơn, nãy giờ phụ vợ ướp con gà tây để chiều cho vô lò. Hoàn thành nghĩa vụ rồi, rảnh rỗi lại sinh nông nỗi, dài chuyện trong lúc đợi chờ...

Nói vòng vo cho xa một chút, ví dụ như những con dao ngày nay đã có nguồn gốc từ  thời đồ đá của người tiền sử (Homo sapiens). Rồi 2.5 triệu mùa lá rụng trôi qua, người ta hôm nay dùng dao để nấu ăn, đâm chém, múa may, biểu diễn, làm quà biếu tặng, phòng thân, phong thần ..v.v.... Dao có thể dùng để giết người, mà cũng có thể dùng để cứu người. Chuyện đơn giản vậy ai cũng hiểu, không lẽ cứ thấy ai xách dao đi rượt thiên hạ, lại đổ tội lên mấy ông xài Oldowan ngày xưa ?

Giờ nói sơ qua chuyện nguồn gốc của chữ quốc ngữ VN. Thì cũng như bao nhiêu giai thoai lịch sử khác, nhiều nguồn, nhiều sách, nhiều giả thuyết, làm sao trọn vẹn hết được ? Nhưng lâu nay, có lẽ nguồn được thuyết phục nhất là nguồn cho rằng bộ chữ Quốc ngữ ra đời khoảng năm 1622 trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, do công của người giáo sĩ Bồ Đào Nha Francisco De Pina (1585-1625). Ông Francisco De Pina là giáo sĩ đầu tiên đến Đàng Trong năm 1617. Vốn giỏi tiếng Nhật và chữ Hán, nên ông dễ dàng học nói tiếng Việt và đọc chữ Nôm. Và sau đó, ông cũng nhận thấy các giáo sĩ khác gặp quá nhiều khó khăn trong việc học hỏi ngôn ngữ đọc và viết của người Việt, nên đã nghĩ ra cách dựa vào bảng mẫu tự La Tinh để ghi âm theo tiếng bản xứ.
Năm 1624, sau khi tương đối hoàn thành hệ thống tiếng Việt mới, ông mở lớp dạy lại cho các giáo sĩ khác đến truyền giáo tại Việt nam. Ông cũng tự viết những bài giảng và đi truyền đạo bằng thứ chữ Việt mới này từ đó (nay là Quốc ngữ). Cho đến tháng 12 năm 1625 ông bị chết đuối ở cảng Đà nẵng. Sau khi ông chết, thì có những giáo sĩ đã từng học chữ quốc ngữ VN của ông, đứng ra tiếp tục công việc hoàn chỉnh hệ thống chữ mới đó, nhưng chủ yếu là do giáo sĩ Gaspar De Amaral (1549-1646), giáo sĩ Antonio Barbosa (1594-1647), và giáo sĩ Alexandre De Rhodes (1591-1660) mà người VN gọi là cha Đắc Lộ. Ba vị giáo sĩ này cũng là tác giả của những cuốn tự điển Việt Nam - Bồ Đào Nha thời đó. Tuy nhiên, chỉ có ông Alexandre De Rhodes là gốc Pháp, nên sau này đã có nhiều dư luận và tranh cãi về động lực phát triển chữ Quốc ngữ của ông.
Có lẽ mục đích ban đầu của chữ Quốc ngữ cũng chỉ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với người bản xứ dễ dàng hơn. Về sau, khi thực dân Pháp đến Việt Nam, họ cũng bị những bế tắc về ngôn ngữ như những nhà truyền giáo trước đó, cả Hán và Nôm. Nên giải pháp tốt nhất là buộc người Việt Nam phải sử dụng chữ Quốc ngữ. Và có lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes nổi bật và được nhắc đến nhiều sau này. Cho nên công bằng mà nói chính người Bồ Đào Nha đã khai sinh ra chữ Quốc ngữ, và người Pháp đã "ép" dân VN ta dùng chữ Quốc ngữ.

Dĩ nhiên là buổi ban đầu chữ Quốc Ngữ đã từng bị giới sĩ phu VN tẩy chay, vì được cho là sản phẩm của bọn 'Tây lông", là công cụ của thực dân Pháp cai trị đất nước ta. Mấy cụ đồ, nhà Nho của ta dễ dàng gì cho cái thứ "Tây học" đó lấn sân chữ Nôm đơn giản vậy. An Nam ta mờ, đâu dễ "mất gốc" như thế :-). Nên chắn chắn hành trình phát triển chữ Quốc ngữ ngày xưa cũng rất gian nan. May mắn là hồi đó còn chưa có các vị "trí thức", giáo sư, tiến sĩ, viện nghiên cứu văn hoá lịch sử, các nhà Huế học, Đà Nẵng học ... như bây giờ. Nhưng cuối cùng thì do sự tiện ích và những động lực khác nhau, chữ Quốc ngữ đã thắng thế và tồn tại được.
Tuy nhiên, khi nói đến công ơn truyền bá và trau chuốt cho chữ Quốc ngữ có được như ngày hôm nay, thì không thể không nhắc đến các vị tiền nhân như Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Lương Văn Can .... và những đội ngũ tân học nhiều tài năng, đầy nhiệt huyết và dũng cảm của những thế hệ trước. Thế nhưng những người con VN ưu tú đó đã được tri ân đúng mức chưa ? Con đường nào đã mang tên họ để tri ân cho việc xây dựng một nền tảng ngôn ngữ dân tộc ?

Còn cái ông "trí thức" giáo sư tiến sĩ của viện nghiên cứu gì đó cho rằng ông cha Đắc Lộ viết cuốn "Phép giảng tám ngày" bằng tiếng Việt để công kích Tam giáo ở Việt Nam (Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo), cũng nên coi lại vì tư duy này cũng hơi lạ :-) !
Thực ra thì ông Alexandre de Rhodes cũng là một giáo sĩ bình thường, và chuyện ông ta ca tụng Thiên chúa giáo, không đồng ý với quan niệm Tam giáo cũng là chuyện bình thường thôi. Nhìn lại ngày xưa, với điều kiện sách vở và những tư tưởng thời ấy, thì cũng không ai chờ đợi ông ta hiểu biết hết cái thâm diệu của một tôn giáo khác. Mình không nghĩ ông ta có ý phỉ báng. Ngay cả đến thời buổi này, sách vở tràn ngập, phương tiện truyền thông rộng rãi, đại chúng hơn nhiều, mà cũng không hiếm lắm những chuyện tôn giáo hiểu lầm nhau. Dĩ nhiên là lúc nào cũng có những vị tu sĩ hoặc tín đồ hiểu biết lý lẽ, tôn trọng sự khác biệt, luôn dành sự tôn kính cho nhau và tôn trọng các tôn giáo khác. Nhưng bên cạnh đó cũng không hiếm những người tư duy hạn chế, cực đoan, chia rẽ, chê bai hoặc phỉ báng những ai có đức tin khác mình. Thậm chí nhiều người cuồng tín, tin rằng trong vũ trụ này chỉ có giáo chủ của họ là vĩ đại, và tôn giáo của họ là duy nhất. Cũng bình thường thôi ngài "trí thức" ạ. Cũng như tìm đâu ra được một ông giảng dạy triết Mác Lê mà đi khen ngợi chủ nghĩa "dẫy chết" tư bản :-) ? Bởi vậy, thiết nghĩ không nên chỉ vì cái quan điểm khác nhau, kiến thức khác biệt, hoặc đức tin riêng của họ, mà quên đi cái công trạng đã kiến tạo & hình thành nên một hệ thống "Quốc ngữ" mà chính ngài "trí thức" và tất cả chúng ta đã và đang xử dụng hôm nay.

Nói tới đây mới nhớ, hồi mình còn đi làm bên London, có lần đi đến thư viện Các-Mác (Marx Memorial Library) ở Farringdon với một người bạn trẻ từ bên Pháp qua. Măc dù có ít người đến viếng, nhưng thư viện vẫn luôn được chăm sóc. Anh bạn trẻ của mình thắc mắc là tại sao trải qua nhiều sự phản đối như thế mà thư viện ấy vẫn được tồn tại. Chỉ đơn giản bởi vì đó thuộc về lịch sử, cho dù có khác biệt nhau về quan điểm. Nước Anh chưa từng là quốc gia cọng sản, cũng chưa từng tin vào lý thuyết của Mác. Nhưng ông Mác đã từng xin tá túc tại đây, và người ta tôn trọng điều đó như một sự kiện lịch sử. Sách vở, hình ảnh, tài liệu, đều được trưng bày minh bạch và không cần dấu diếm điều gì !

Hôm nay là ngày lễ Tạ ơn (Thanksgiving) của Mỹ. Đây là một tục lệ văn hoá rất hay, là ngày lễ lớn nhất trong năm, để mọi người có thể tạ ơn những ân điển trong cuộc sống đã dành cho bản thân và cho gia đình của họ. Xưa nay nhiều người cho rằng việc biểu hiện lòng biết ơn và tạ ơn một cách đúng đắn trong đời sống là những ứng xử và tư duy cần thiết, chứng tỏ sự trưởng thành của con người.

Thôi tới giờ đi nướng gà, chào tất cả các bạn. Chúc tất cả ngày lễ Tạ ơn an lành, hạnh phúc.







Wednesday, November 20, 2019

Tản mạn ngày 20/11 - Cảm ơn những Người có công dạy dỗ người khác !

Love is a better teacher than duty. (Albert Einstein)





Hàng năm cứ đến ngày nhà giáo Việt nam, hắn lại ngồi nghĩ về những quãng ngày đã cũ...
Bao nhiêu thầy cô giáo đã đi qua cuộc đời hắn, dạy dỗ những bài học cần thiết nào đó, rồi lại đi xa. Không phải chỉ là những thầy cô giáo trên bục giảng, hoặc những nhân vật thành công tên tuổi, hoặc bằng này cấp nọ, mà có khi họ chỉ là những con người bình thường nhất, thậm chí còn rất nghèo hèn và khốn khổ. Như một thứ duyên hội ngộ, đến rồi đi, nhưng những bài học họ để lại là kim chỉ nam cần thiết cho đời sống của hắn. Không biết bắt đầu từ đâu và kết thúc lúc nào, cũng không có một tiêu chuẩn nào để thẩm định giá trị của những bài học cuộc sống, nhưng hắn đã trưởng thành từ đó. Vâng, chính họ là những bậc thầy cô giáo mà suốt đời hắn luôn phải tri ân .
....
Nước giếng khơi từ đáy thẳm mang tên
Nuôi dưỡng những cuộc đời thả nổi
Mặc cát đảo nghìn năm gió thổi
Bỗng Việt nam từ một dấu chân người ...
(Mai Thảo)

Rồi hắn đi xa, thật xa. Có những lúc ở một phương trời nào đó, hắn lại nhìn về chốn cũ, mà nhớ đến những bài học đầu đời. Nhớ đến những bạn bè, đàn anh, đàn chị, những thầy cô đã lần lượt ra đi. Trong cuộc sống, dĩ nhiên không phải bài học nào cũng ngọt ngào thơ mộng như ... "Thưở còn thơ ngày hai buổi đến trường. Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ ". Mà có những bài học đầy cay đắng ngậm ngùi, nhưng đó lại là những thứ ngậm ngùi cần thiết .
....
Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ
Chiều chơ vơ chiều dạt mấy hồn tôi
Trời viễn mộng đoạ đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi
(Thầy Tuệ Sỹ)

Có những ngày thơ thẩn bên giảng đường ĐH với những bài xã hội học đương đại của Daniel Bell, Michel Foucault, Max Weber, C. Wright Mills.... Hắn lại miên man nghĩ về những ngày lang thang, trốn học, chăn bò, tắm sông... của thời mới lớn.
...
Thưở đầu đời chú bé ôm phao,
Và nhút nhát dĩ nhiên ngộp nước ... ( Nguyễn Tất Nhiên)

Những người thầy đã dạy hắn từng sãi bơi đầu tiên, từng cách bám chân gánh phân trên đường làng lầy lội ..." trời mưa tránh trắng, trời nắng tránh đen". Những bước chân đứng lên sau bao lần ngã qụy với gánh mía, bó rơm, trên vai nặng trĩu. Những lần gượng đứng lên giữa bất công của xã hội và nghịch lý của cuộc sống. Những điều đáng quý, đáng làm, và những điều không đáng khóc. Rồi những kinh nghiệm đạp xích lô, sửa máy, cày cấy bón phân, hái trà trồng cafe, kẹp hom đánh rạ, đường cày luống thẳng, rải mạ ngay hàng ... cho đến cách nướng bắp giữa đồng, tát cá đìa, đặt lờ ống tre, đắp bùn nướng rạ ..vv. Đó là những bài học tồn tại đáng qúy nhất, và cũng là những điều cần thiết đã khắc sâu vào tâm thức của hắn -  một đứa trẻ nhà quê tập tễnh vào đời !
....
Trên vắt vẻo một chiếc cầu tre cũ
Sớm trưa chiều lặng lẽ đón người qua
Dắt tuổi thơ anh tập tễnh vào đời
Khi anh lớn, thì chiếc cầu đã gãy ... (PN)

Rồi có những ngày hắn từng thất bại, chạy trốn cả chính bản thân mình. Bên cạnh những đêm lang thang, vũ trường, rượu chè be bét. Một cô gái bán bar đã dạy hắn bài học lạc quan hơn cả Emile Durkheim. Lúc hắn lao đầu vào công việc như một thứ tham vọng thiêu thân, một nhà sư đã dạy hắn ý nghĩa vô thường, cái có cái không, cái thực cái ảo, để hắn chợt nhận ra những gì cần thiết. Lúc hắn bị áp lực nặng nề bởi những ước mơ, trách nhiệm, người phu quét đường dạy hắn giá trị đơn giản của quãng đường sạch sẽ mỗi buổi sớm mai ... Hắn đã học hỏi từ những người thầy cô giáo vô danh như thế. Họ đến rồi đi, mà có khi cả đời không bao giờ gặp lại.
Một mớ kiến thức học đường, giúp hắn tậu đươc một tấm bằng nho nhỏ. Nhưng chính những bài học cuộc đời đã giúp hắn tồn tại và trưởng thành hôm nay. Có một lần ngày 20/11, hắn mua một bó hoa và hộp bánh tặng cho bà giáo người nước ngoài. Bà hỏi tại sao, hắn trả lời ..." Hôm nay là ngày tri ân thầy cô giáo ở quê tôi". Bà giáo ngạc nhiên cảm ơn, chớp mắt cảm động. Còn hắn thì quay lưng đi để che dấu nỗi xúc động khi nghĩ đến bao nhiêu người dạy dỗ hắn vẫn còn khốn khổ ở quê nhà.

Hôm nay, nhìn đứa con hớn hở ôm gói quà trao tặng cho thầy cô giáo, hắn thấy vui lây. Trên đường về, con hỏi " Hôm nay Ba có đến trường tặng quà cho thầy cô của Ba không? ". Hắn khựng lại thật lâu, tìm câu trả lời.... "Con ơi, Ba không còn được đến trường nữa, nhưng Ba đã có rất nhiều thầy cô giáo. Thầy Cô trong trường và cả Thầy Cô ngoài đời. Họ đã dạy Ba những điều vô cùng cần thiết, nhưng giờ họ đang ở rất xa. Sau này lớn lên con sẽ hiểu ."
Từ đâu một câu nói xa xưa của Aristotle chợt trở về trong hắn "A true disciple shows his appreciation by reaching further than his teacher" (Tạm dịch - Trò hơn thầy là cách đền đáp công ơn dạy dỗ tốt nhất.)

Một ngày 20/11,
PN
(Chân thành cảm ơn những Người đã có công dạy dỗ người khác .)



Friday, October 11, 2019

Ocean Vương - thế hệ VN mới ở hải ngoại

Ocean Vương - TÔI ĐÃ HỌC LÀM CON TẮC KÈ CÓ THỂ ĐỔI MÀU DA

Phỏng vấn : Khuê Phạm (ZEIT ONLINE Team)
Người dịch : Tôn Thất Thông

Read the English version of this article here - Đọc bài phỏng vấn tiếng Anh đăng trên trang ZEIT ONLINE ở đây




ND : Xin giới thiệu với độc giả một cuộc phỏng vấn lý thú. Trước hết, người được phỏng vấn là Ocean Vương, một người Mỹ gốc Việt thế hệ hai, vừa xuất bản cuốn sách trong năm nay, trở thành một bestseller của New York Times và nhanh chóng được dịch ra 24 thứ tiếng. Thứ hai, người phỏng vấn là nhóm ký giả của ZEIT ONLINE ở Hamburg, được hướng dẫn bởi Khuê Phạm, một người Đức gốc Việt thế hệ hai. Thứ ba, nội dung phỏng vấn xoay quanh chủ đề nhập cư, và dường như có một sự đồng cảm sâu sắc giữa người phỏng vấn và người trả lời.. Điều đáng mừng là cộng đồng trí thức Việt Nam hải ngoại không chỉ có chuyên gia trong các ngành nghề truyền thống, mà đã có những who-is-who trong văn học và truyền thông đại chúng.

Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Ocean Vương là một sự kiện văn học quan trọng trong năm nay [2019]. Sau đây là cuộc trò chuyện với tác giả về Việt Nam, về định kiến châu Á và sự cô đơn trong các chuyến xe buýt đến trường.

Ocean Vương đứng đó với nụ cười bẽn lẽn trong phòng khách sạn ở Berlin và ngồi vào một chiếc bàn nhỏ. Người Mỹ 30 tuổi này sinh ra ở Sài Gòn và mới phát hành cuốn tiểu thuyết đầu tay On Earth, We’re Briefly Gorgeous, mang lại cho anh danh tiếng là một thần đồng văn học. Ở Berlin, anh xuất hiện trên bục đọc sách tại Liên hoan văn học quốc tế. Vào ngày thứ sáu cuối tháng 9 này, anh mặc một chiếc áo màu xanh, đội mũ lưỡi trai màu hồng và đeo một chiếc khuyên dài bằng vàng ở tai phải. Một nhà thơ tỏa ra một hỗn hợp của sự dễ bị tổn thương và niềm tự hào. Khi biết rằng, người phỏng vấn cũng có bố mẹ người Việt, mặt anh sáng bừng lên. Anh chuyển đổi dễ dàng từ tiếng Anh sang tiếng Việt trước khi quay lại tiếng Anh.

ZEIT ONLINE : Ông trốn khỏi Việt Nam cùng gia đình khi ông mới có hai tuổi. Ông có còn ký ức nào về thời gian trước đó không ?

Ocean Vương : Không còn một chút nào. Điều đó thật buồn cười, nhưng những ký ức đầu tiên của tôi là từ Mỹ. Dù sao, tôi vẫn còn bà con ở Việt Nam và thỉnh thoảng có về thăm. Năm 2009, tôi có mặt ở đám tang của bà tôi. Lúc ấy tôi thật bối rối: Trong đầu óc tôi, hình ảnh Việt Nam được tạo thành qua lời kể của những người bà con. Tuy nhiên, khi ở Sài Gòn, tôi cảm thấy như mình đang ở Times Square thành phố New York. Nó giống như một thế giới khác ! Văn hóa cũng đã thay đổi : trẻ con cởi mở và tự do hơn nhiều, gần như thiếu lễ độ. Tôi đã được giáo dục rất nghiêm ngặt ở nhà; khi tôi thấy chúng nói chuyện với bố mẹ, tôi cảm thấy mình như một bà già.

ZEIT ONLINE : Ông lớn lên cùng gia đình Việt Nam tại Hartford, Connecticut. Cuộc sống đó giống như thế nào ?

Vương : Chúng tôi bảy người sống cùng nhau trong căn hộ chỉ có một phòng ngủ : bố mẹ tôi, bà tôi, chú tôi, hai dì và tôi. Họ từng là nông dân trồng lúa, không được học hành và cũng chưa hề có một chiếc TV ; khi bạn vào căn hộ đó, bạn có cảm giác như một cuộc hành trình vào quá khứ. Nhưng đồng thời, nơi đó thật vô cùng sinh động, giống như một ngôi làng nhỏ. Luôn luôn có một điều gì đó diễn ra, tiếng Việt luôn luôn được nói, không có một lúc nào yên lặng. Đối với một đứa trẻ như tôi không quen nói nhiều, điều đó thật tuyệt vời : tôi chỉ cần nhắm mắt, lắng nghe và cảm nhận một phần của gia đình này.

ZEIT ONLINE : Điều gì đã xảy ra khi ông rời khỏi ngôi làng nhỏ này và bước ra ngoài ?

Vương : Chúng tôi sống ngay tại trung tâm thành phố, trong một cộng đồng người da đen và châu Mỹ La-tinh. Bởi vì chúng tôi không có xe hơi, nên chúng tôi phải đi bộ đến khắp mọi nơi. Tôi không biết rằng nước Mỹ chủ yếu là người da trắng, cho đến khi tôi lớn lên và lái xe đến trung tâm thương mại. Lúc ấy tôi nghĩ : Đợi đã, chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy ?! Có huyền thoại là, nước Mỹ là một chiếc nồi dùng để nấu chảy mọi thứ, nhưng trong thực tế không có gì được hòa nhập với nhau, mọi thứ đều tách biệt. Bây giờ khi nghĩ về điều đó, tôi tin rằng thông qua những thế giới khác nhau này, tôi đã học được cách trở thành một con tắc kè hoa [có thể tự đổi màu] : tôi có thể điều chỉnh hành vi và cách nói chuyện của mình ở bất kỳ nơi nào tôi đến. Đối với một nhà văn, đó là điều tuyệt vời nhất : tôi có thể biến mình trở thành bất kỳ tính chất nào, thành bất kỳ nhân vật nào.

ZEIT ONLINE : Có người Việt nào khác trong khu phố của ông không ?

Vương : Có một gia đình Trung Quốc, nhưng họ không bao giờ rời khỏi nhà. Nhưng cũng có một siêu thị châu Á. Nó rất nhỏ và được nhồi nhét từ trên xuống dưới bằng ấm trà, đũa và những chiếc chăn đỏ kiểu Việt Nam. Mẹ tôi thường mua sắm ở đó một cách chậm rãi đặc biệt, để có nhiều thời gian hơn ở đó. Mẹ tôi chỉ vào các thứ và nói, "Đây là nước mắm, nước tương. Con làm Phở như thế." Khi còn bé, tôi ghét nó, nhưng bây giờ tôi nghĩ nó rất đẹp, một sự giáo dục tuyệt vời.

Vương ăn nói nhỏ nhẹ với dáng trầm tư. Anh đến với văn học qua thơ. Những bài thơ của anh đã xuất hiện trong các báo lớn như New Yorker hay New York Times, tập thơ Night Sky with Exit Wounds được Giải thưởng T. S. Eliot và sẽ được Hanser (ND : Nhà xuất bản Đức) xuất bản vào mùa xuân năm sau trong phiên bản song ngữ (Nachthimmel mit Austrittswunden). Cuốn tiểu thuyết On Earth, We’re Briefly Gorgeous có một hình thức trữ tình khác thường : Nó được viết như một lá thư ; người kể chuyện về „Tôi“ viết cho người mẹ Việt Nam của mình, một người không biết đọc.

Trong từng mảnh vỡ, Vương kể về cuộc đời của một cậu bé tên là Little Dog, cũng sinh ra ở Sài Gòn, lớn lên ở Hartford và yêu một cậu bé da trắng, người sau này đã rơi vào nghiện ngập ma túy. Từ bản phác thảo của anh, người ta đọc được nỗi đau của một người ngoại cuộc, người đấu tranh để thoát khỏi quá khứ chiến tranh của gia đình và giới hạn của môi trường sống chung quanh. Vương nói, tất cả các nhân vật đều dựa trên những con người thật. Anh chủ ý quyết định không viết như một cuốn hồi ký hoặc sách phi hư cấu : các nhân vật của anh nên có một cuộc sống của riêng họ.

Con là người Việt Nam, điều đó đã đủ phiền toái rồi !

ZEIT ONLINE : Little Dog, nhân vật chính trong cuốn sách của ông, đón xe buýt đến trường mỗi buổi sáng và đau khổ với sự thật rằng, không ai muốn ngồi bên cạnh mình. Ông thường có trải nghiệm này không ?

Vương : Vâng, điều đó thường xuyên xảy ra với tôi. Trong phiên bản đầu tiên, tôi đã viết một phiên bản trung thực hơn của cảnh này trên xe buýt, nhưng sau đó lại lấy nó ra vì nó quá hoàn hảo, giống như một cảnh trong phim ảnh.

ZEIT ONLINE : Câu chuyện thực sự như thế nào ?

Vương : Một hôm, một cô gái da trắng thấy tôi ngồi đó và khóc. Cô cũng bị người khác trêu chọc vì cô có niềng răng và đeo kính. Cô ấy ngồi xuống cạnh tôi và làm một điều tuyệt vời. "Bạn có bảng tính nhân ở đó không?", cô ấy hỏi tôi. "Một lần một là 1. Hai lần hai là 4." Chúng tôi cùng nhau nói như thế. Sau khi tôi viết ra cảnh này, tôi đọc lại một lần nữa và tự nhủ : Khoảnh khắc này có giá trị thật tuyệt vời đối với tôi, tôi không muốn biến nó thành văn học. Dường như tôi đã sai. Trong cuốn sách, Little Dog sau đó được người ông da trắng cứu thoát.

ZEIT ONLINE : Có vấn đề gì không, khi ông luôn phải ngồi một mình trong xe buýt đến trường ?

Vương : Mẹ của Little Dog khuyên hắn là nên làm kẻ vô hình để không ai chú ý đến. "Con là người Việt Nam, điều đó đã đủ phiền toái rồi", bà nói. Bà ấy đến từ một thế giới khác, từ chiến tranh, vì vậy bà ấy muốn bảo vệ đứa con của mình : ai tỏ ra lộ liễu quá, sẽ có nguy cơ bị làm tổn thương. Đứa bé nghe lời mẹ. Một mặt, cuốn sách là một cuốn tiểu thuyết giáo dục, nhưng mặt khác cũng là cuốn tiểu thuyết nghệ thuật. Làm thế nào mà người này trở thành một nghệ sĩ ? Làm thế nào mà đứa trẻ này, luôn cố gắng làm ra vẻ vô hình, rồi cuối cùng bắt đầu nói và tìm kiếm sự thỏa mãn trong tình dục của mình ?

ZEIT ONLINE : Những cảnh ân ái giữa Little Dog và người bạn da trắng của anh ta, Trevor, thật vô cùng mạnh mẽ. Thật hiếm khi người ta đọc được một điều như vậy. Có khó không để viết như thế ?

Vương : Những cảnh này rất khó, nhưng tôi muốn viết ra vì chúng nói lên khía cạnh của sự đồng tính luyến ái, chuyện mà mọi người sợ nhất. Chúng ta học được lạc thú tình dục khi gặp thất bại. Ở trường, họ không dạy bạn bất cứ điều gì về tình dục đồng tính trong giáo dục giới tính. Cha mẹ không hề nói điều đó với con cái. Không có gì hết. Người ta vấp ngã trong bóng tối, theo nghĩa đen cũng như nghĩa bóng, và đó là một phần của trải nghiệm bản thân. Tôi muốn tôn vinh truyền thống lâu đời của những người đồng tính.

ZEIT ONLINE : Bằng cách viết những cảnh ân ái này một cách cởi mở, ông cũng đã phá vỡ định kiến của người đàn ông châu Á vốn thường là ức chế.

Vương : Người châu Á thường được cho là nhỏ bé, ít nói và có nữ tính – những phẩm chất được coi là yếu đuối ở Mỹ. Điều khuôn mẫu là, chúng tôi làm như thể người khác luôn luôn có lý, và thể hiện một bản sắc "theo sau quí vị !". Chúng tôi làm việc trong ngành dịch vụ, trong tiệm giặt ủi và tiệm nail, chúng tôi dọn dẹp khách sạn và chăm sóc người bệnh. Tôi rất quan tâm đến những gì sẽ xảy ra, khi một người Mỹ gốc Á chấm dứt việc cố gắng làm hài lòng người khác và bắt đầu tự chú ý tới bản thân mình.

Sẽ như thế nào khi ta thuộc về một thiểu số đang dần dần trở nên hữu hình ? Vương giơ tay lên không trung và làm một vòng bán nguyệt, để tưởng tượng một đống tuyết cao. Anh nói, là một nghệ sĩ châu Á có nghĩa là chạy qua đống tuyết này. Ban đầu không có gì hết, nhưng cuối cùng còn một dấu vết ở đó.

ZEIT ONLINE : Năm ngoái có một bộ phim Hollywood đã được ra mắt trong các rạp chiếu bóng. Tất cả diễn viên đều là người gốc Á, không có ngoại lệ, đó là phim Crazy Rich Asians. Trước sự ngạc nhiên của nhiều người, phim đó đã giành vị trí số một trên bảng xếp hạng điện ảnh Mỹ. Ông đã xem chưa ?

Vương : Crazy Rich Asians là một bộ phim hài lãng mạn vốn không lý giải sâu sắc các chủ đề của người Mỹ gốc Á. Nhưng nó đã chạm vào cánh cửa và kiếm được rất nhiều tiền. Tôi không đặc biệt thích thể loại này, nhưng tôi đã xem vì nó quan trọng. Đó là một buổi sáng lúc mười một giờ và phòng chiếu phim đầy những khán giả da trắng. Cảnh đầu tiên bắt đầu với một bài hát opera tiếng Hoa. Tôi ngồi đó và ứa nước mắt. Bất kể nội dung phim thế nào – ở đây toàn những người da trắng, lúc mười một giờ sáng, nghe một bài hát opera tiếng Hoa ! Chỉ riêng điều đó thật là quan trọng !

Bà rất tự hào, rằng con bà đã làm được chuyện như thế

ZEIT ONLINE : Ông có nghĩ rằng bây giờ công chúng quan tâm hơn đối với những câu chuyện thuộc loại đó không ? Ông có được lợi ích từ điều đó không ?

Vương : Hoàn toàn đúng. Nếu tôi viết cuốn sách của mình vào năm 1970, sẽ không có ai biết gì về nó. Tôi thậm chí sẽ không dám đặt chân vào một tòa nhà xuất bản ! May mắn thay, đã có một vài nhà văn mở đường : người đấu tranh cho nữ quyền Maxine Hong Kingston, người đoạt giải Pulitzer Việt Thanh Nguyễn, tiểu thuyết gia Monique Truong. Trong thời gian qua, ý thức đã mạnh hơn... Câu hỏi là, liệu nó sẽ giữ như vậy hay không.

ZEIT ONLINE : Sách của ông đã được dịch sang 23 ngôn ngữ. Có ai dịch ra Việt ngữ chưa ?

Vương : Cho đến bây giờ thì chưa. Việt Nam thật khó khăn, vì có rất nhiều kiểm duyệt và cuốn sách thì nói về Việt Nam. Nhưng sách đã được bán ở Trung Quốc, nơi nó cũng bị kiểm duyệt một chút.

ZEIT ONLINE : Gần đây, tôi có về Sài Gòn và nghe một số trí thức đang nói về ông. Họ biết ông qua kênh YouTube.

Vương : Có một sự khác biệt lớn giữa nhà nước Việt Nam và các nghệ sĩ trong bóng tối. Ở Việt Nam từ trước vẫn luôn như vậy, nhưng bây giờ chúng ta biết được nhiều hơn thông qua phương tiện truyền thông xã hội. Khi họ bảo tôi nên về đó, trái tim tôi thật xao xuyến. Tôi cũng muốn thế, nhưng nhiều người bạn của tôi gặp vấn đề về thị thực nhập cảnh khi họ muốn du lịch đến đó, hoặc họ bị rơi vào danh sách của bộ máy an ninh quốc gia. Tôi đang chờ đợi một cơ hội tốt để đi. Nhưng tôi biết rằng, có nhiều điều tuyệt vời trong đời sống ngầm, cũng như việc đọc thơ.

ZEIT ONLINE : Ông đã dịch vài đoạn văn từ cuốn sách của mình để đọc cho gia đình nghe chưa ?

Vương : Tôi không thể dịch nó. Tiếng Anh quá phức tạp và vốn tiếng Việt của tôi chưa đủ tốt. Trước đây, tôi muốn cải thiện kỹ năng ngôn ngữ của mình vì tôi nghĩ về việc sẽ làm nghề phiên dịch. Rồi tôi học nhiều từ mới, đem về nhà và sử dụng chúng. Gia đình tôi không hiểu gì hết. Tôi tự nhủ : Tôi quả thật đã ở rất xa họ vì tiếng Anh của tôi, tôi không thể để bản thân mình bị tách xa hơn khỏi gia đình chỉ vì vốn tiếng Việt. Có lẽ tôi sẽ học lại, khi họ không còn nữa. Nhưng bây giờ, tôi cứ để tiếng Việt của mình ở tình trạng này, tức ở trình độ lớp ba.

ZEIT ONLINE : Cuốn sách của ông là một lá thư gửi mẹ của người kể chuyện về „tôi“. Mẹ của ông nói gì về chuyện đó?

Vương : Tôi nói với mẹ tôi những gì tôi đang viết, nhưng hơi giống như tôi đang kể cho mẹ về chuyện ở Sao Hỏa. Đó không phải là thế giới của mẹ tôi. Những người trong gia đình tôi làm việc trong các nhà máy và tiệm làm móng, đọc chữ là một thứ hàng xa xỉ tư sản mà họ chưa bao giờ có. Tại sao tôi nên yêu cầu họ phải quan tâm? Bằng cách nào đó, tôi thích thế này: Khi tôi về nhà, tôi chỉ là một đứa con trai, không phải là nhà văn Ocean Vương. Tuy nhiên, mẹ tôi lại thích đến những buổi đọc sách của tôi, bà trang điểm thật hợp thời trang và nhìn khán giả vì bà không hiểu tôi đang nói gì. Bà muốn nhìn thấy khuôn mặt của họ, và nghiên cứu họ như một nhà nhân chủng học. Bà rất tự hào rằng, con trai mình đang làm điều như thế.

ZEIT ONLINE : Rằng con bà đạt được điều đó.

Vương : Chính xác. Bây giờ tôi có thể hỗ trợ mẹ. Trước đây, người ta phải gọi điện khắp bà con nếu ai đó cần một chiếc răng mới hoặc khi chiếc xe bị hỏng. Cả làng chìm trong sự rộn ràng. Sau đó, chúng tôi phải đến siêu thị châu Á nhỏ kia để vay tiền. Điều đó thật khủng khiếp và vô cùng căng thẳng. Bây giờ tôi có thể xử lý nó khi điện thoại đổ chuông, thật giống như trò ảo thuật. Đôi khi tôi nói đùa về nó. Khi mẹ tôi gọi, tôi nhấc máy và chỉ hỏi : bao nhiêu ? (Cười)

ZEIT ONLINE : Nhiều người nhập cư thế hệ một hy sinh rất nhiều để con cái họ được tốt hơn. Mẹ ông hiện đang bị ung thư. Ông có cảm thấy rằng thành công của ông là một sự bù đắp cho sự đau khổ của bà ? Rằng ông có thể trả lại cái gì đó cho bà ?

Vương : Điều đó có thể đúng, nhưng tôi cũng sẽ hỗ trợ mẹ tôi ngay cả khi tôi không trở thành nhà văn. Khi tôi học cấp ba, tôi làm việc tại Panera Bread (ghi chú BBT: một chuỗi cửa hàng bánh của Mỹ). Tôi lo chuyện nhập đơn đặt hàng cho các bánh sandwich trên máy tính. Những người khác đã làm tốt điều đó, nhưng tôi vẫn không thể xử lý nổi chiếc máy tính. Anh chàng làm bánh sandwich lúc nào cũng la mắng tôi, "Ocean, bạn đã làm sai!" Tôi xin mọi người cho tôi đi dọn dẹp nhà vệ sinh, họ hết sức ngạc nhiên. Ông chủ chạy theo tôi vì ông nghĩ rằng tôi đang tính làm điều gì đó cấm kị. Nhưng tôi chỉ muốn ở một mình, điều đó tốt hơn cho tôi rất nhiều. Ngay cả thời đó, tôi cũng đã hỗ trợ mẹ và gia đình tôi.

Đăng trên ZEIT ONLINE ngày 1 tháng 10 năm 2019

Monday, April 29, 2019

Những ngày xưa thân ái ...



Thỉnh thoảng có ai nhắc về ngày 30/4, mình lại nghĩ đến cô Cao thị Nhíp - Cô gái "giải phóng quân" dẫn đường năm nào, từng được coi như một trong những biểu tượng của ngày đất nước thống nhất, và được một đạo diễn dựng phim có cùng tên "Cô Nhíp". Thế rồi những năm gần đây, lại nghe tin cô đã trở thành công dân Mỹ và sống ở California. Mình vốn không quan tâm lắm chuyện cô trở thành công dân nước nào, nhưng sở dĩ nhớ đến cô Nhíp, là vì cô ta giống một người có liên hệ tới mình năm xưa, chị Bửng.

Trước năm 1975, Ba Má mình đi làm xa nhà, ở vùng bán an ninh, nên không dám dẫn mình theo, mà gởi cho Bà Ngoại. Lúc đó Ngoại mình ở Ba La, một làng quê rất thanh bình, nơi có những cánh đồng lúa vàng ươm, ruộng mía bát ngát, bàu sen ngào ngạt, vườn tược tươi mát ... Ngoại có 2 người giúp việc, Dũng ( lúc đó trong xóm thường gọi là Bủng) lo việc nặng nhọc đàn ông quanh nhà, và chị Bửng chỉ đặc biệt lo chăm sóc mình. Nhớ ngày nào, mình cũng ngồi chờ gói kẹo Chặt chị đem về từ chợ Mù U. Ăn xong, chị dẫn ra giếng, bắt cởi quần áo tồng ngồng, đi tắm. Cả Dũng và chị Bửng đều là người cùng làng, chân chất, đơn giản. Ngày đó, mọi người cùng ở trong nhà Ngoại, rất gần gũi, thương yêu đùm bọc nhau, coi như gia đình ruột thịt.

Rồi năm đó, chạy giặc trở về. Nhà Ngoại bị đốt, cả một ngôi nhà to lớn chỉ còn lại đống tro bụi và những cây cột cả ôm, cháy sạm trùi trũi. Ngoại khóc, rồi đi lên tỉnh ở với Ba Má mình. Dũng đi theo lên tỉnh, còn chị Bửng xin nghỉ việc ở lại quê chăm sóc ruộng vườn, rồi nhảy núi. Ít lâu sau, tới tuổi đăng lính, Dũng xin phép Ba Má và Ngoại nghỉ việc, đi Biệt Động Quân. Không lâu lắm, tin về đi nhận xác, tử trận ở La Vang, Quảng Trị. Những đồng bào cùng làng cùng quê, thật thà chất phác, từng thương yêu nhau, trở thành 2 chiến tuyến, người còn kẻ mất. Còn chị Bửng mất bặt tin tức. Chiến tranh ngày mỗi ác liệt hơn !

Sau 03/1975, nhớ là vài tuần gì đó, chị Bửng lên nhà mình trong quân phục "cô Nhíp". Nhìn chị rất giống hình ảnh của Cô Nhíp trong phim sau này. Cả nhà bàng hoàng sửng sốt. Chị có chút xa lạ ngại ngùng, im lặng gật đầu chào mọi người, đưa ánh mắt nhìn quanh, rồi chạy lại ôm Ngoại, khóc mừng. Nghe nói chị là một cán bộ chỉ huy đơn vị gì đó. Đó cũng là lần cuối gặp chị, sau không còn liên lạc với nhau nữa. Hồi đó, gia đình mình cũng như hàng triệu gia đình miền Nam khác, phải bận rộn lo toan với bao nhiêu biến động đổi thay của cuộc sống, ít có thời gian quan tâm nhau. Không biết sau này chị ra sao ?

Rồi sau đó, bắt đầu những đợt di chuyển từ Bắc vào Nam, người ngày càng đông dần. Tập kết hồi hương, bộ đội, cán bộ, đùm túm ba lô, ki cóp từng kí gạo, từng hộp lương khô TQ, từng cái chén sành, từng thước vải sô, đôi dép râu, gói thuốc lá Điện Biên, ...vào để "khai phóng" và "giúp đỡ" miền Nam đói khổ, lạc hậu, bị kìm kẹp. Người đi kẻ ở. Người vui kẻ buồn. Từ lúc đó, mình bắt đầu lờ mờ hiểu ra được ý nghĩa của chữ "giải phóng".

Sau này, thỉnh thoảng có đôi lúc nghĩ thoáng qua, không biết có khi nào chị Bửng lại như cô Nhíp năm xưa chăng ? Giờ này đang ung dung ở Huntington Beach hoặc ngồi đâu đó ở Little Saigon thưởng thức ly cafe hương vị quê nhà, mà nghĩ về câu chuyện "giải phóng" của đời mình ?






Tuesday, April 16, 2019

Bia căm thù & những được mất ?









Hôm qua có dịp ghé ngang toà nhà One World Trade Center ở New York (nơi đã từng là toà nhà tháp đôi bị khủng bố 9/11/2001). Vẫn đang còn những kiến trúc xây dựng thêm, nhưng so với vài năm trước đây thì khá nhiều hạng mục đã được hoàn thành.

WTC. Nơi đã từng bị khủng bố, một trong những biến cố tồi tệ nhất của lịch sử nhân loại, một sự kiện đã làm ảnh hưởng cả thế giới. Một trong những tang thương, đổ nát, và bi hùng nhất của lịch sử nước Mỹ. Bao nhiêu nạn nhân và anh hùng đã ngã xuống với biết bao câu chuyện chưa và sẽ không bao giờ nói hết ....

Nhưng từ nơi đó, từ những đổ nát hoang tàn, đã mọc lên những công trình hoành tráng. Không còn là tháp đôi nữa, mà là một toà nhà One World Trade Center, biểu tượng của sự đoàn kết vươn lên mạnh mẽ, không hề khuất phục. Một trạm xe lửa điện ngầm hoành tráng, mang kiến trúc tuyệt đẹp biểu tượng đôi cánh thiên thần bay lên của những anh hùng đã ngã xuống hy sinh vì người khác, vì xã hội tốt đẹp, vì đất nước an vui. Những bờ nước ngày đêm không ngừng nghĩ chảy miết, tươi mát, bên cạnh tên tuổi của những con người đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi đây .....

Thật đẹp & thật ý nghĩa. Nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, hùng tráng nhưng không bi ai. Một tư duy lạc quan và cái nhìn hướng về tương lai phía trước !

Tuyệt nhiên không hề có một tấm bia căm thù nào !

Không một hận thù nào được ghi dấu nơi đây. Một cây hoa lê (bradford pear) duy nhất còn sống sót giữa mịt mù khói lửa, vẫn được chăm sóc kỹ lưỡng như một biểu tượng tồn tại, hàng năm vẫn mãi trổ hoa vào mùa này, xinh tươi và hiền hoà. Mỗi lần đi qua đây, vẫn thích ngắm nhìn những công trình kiến trúc mới, ngày mỗi mọc lên. Mình tự hào và ngưỡng mộ những con người đã hy sinh & đóng góp để làm nên một câu chuyện lịch sử bi hùng đầy tính nhân văn.

Rồi cũng không khỏi ngậm ngùi khi nghĩ về những tấm bia căm thù ở nhiều quốc gia khác, nơi hận thù được nhắc nhở, gieo rắc qua bao nhiêu thế hệ. Những tấm bia căm thù bằng gạch đá, và những tấm bia hận thù trong lòng người. Những hận thù có thực, và những hận thù không có thực. Tuyên truyền, ảo giác, cơ hội, tát nước theo mưa.... Đã, đang, và sẽ còn tiếp tục ! Được, mất gì ở đó ?

Những điệp khúc cay đắng, đố kỵ, hận thù dai dẳng, rồi sẽ đưa thế hệ tương lai của họ về đâu ?



Wednesday, March 20, 2019

Paul Gregory: Why Socialism Fails

SATURDAY, JUNE 23, 2018

Paul Gregory: Why Socialism Fails


As the collapse of the Soviet Union approached, Francis Fukuyama proclaimed the victory of liberal democracy over planned socialism in his 1989 essay, “The End of History?” 

More than a quarter century later, the USSR has indeed disintegrated. Its former east European empire lies inside the European Union. China has a market economy, though the nation is led by a single party. And the “socialist” states of North Korea, Cuba, and Venezuela are in economic ruin. Few now advocate “back to the USSR.” At the same time, many people still consider socialism an appealing economic system. 

Consider, for example, that Bernie Sanders—an avowed supporter of a socialist United States—is America’s most popular politician—and that as many millennials favor socialism as capitalism.
The analogy of the jockey and the horse explains the continued appeal of socialism. Socialists believe that socialist regimes have chosen the wrong jockeys to ride the socialist horse to its deserved victory. Bad jockeys such as Stalin, Mao, Fidel, Pol Pot, and Hugo Chavez chose tactics and policies that led their socialist horse astray. But actually, a look at how the Soviet Union actually worked reveals that it’s the horse itself that’s the problem.

After gaining power a century ago and then holding onto it through a civil war, the Soviet communists were intent on building a socialist state that would overwhelm capitalism. State ownership and scientific planning would replace the anarchy of the market. Material benefits would accrue to the working class. An equitable economy would supplant capitalist exploitation and a new socialist man would rise, prioritizing social above private interests. A dictatorship of the proletariat would guarantee the interests of the working class. Instead of extracting surpluses from workers, the socialist state would take tribute from capitalists to finance the building of socialism.

The basics of the Soviet “horse” were in place by the early 1930s. Under this system, Stalin and his Politburo set general priorities for industrial ministries and a state planning commission. The ministers and planners worked in tandem to draw up economic plans. Managers of the hundreds of thousands of plants, factories, food stores, and even farms were obligated by law to fulfill the plans handed down by their superiors.

The Soviets launched their planned socialist economy as the capitalist world sank into depression, trade wars, and hyperinflation. Soviet authorities bragged of unprecedented rates of growth. New industrial complexes grew from scratch. Magazines featured contented workers lounging in comfortable resorts. The message: The West was failing, and the Soviet economic system was the way to the future.

As the competition between capitalism and Soviet socialism became more pronounced during the Cold War, serious scholarly study of the Soviet economy began. The overarching research agenda of Western scholars was “scientific planning”—the socialist belief that expert technocrats could manage an economy better than spontaneous market forces. After all, would not experts know better than buyers and sellers what, how, and for whom to produce?

It was the Austrian economists F. A. Hayek and Ludwig von Mises who resisted this idea most forcefully. In their landmark critique laid out in a series of papers written from the 1920s through the 1940s, they concluded that socialism must fail. In modern economies, hundreds of thousands of enterprises produce millions of products. Even with the most sophisticated computer technology, managing such large numbers would be far too complex for an administrative body trying to allocate resources. Modern economies, therefore, are too complex to plan. Without markets and prices, decision-makers will not know what is scarce and what is abundant. If property belongs to all, what rules should those who manage assets for society follow? 

The Soviets’ solution to the complexity and information problems was a national plan that spelled out production goals only for broad sectors, not for specific transactions. In other words, rather than mandate the delivery of 10 tons of steel cable by factory A to factory B, the planners set a target for the total number of tons of cable to be produced nationwide. Only a few specific goods—such as crude oil, aluminum ore, brown coal, electricity, and freight-car dispatches—could be planned as actual transactions. Everything else had to be planned in crude quantities, such as several million square meters of textile products. Product specifications, delivery plans, and payments were worked out at lower levels and often with disastrous results.

Soviet scientific planning, in fact, directed only a minuscule portion of products. In the early 1950s, central agencies drew up less than 10,000 planned indexes, while industrial products numbered more than 20 million. Central agencies drew up generalized plans for industrial ministries, which issued more detailed plans to “main administrations,” which prepared plans for enterprises. There never was a pretense that the top officials would plan the production of specific products.

To make matters even more complicated, virtually all plans were “drafts” that could be changed at any time by higher state and party officials. This constant intervention, called “petty tutelage,” was an irritant from the first to the last day of the Soviet system, but it was a key pillar of resource allocation.

Central planners prepared preliminary plans for a small percentage of the economy. These “draft plans” set off huge “battles for the plan” as ministries and enterprises scrambled to fulfill their production targets and meet their delivery quotas, all of which could be changed by party and local officials at any time.

As the commissar of heavy industry, Sergo Ordzhonokidze complained in 1930: “I guess they think we are idiots. They give us every day decree after decree, each one without foundation.” An unnamed defense contractor echoed the same complaint a half century later: “They stick their heads into every single issue. We told them they were wrong, but they would demand that things be done their way.”

The manager’s task was presumably simple: The plan was the law; the manager’s job was to fulfill the plan. But the plan kept on changing. Moreover, it consisted of multiple tasks, such as deliveries, outputs, and an assortment program. Throughout the entire history of the Soviet Union, gross output (measured in tons, meters, or freight/miles) was the most important plan indicator and the most malleable. Nail producers, whose output was judged by weight, would produce only heavy nails. Tractor manufacturers, struggling to meet their tractor quota, were caught delivering tractors without engines to their customers, who accepted them anyway for their spare parts. Shoe manufacturers, whose plans were based on quantity, produced one size and one color to the chagrin of customers. Other targets, such as cost reductions or new technologies, were ignored as counting less towards fulfillment of the plan.

Under scientific planning, supply had to roughly equal demand—and, given their distaste for the anarchy of markets, Soviet planners could not balance supply and demand by raising and lowering prices. Instead, they compiled “material balances” using primitive accounting to compare what materials were on hand with what were, in some sense, needed.

Soviet material-balance planning suffered from a number of deficiencies. For example, only a few balances could be compiled—in 1938, only 379 central balances were prepared in a market of millions of goods. And then, the balances were based on distorted information. Producers of goods in the balance lobbied for easy targets that concealed their capacity. Industrial users in the balance overstated what they needed to be sure of fulfilling their own plans.

Figuring out the proper balance was an exhausting exercise—and Soviet planners did not reinvent the wheel each year. Instead, they resorted to what came to be known as “planning from the achieved level,” which meant that each year’s plan was last year’s plus some minor adjustments.

By the early 1930s, supply agencies were distributing materials based on what they did in the previous year. A fast forward to the 1980s reveals the same practice in place: When a producer of welded materials wished to use thinner metals, the official answer was: “I don’t care about new technology. Just do it so that everything remains the same.” Material-balance planning was hostile to new products and new technologies because they required a reworking of an already fragile system of balances. American economists who were studying Soviet industrial production in the 1950s were astonished that the same machines were produced over decades without modification, something unheard of in the West.

Material-balance planning was the most fundamental weakness of the Soviet system. It froze the Soviet economy in place. Each year’s production was a replica of the previous year. A Soviet manager from 1985 would have felt quite at home in the same enterprise in 1935.
Beyond material-balance planning, soft budgets constituted another key defect. The economist Janos Kornai of Harvard University grew up in Hungary under planned socialism. His research, which draws on his first-hand experiences, focuses on the economic losses associated with soft budget constraints. As Kornai, if enterprises do not face the risk of bankruptcy, they will not seek out cost economies and other survival strategies. From day one of the Soviet system, loss-making enterprises understood they would be bailed out automatically, if not right away.

The primary cause of soft budgets was that the Soviet system was based on output plans. One enterprise’s output was another’s input. If output plans failed widely, the whole plan would fail. Taking an enterprise out of production due to insolvency was simply not an option.

In practice, loss-making enterprises paid for deliveries with IOUs. Unsettled IOUs would grow until they reached crisis proportions. Gosbank, the state bank, would then step in and make good on the unpaid bills by issuing money and creating what Soviet banking officials called a monetary overhang—more rubles chasing goods than there were goods to buy. In fact, Gosbank’s main business in the early years of the Soviet Union was organizing bailouts. When one was completed, it was time to start working on the next.

The problem with socialism isn’t a bad jockey—it’s the horse itself. The Soviet economic system suffered from pathologies that would ultimately doom it. Starting in the late 1960s, the USSR economy went into a long decline, which came to be called the “period of stagnation.” Mikhail Gorbachev was elected General Secretary of the Communist Party in 1985 on the pledge that he, as a radical reformer, would reverse the decline.

Gorbachev failed because the core of the Soviet planned system was rotten Despite his reform inclinations, he remained a believer in socialism. He was determined to save Soviet socialism by making it more like capitalism. In so doing, he created an economy that was neither planned nor a market—a chaotic free-for-all, which the Russian people regrettably associate to this day with that they came to call “wild capitalism.”

Professor Paul Gregory is a research fellow at the Hoover Institution, the Department of Economics at the University of Houston, Texas, and the German Institute for Economic Research in Berlin. This article was first published by the Hoover Institute's Defining Ideas.

Wednesday, February 20, 2019

Phiếm: Sông núi nào ở trên vai ?



Mấy hôm nay thiên hạ lại xôn xao, chê bai, chửi trách, đổ tội nhau về cái vụ ngày hội thơ chủ đề "Sông Núi trên vai" của mấy ông hội văn thi sĩ VN. Thực ra chuyện dịch thuật bậy bạ thì cũng là chuyện thường ở VN. Nhiều sách dịch xong, duyệt xong, phát hành xong, bán lấy tiền thiên hạ rồi, còn chưa biết là dịch bậy.
Còn nói về dịch thơ, không biết có ông Tây nào đọc thơ Việt Nam không, nhưng thỉnh thoảng cũng thấy một số thơ được dịch sang tiếng nước ngoài. Tại sao không ? Kiều dịch được, Chinh Phụ Ngâm dịch được, thơ Hồ Xuân Hương dịch được, thì thơ tớ cũng dịch được. Dịch cho oai. Chắc vậy. Lâu lâu mình cũng hân hạnh được gặp một vài vị hội viên hội văn học nhà nước. Nghe nói ông nào muốn vào hội viên chính thức của hội ông Hữu Thỉnh thì cũng ráng in vài tập thơ, cũng duyệt, cũng ra mắt, cũng phát hành, mới đủ chuẩn. Nhưng rồi in xong, chủ yếu là cho không biếu không làm quà, chứ còn mong bán được thì mơ mộng quá trớn. Nhiều ông còn hứng thú dịch cả ra tiếng Tây mặc dù người đọc toàn là VN. Cho nên chuyện trình độ dịch thuật "Sông Núi trên vai" mà thiên hạ rần rần mấy bữa nay, thì cũng không lạ lắm. Nhưng chuyện dịch thuật lùm xùm đó không phải là chuyện muốn nói đến ở đây.

Cái mà mình cứ thắc mắc là không hiểu tại sao nhà nước VN lại tốn nhiều tiền thuế của dân để nuôi nấng bao cấp hoài những hội nhà văn, nhà thơ như thế ? Những ai từng đi ra nước ngoài làm việc, học hỏi, hoặc các vị lãnh đạo đi nước ngoài thường xuyên, thì chắc cũng thấy, hiếm có nhà nước nào lại bao cấp đến vậy. Nếu có, thì chỉ có thể là Triều Tiên, Cuba, TQ ... gì đấy. Nhưng Cuba ngày nay chắc cũng đã giảm thiểu nhiều rồi. Đúng là ngày xưa trong kháng chiến đấu tranh, làm cách mạng, thì cần thiết xử dụng văn hoá, âm nhạc, văn học nghệ thuật, như các phương tiện hoặc công cụ để làm công tác tư tưởng, cổ vũ tuyên truyền cho những mục đích nhất định. Lúc đó vai trò thơ ca, âm nhạc có thể mang ý nghĩa phục vụ chế độ, nên ăn lương nhà nước thì còn hợp lý. Bây giờ thời bình, kinh tế thị trường, nếu thơ hay văn giỏi, thì cứ làm ra, in bán, có nhiều đọc giả, bạn đọc, rồi làm phim, làm nhạc, làm ra tiền ..v.v. Chứ bao cấp thế sao gọi là kinh tế thị trường ?

Hôm rồi nghe cụm chữ "Sông núi trên vai" thấy rất hay và cao cả, nhưng mình nghĩ hoài không hiểu trách nhiệm nào của các ngài nhà thơ lại cao cả đến thế ? Tuyên giáo ư ? Văn hoá, giáo dục, hay giải trí ? Như ở quê mình ra ngõ gặp nhà thơ, nhưng liệu lâu nay thơ văn có làm cải thiện được đời sống tinh thần của người dân, thay đổi văn hoá ứng xử của xã hội chăng ? Bây giờ mà đi nói chuyện thơ văn VN với giới trẻ, có khi còn khó hơn nhiều so với nói chuyện về phim Hàn quốc. Thế thì gánh nặng "sông núi trên vai" của các hội văn nghệ nhà thơ ở đâu ? Thử làm một cái survey (thăm dò dư luận) để biết bao nhiêu người VN đã đang đọc thơ của các ngài ? hay chỉ là gói gọn nhất định trong một nhóm, giới nào đó. Trà dư tửu hậu, tự vỗ về lẫn nhau ?

Còn nói về tự do sáng tác, thì là những câu chuyện dài. Đến nay viết lách và sáng tác vẫn còn tồn tại nhiều rào cản hạn chế. Cái gì không hiểu được, hoặc có vẻ như không quản được, thì dẹp. Một số ít vẫn còn căn bệnh nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, nên đúng sai gì cứ dẹp cho nó lành, cho an thân tại chức hết nhiệm kỳ, hoặc đùn đẩy nhau, hoặc đợi xin ý kiến chỉ đạo (sic) ....:-).
Mà phàm đã không có tự do biểu đạt thì làm sao có thể phát triển đa dạng được. Nhớ có lần mình ngồi lai rai với một nhà biên kịch làm phim cũng khá nổi tiếng ở VN. Thấy trên TV toàn là phim chưởng TQ, tình cảm Hàn Quốc hoặc hài VN nhảm nhí, hiếm hoi thấy được phim lịch sử VN, bèn hỏi anh ấy: "Sao mấy anh tài hoa thế, VN có nhiều nhà văn, biên kịch, giỏi thế, mà lại không viết ra vài bộ phim lịch sử, dã sử, hoặc những câu chuyện hài có nội dung khá hơn sao ?". Ảnh buồn xo trả lời : "Đâu phải viết là được em, chắc gì được kiểm duyệt cho qua. Mà được kiểm duyệt cho qua, làm ra, chắc gì lại có người chiếu, người coi. Thị hiếu, dân trí bây giờ cũng khác. Chủ đầu tư nào dám bỏ tiền ? ". Nghe mà xót. Đúng là nghèo tiền nghèo bạc thì còn dễ thay đổi, nghèo văn hoá quả là khó xử.
(Cũng có năm mình ra Lý Sơn, nghe bà con ngư dân kể về nỗi đau bị bọn TQ xua đuổi, đánh đập, đâm chìm tàu, mất thuyền mất lưới, chết người .... ngay trên lãnh hải của VN. Về lại TP, cứ đi tìm mấy anh ấy, hỏi nhờ làm giúp một bộ phim tư liệu, nói lên sự thật về những nỗi đau này. Ít ra cũng cho thế giới thấy được sự bắt nạt ngang ngược trên biển Đông của bọn Trung cọng. Nhưng rồi cuối cùng thì không ai muốn làm. Hoặc có thể không dám làm chăng ?)

Dĩ nhiên là đất nước nào thì cũng cần có văn có thơ, và nhiều lãnh vực văn hoá nghệ thuật khác nhau nữa. Nhưng phải biết tôn trọng sở thích và quyền tự do biểu đạt của người khác, thì thơ ca, văn nghệ mới phát triển lành mạnh được. Ai cũng biết nền văn hoá dân tộc luôn được nuôi dưỡng bởi những bức tranh, câu thơ, bài hát, câu hò, ca dao, thủ công, làng nghề, tập tục cổ truyền ....v.v. Cho nên dù là dân dã hay hàn lâm, thì văn nghệ thơ ca luôn là những món ăn tinh thần của con người, không ai phủ nhận được. Nhưng món ăn tinh thần vốn có giá trị của riêng nó, không ai có thể bắt buộc người khác phải “nuôi dưỡng”, hoặc nghe theo cái mà họ không hiểu, hoặc không thích. Nhớ năm ngoái đọc trên mạng, có ông nhà thơ hội phó hội trưởng văn nghệ gì đấy, chê thiên hạ internet không biết thưởng thức thơ ... của ông ấy. Mình nghĩ ông đã quên tự hỏi rằng tại sao thiên hạ lại biết thưởng thức một tô bún riêu hay ổ bánh mì, hoặc thậm chí chỉ là một ly trà đá !

Mình cũng là dân mê thơ văn, âm nhạc. Nhưng thích đọc ai,  thì mình đi mua sách người ấy. Văn thơ ông nào hay, báo chí ông nào viết đúng, tranh hoạ ông nào đẹp, thì tự nhiên sẽ có nhiều người tìm mua, tìm đọc. Tồn tại. Ngược lại thì không ai mua ai đọc. Thoái trào. Đơn giản thế thôi, nguyên tắc kinh tế thị trường đơn giản là thế, cung cầu tự quyết định lấy. Xưa nay mỗi con người đều có sự cảm nhận và thưởng lãm khác nhau về cái hay cái dở, cái đẹp cái xấu. Đó là quyền cá nhân của họ, không ai có thể bắt họ phải đi theo một khuôn khổ khác. Không phải cứ thơ ông Tố Hữu thì phải học, thơ ông Hữu Thỉnh thì phải hay. Cho nên thử hỏi hôm nay có bao nhiêu người dân Việt ngoài kia biết đến thơ văn của các ông hội viên văn nghệ sĩ nhà nước. Đại đa số người dân là làm ăn vất vả, lo toan, không có thời gian nghỉ ngơi lo cho con cái, huống hồ chi biết đến tên tuổi của quý ngài. Đọc thơ văn của quý ngài lại là chuyện xa vời hơn nữa. Bởi vậy có vẻ vô lý khi lấy tiền thuế của người dân để nuôi các bác thi sĩ làm thơ mà chẳng bao giờ người dân được đọc, được nghe, hoặc cũng chẳng bao giờ muốn đọc, muốn nghe những bài thơ ấy.

Thực tế thì đâu phải bài thơ nào cũng có giá trị nghệ thuật, văn chương văn hóa, với người đọc người nghe hoặc với quê hương đất nước ? Đâu phải bài thơ nào cũng có giá trị chuyển tải những thông điệp hữu dụng cho đời sống và xã hội. Đâu phải bài thơ nào cũng mang giá trị nghệ thuật đúng nghĩa. Vì đâu phải ông “nhà thơ” nào cũng làm ra thơ hay. Nhiều bài thơ, bài văn, chữ nghĩa sáo ngữ cả gánh, mà ý tứ chưa được một bụm. Nhiều ông rãnh rỗi cứ ngồi lựa từ ngữ dao to búa lớn, rồi ghép lại thành vần, đọc hoài không hiểu muốn nói cái gì. Tất nhiên là đất nước VN bao giờ cũng có những nhà văn nghệ sĩ, thi sĩ nhạc sĩ tài hoa, năng lực thực sự & chân chính. Nhưng bên cạnh đó, thì cũng không hiếm những người cơ hội, hám đanh, cốt chỉ để hơn thua, đánh bóng, ca tụng vỗ về, trục lợi. Đôi lúc cũng đọc được nhiều vụ viết bài tự sướng hoặc nịnh nọt nhau, rồi tranh cãi vô bổ, hoặc cằn cựa nhau từng chữ từng lời, cuối cùng chỉ để phục vụ cho cái "tôi" to đùng. Bởi vậy, mình nghĩ chữ "Sông Núi trên vai" các nhà thơ nên trân trọng dành cho những người dân đen đóng thuế, những người công nhân, nông dân, lao động vất vả mỗi ngày. Những người lính hy sinh ngày đêm giữ gìn biển đảo lãnh thổ quê hương. Những đôi chân trần, những đóng góp thầm lặng, những đôi vai gầy guộc đáng thương, nhưng thực sự dám gánh vác đời sống của chính họ, của gia đình họ, và của quê hương đất nước họ !

Tất nhiên là vai trò của thơ ca trong thời chiến và thời bình có phần khác nhau, điều này thì ai cũng biết. Việc xử dụng thi ca trong các lãnh vực tuyên truyền & tuyên giáo cũng thế, thiết nghĩ cũng cần phải thay đổi để phù hợp với thời cuộc. Còn giá trị văn hoá thực sự của thi ca thì dĩ nhiên thời nào, chính thể nào, cũng vẫn tồn tại, vẫn là những món ăn tinh thần cho nhân loại, không thể thiếu. Trên thế giới biết bao nhiêu nhà thơ nổi tiếng ...Shakespeare, Emily Dickinson, Yeats, Rumi, Dante Alighieri, W. Whitman, Neruda, Wallace Stevens .v.v... có thấy ông nào lãnh lương hội văn nghệ chính phủ đâu. Sách họ vẫn còn bán dài dài cho tới bây giờ và cho tới mai sau. Thơ hay vẫn có người mua, người đọc, đời này qua đời khác. Có biết bao nhiêu quốc gia trên thế giới không trả lương cho nhà thơ nhà văn của họ, mà để cho văn nghệ tự sống, tự do phát triển. Rồi thì văn hoá của đất nước họ, trình độ thi ca của đất nước họ vẫn phát triển tốt cả đấy thôi.

Tóm lại, mình nghĩ một đất nước mà công bằng với người làm và người hưởng, tuân thủ nguyên tắc cung cầu, tôn trọng quyền hạn của người dân cũng như quyền lợi người đóng thuế, thì không phải chỉ trong lãnh vực thơ ca, mà nhiều lãnh vực khác, kể cả nền kinh tế nước nhà, chắc chắn sẽ phát phiển lành mạnh và phồn thịnh hơn.

Cũng mong các vị nhà thơ hãy “trả lại” núi sông cho quê hương, để đôi vai gầy của các vị nhẹ nhàng hơn, và thân tâm an lạc hơn. Ít ra nếu mai này có thêm ngày hội thơ nữa, thì cũng không cần phải nhờ bác gục gờ (google) dịch thành "MOUNTAINS AND RIVERS ON THE SHOULDER". 
Đơn giản hơn nhiều :-) !



Wednesday, February 06, 2019

Ly cafe đầu năm



Sáng mùng một, pha ly cafe, mở đĩa nhạc xuân, ngắm cành đào vừa nở thêm vài cụm hoa mới. Mùi hương trầm của đêm Giao thừa hình như vẫn còn lãng đãng quanh đây. Hôm nay trời hãy còn lạnh nhưng nắng đẹp, cảm giác như nắng xuân ở quê nhà, hây hây hanh vàng. Một năm cũ qua đi, một năm mới lại bắt đầu. Dẫu biết xuân hạ thu đông chỉ là quy luật thường tình của tạo hoá, có khởi đầu tất có kết thúc, có cái cũ tất có cái mới. Tết nhứt cũng là một chu kỳ tuần hoàn như bao chu kỳ tuần hoàn khác, một sự vận hành tất yếu của tự nhiên. Nhưng rồi năm nào cũng thế, Xuân đến thì ai cũng thấy lòng mình xôn xao, và cứ khan khác một điều gì. Ngày Tết có cái hồn đặc trưng của nó, khởi sự trong lòng của mỗi con người !

Tối qua Giao thừa xong, đi chùa về nhà đến hơn 2g sáng, nhưng vẫn không buồn ngủ. Nhiều bạn bè nhắn tin, gởi email chúc tết, ngồi đọc và gọi điện thoại đến gần sáng. Sáng mùng một ở Mỹ, thiên hạ vẫn đi học đi làm như thường lệ. Ngồi nhâm nhi ly cafe nghe nhạc, tự nhiên nghĩ đến bài thơ "Xuân Vãn" của ông vua Trần Nhân Tông, người được cho là vị Sơ Tổ sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, cũng là dòng Thiền duy nhất của người Việt Nam.

Xuân vãn,
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản, bồ đoàn khán trụy hồng.

Nôm na là Ngài nói về sự cảm nhận đối với cái Tết vào những thời điểm khác nhau. Thuở nhỏ còn bé chưa biết gì thì mỗi dịp xuân về thấy trong lòng náo nức rộn ràng như trăm hoa đua nở. Đến khi lớn lên hiểu thấu vấn đề, khám phá cốt lõi của sự việc, thì thấy muôn sự cũng bình thường thôi. Tuy bài thơ chỉ đơn giản vậy, nhưng lâu nay biết bao nhiêu người giảng giải phân trần, dịch nghĩa dịch ý, đôi khi làm phức tạp hơn, hết thiền  :-).
Mở ngoặc chút nói về chuyện dịch thơ xưa. Hồi nhỏ giờ mình cứ thắc mắc là tại sao có nhiều nhà dịch giả, văn thi sĩ, trí thức VN, lại thích cùng tham gia dịch thuật một bài thơ nổi tiếng nào đó, mặc dù ý tứ cũng chỉ na ná giống nhau. Từ những bài thơ Tàu như Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế, Lô Sơn của Tô Đông Pha, Tạp Thi của Vương Duy .... cho đến thơ Việt của thiền sư Mãn Giác, của vua Trần Nhân Tông ...v.v.. Như bài Xuân Vãn này cũng có rất nhiều người tham gia dịch thuật, không biết là đã có bao nhiêu bản dịch lâu nay rồi. Nội cái tựa không thôi cũng được dịch ra nhiều kiểu như Xuân Muộn, Cuối Xuân, Xuân Rãi, Xuân qua, Xuân tận ... Lâu lâu cứ tới tết là mình thấy thêm bản dịch mới, chữ nghĩa thì có khác chút đỉnh nhưng vẫn là ý đó. Nhiều lúc mình nghĩ nếu Phật Hoàng Trần Nhân Tông mà biết đời sau quá bận rộn, ti tiết, sợi tóc chẻ làm tám bài thơ của ông như vậy, chắc ông đã nói :

Thuở nhỏ chưa hiểu rõ sắc không,
Tết mới trăm hoa rộn trong lòng.
Nay đã hiểu rõ tính sắc không
Làm ơn đừng dịch nữa được không ?

Giỡn chút cho vui ngày Tết, chứ thực ra cuộc sống vốn đa dạng, con người càng đa dạng hơn, làm sao nói hết được. Cái hiểu biết của con người thì vô cùng, bất tận, như cái thang hình xoắn ốc cứ bắt lên trời mà đi, không biết đến đâu là tận cùng. Có khi cùng hoành độ nhưng khác tung độ. Có khi cùng một sự việc, nhưng sự nhận thức của ngày hôm nay lại khác xa rất nhiều so với ngày hôm qua. Còn cái "ngộ" thì cũng có "thực ngộ", "giả ngộ". Người “ngộ” thực sự lại chẳng thấy mình ngộ, mà cũng chẳng bao giờ đi khoe đã ngộ, vì thực ra cũng chẳng có cái gì gọi là “ngộ” :-). Còn ông "giả ngộ" lại nghĩ rằng mình đã ngộ, và “ngộ” để làm thơ, để tranh cãi, để làm pháp sư….Nên chuyện thế gian biết đâu mà lần. Cũng khổ. Như Tô Đông Pha thấy mình đã ngộ, nên khoe "Bát phong truy bất xuất", lại được nhà sư Phật Ấn điểm nhãn bằng "Nhất thí mã quá giang" :-).
Thời buổi này thì chùa chiền ngày càng nhiều, sư sãi tăng ni cũng nhiều. Trong nước nhiều đền chùa, mà ở hải ngoại cũng không hiếm. Tín ngưỡng cũng nhiều mà mê tín cũng nhiều. Xưa nay người theo đạo Phật, rất kính trọng Tăng Ni (một trong 3 ngôi Tam bảo). Nhưng cũng nên lưu ý vì chưa hẳn cứ ông nào xuống tóc là nhất thiết ông ấy có nguyện vọng tu tập một cách đúng nghĩa. Thời buổi vàng thau lẫn lộn, thật giả chồng chất lên nhau, nên không phải ông “sư phụ “ nào cũng đúng, cũng thông thái, cũng hiểu biết thấu đáo vấn đề hướng dẫn giúp đỡ người đời tu tập đúng cách. Đặc biệt là mấy ông quốc doanh, còn kinh tế, chính trị chính em trong đó, nên người tu học phải cẩn thận và tỉnh táo tự học cách để phân biệt được đúng sai. Mà đạo nào rồi cũng sẽ gặp những khó khăn như vậy thôi, chỉ là ít hay nhiều. Cho nên nhiều người cho rằng thời này đến chùa, đến nhà thờ, mà phân biệt được đâu là cái áo cà sa, đâu là ông thầy, đâu là đạo pháp; cũng như đâu là cái thánh giá, đâu là ông cha, đâu là lời Chúa … thì là giỏi rồi :-).

Nhớ trong đạo Phật có câu chuyện vui, một cậu bé đi hỏi ông thầy tu được cho là đã "đắc đạo" :

- Hồi xưa thầy chưa đắc đạo, thầy làm gì ?
- Chặt củi, gánh nước, nấu cơm .
- Thế đắc đạo xong, thầy làm gì ?
- Chặt củi, gánh nước, nấu cơm
- Vậy thì đâu có gì khác ?
- Khác là hồi xưa lúc chặt củi, nghĩ chuyện gánh nước, lúc gánh nước nghĩ chuyện nấu cơm. Bây giờ thì làm việc gì nghĩ việc đó thôi !

Đúng vậy. Thực ra nếu đơn giản được như thế thì đã bớt khổ não phiền muộn rồi. Lâu nay biết bao nhiêu kinh sách thiền học, triết gia, tu sĩ, nói về đề tài "sống trong hiện tại". Thầy NH cũng đã chia xẻ rất nhiều về phương pháp hành thiền "Hãy an trú trong hiện tại" ở nhiều nơi trên thế giới. Nhưng cuộc sống này vốn không đơn giản vậy. Nhiều người hiểu rõ lý thuyết, đạo lý, kinh điển, nhưng rồi cả đời vẫn mãi loay hoay không thực hành được cái buông bỏ, đơn giản cho chính mình. Đời sống vốn có quá nhiều thứ phức tạp, dao to búa lớn. Từ con ngưòi đến xã hội, từ tôn giáo đến chủ thuyết, từ bằng cấp cho đến danh xưng, từ địa vị cho đến quyền bính, từ đoàn thể cho đến đảng phái, từ cá nhân cho đến chế độ, từ lý thuyết cho đến chủ nghĩa, từ lạc hậu cho đến ưu việt, từ ăn lông ở lổ cho đến công nghệ 4, 5 chấm ..v.v.  Cho nên không phải chỉ có tôn giáo, mà còn nhiều vấn đề khác trong đời sống, muốn đơn giản cũng chưa chắc được. Lòng người ngổn ngang ham muốn. Có lúc thiên hạ bắt cái đơn giản phải phức tạp theo họ, mới xứng tầm, mới đủ chất , mới thức thời, mới kịp trào lưu :-). Như mình đi cả nửa đời người rồi mà vẫn còn thấy ba lô sau lưng nặng trĩu. Tết ngồi mơ mộng chút, rồi ngày mai lại phải bận rộn theo nghiệp áo cơm !

Một nhà thông thái khác lên tận non cao để chứng minh cái bản lĩnh của mình, vì nghe ông Thầy nổi tiếng "cao tăng". Tay cầm con sâu đố ông Thầy :

- Thầy giỏi vậy, là cao tăng, vậy biết con sâu trong tay tôi là sống hay chết ?"
- Dạ, là con sâu chết !

Nhà thông thái cười ngạo nghễ, mở tay ra, chỉ con sâu còn sống mà nói :

- Vậy mà Thầy cũng đưọc gọi là cao tăng sao ? Thầy nói sai rồi, con sâu này còn sống.

Nói rồi, vứt con sâu ra bụi cây, hí hửng đi xuống núi. Vừa đi vừa dương dưong tự đắc nghĩ rằng ta tài giỏi, ta đã "thắng" được ông thầy đó. Tính ra tài cán của Thầy "cao tăng" cũng chỉ đến thế là cùng, còn bị thua mưu trí của ta.

Và cuộc sống này vốn không hiếm những người tư duy “tài ba” như nhà thông thái đó. Họ vẫn say men chiến thắng, vẫn đề cao cái ngã tối thượng của mình. Đến một lúc nào đó, nếu có duyên, nhà thông thái kia sẽ hiểu ra được tại sao nhà sư nói sai. (Trong điển tích này nhà thông thái được cha của ông chỉ điểm mới hiểu ra vấn đề). Còn nếu không gặp duyên, thì có khi cả đời ông ta vẫn nghĩ rằng mình đã mưu trí thắng được ông sư kia. Và sẽ có nhiều phiên bản (version) của câu chuyện tài giỏi “thắng cả cao tăng”  rêu rao đồn đãi trong thiên hạ. Đúng sai ai biết, mà sướng khổ ai lường ? Nhưng âu đó cũng là những duyên nghiệp bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Theo cách hiểu của nhà Phật, càng ít những chuyện hơn thua thị phi như vậy càng tốt, lòng người sẽ thanh thản hơn và cuộc sống sẽ an vui hơn. 

Ngày đầu Xuân, những người xa quê, thường nghĩ đến gia đình, anh em bạn bè, và quê hương. Nhìn lại quê mình, một đất nước có quá nhiều thiệt thòi, nội chiến, ngoại xâm, chiến tranh dai dẳng hết thời kỳ này đến thời kỳ khác. Về mặt con người, so với những quốc gia khác trong khu vực thì VN đã mất mát và đau thương quá nhiều. Những cuộc chiến huynh đệ tương tàn cứ xảy ra, mâu thuẩn triền miên, bằng mặt nhưng không bằng lòng. Nồi da xáo thịt, kéo dài hết triều đại này đến vương triều khác. Còn thắng thua chỗ nào ? Được mất ra sao? Dĩ nhiên là sự nhận thức của mỗi con người khác nhau. Cái nhìn về thời cuộc cũng luôn thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng hiểu biết của từng người. Người ngoài cuộc hiểu khác người trong cuộc, người thắng cuộc nghĩ khác người thua cuộc, đó là những chuyện thường tình. Có thể là thắng đối với góc nhìn này, nhưng lại là thua ở một góc nhìn khác. Mà cũng chưa chắc là thắng thua, hoặc chỉ là nạn nhân của những tham vọng, sai lầm, hoặc toan tính của các thế lực chính trị nào đó ? Có nhiều câu hỏi mình tin rằng sẽ lần hồi được sáng tỏ theo thời gian, nhưng cũng có những thắc mắc sẽ không bao giờ có lời giải đáp trắng đen rõ rệt. Tất nhiên là mỗi người có cách nghĩ và nhận thức riêng của mình. Câu hỏi quan trọng nhất sau mỗi cuộc chiến vẫn là “đất nước và dân tộc sẽ đi về đâu ?”. Quốc gia có được hưng thịnh hơn và người dân có được tự do hạnh phúc hơn không? 
Thực ra, cho đến thời điểm này, thì VN cũng là một trong vài nước ít ỏi còn lại trên thế giới, vẫn kiên trì đi theo chủ nghĩa Mác Lê. Đó cũng là điểm đặc biệt khác người. Bám trụ bền vững. Trong khi đó những đất nước từng là trụ cột của quốc tế CS như nước Đức của Mác, nước Nga của Lê Nin, cũng đã rời bỏ và thay đổi thể chế chính trị gần 30 năm qua.

Thôi ngừng ở đây, buổi sáng đầu năm bao giờ cũng an bình và lắng đọng. Uống ly cafe, nghĩ đến câu chuyện chặt củi, gánh nước, nấu cơm, sống trong hiện tại. Ngắm cành hoa đào, nhớ chuyện tự thắng thua của nhà thông thái và con sâu. Nghe bài nhạc Xuân nghĩ đến bài thơ cũ gần ngàn năm tuổi, mỗi dịp xuân về vẫn còn là đề tài thi thố của bao văn hào, tri thức, tài tử, thi nhân .....
Năm mới cầu chúc cho quê hương an lành, cho tất cả bằng hữu, anh em cùng gia đình thân tâm an lạc. Hy vọng mùa Xuân mới sẽ đem lại duyên lành và những niềm vui mới cho mọi người !