Showing posts with label Chuyện quê người. Show all posts
Showing posts with label Chuyện quê người. Show all posts

Wednesday, September 02, 2020

Nhân ngày 2/9

Những tài liệu rất quý giá về ngày 2/9/1945. Đọc & nghe để chiêm nghiệm thân phận của một đất nước. (Ở video dưới cùng, người nói là H.R. McMaster, sau này là trung tuớng, cố vấn an ninh quốc gia của Hoa Kỳ.)






Friday, August 21, 2020

Phiếm - Chuyện xưa khó quên

 


Nhớ trong điển tích của nhà Phật, có một câu chuyện nôm na như thế này. Một ông thương gia giàu có, làm ăn giỏi giang, có mấy đứa con tài giỏi. Ông luôn mong đợi những đứa con sẽ nối nghiệp, điều hành doanh nghiệp, làm giàu để vẻ vang cho gia tộc. Ai dè mấy đứa con lại đi theo tăng đoàn đức Phật nghe Pháp. Tức quá ông vô rừng coi thử. Thấy quá vô lý, ở nhà làm ăn, nổi tiếng giàu có, kẻ hầu người hạ cung phụng mà không chịu, lại đi theo ông thầy tu chẳng có tài sản gì, tối ngày ngồi đôi mắt nhắm nghiền, sao thấy trời thấy đất, biết phú quý vinh quang ? Thế là ông sấn tới chửi cho ông Phật một trận, cho biết thế nào là uy lực của một đại gia. Ông Phật vẫn cười như thường lệ, và thiền định tiếp. Ngài thương gia nhìn quanh, cũng nhận ra ít ai có phản ứng gì về thái độ hung hăng của mình, nên rồi cũng từ từ nguội dần và đi về .

Về đến nhà, ông ám ảnh nghĩ hoài vì xưa nay chưa bao giờ gặp người nào mà lại phản ứng như vậy với cơn thịnh nộ của ông, ông Phật mà cũng chỉ mỉm cười ngồi im chịu trận. Nên cũng cảm thấy hối hận chút chút, hôm sau ghé lại nói tiếng xin lỗi với ông Phật. Ông Phật trả lời : "Ta không chấp nhận lời xin lỗi của ông !".

Ông ngạc nhiên, và cả tăng đoàn đều bất ngờ, thấy lạ, vì lâu nay đức Phật thưòng tha thứ cho tất cả mọi người, chấp nhận và đối xứ bình đẳng với mọi tầng lớp, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, quan chức đại gia hay dân thường khốn khổ. Nhưng tại sao hôm nay Ngài lại cố chấp với người thương gia như vậy ?

Người thương gia hỏi tại sao. ĐỨc Phật mỉm cười trả lời - Bởi vì ông hiện không làm gì sai. Ông đang là người tốt hoàn hảo, không có lỗi gì. Nên ta không thể chấp nhận lời xin lỗi của ông được. Người đàn ông hôm qua không có ở đây. Và người bị ông ấy xúc phạm cũng không có ở đây !

Câu chuyện đó được nhiều sách vở sau này trích dẫn, để giảng giải về nhiều khái niệm khác nhau trong cuộc sống, trong đó có nói đến thế nào là một sự tha thứ đúng nghĩa. Một số sách báo lại phân tích xa hơn về khái niệm biến đổi vô thường tất yếu trong tự nhiên, và sự phiền não khi cố bám víu vào những điều đã cũ, không buông bỏ được. Nhưng sách vở nào viết thì cứ viết, ai đọc được thì cứ đọc, còn làm được hay không thì lại là chuyện khác. Thực tế thì thế giới này không hiếm những người thù hận ghen tức cả đời. Dễ gì quên, mà tại sao lại phải quên ? Nhiều người còn sợ quên, năm nào cũng nhắc nhở lại hoặc làm lễ tưởng niệm để nhớ. Có khi đời ta thù một mình chưa đủ, nhét vô đầu con cái kêu nó thù dùm đời tới luôn !

Mà cuộc sống vốn vậy, có nhiều chuyện mâu thuẩn đến vô lý nhưng vẫn cứ tồn tại. Ví dụ như nhiều người gặp lại bạn bè hoặc con cháu ngày xưa, năm bảy chục năm qua đi, cũng không cho bạn bè được quyền thay đổi hoặc con cháu được quyền lớn khôn, chỉ có bản thân họ mới được quyền thay đổi đó :-). 

Dông dài chút, nhưng cái mà mình muốn phiếm hôm nay là những câu chuyện rôm rả, moi móc đời tư ngày xửa ngày xưa, của các ứng viên vào những mùa bầu cử, đặc biệt là bầu cử ở Mỹ. Thực ra thì ở xứ nào cũng vậy, khi trở thành hoặc sắp trở thành người của công chúng, thì phải chấp nhận đời tư bị moi móc, thiêu dệt. Còn chuyện đó thật giả thế nào cũng khó ai mà biết được. Nhiều người không phải là người của công chúng, mà vẫn bị soi ngắm dệt chuyện, huống hồ chi là nhừng ứng viên mà cả thiên hạ chỉa mũi dùi vào. Tính ra ở những xứ sở mà lạng quạng là phạt nóng mấy triệu liền, hoặc mời lên phường làm việc, thì thiên hạ còn sợ chút. Chứ ở những xứ tự do ngôn luận như Mỹ thì ôi thôi thượng vàng hạ cám, tin thiệt tin giả, tin vịt tràn lan, cứ thế mà tuôn trào. Nhiều ông còn đem lên youtube, lên radio, TV mà bình luận. Cứ phán nghe y như thật, ghét bên nào thì dập bên đó, ai tin được thì tin. Còn chuyện đấu đá thì cứ nhắm dưới thắt lưng mà đánh, từ dưới đáy đánh lên, cho nên những thập niên sau này cũng thưa dần những người tài ba thực sự ra tham gia chính trường. Dĩ nhiên có nhiều lý do, trong đó có lý do họ không muốn gia đình con cái và bản thân bị quấy nhiễu phiền phức, và càng không muốn cạnh tranh với nhau bằng cái xấu chứ không phải bằng cái tốt, đo lường nhau bằng thủ đoạn chứ không phải bằng tài năng !

Bởi vậy, cứ mỗi mùa bầu cử là báo chí, thiên hạ lại lôi ra đủ thứ vấn đề, trai gái, rượu chè, cờ bạc, gian lận... đủ cả. Rồi khi mùa bầu cử qua đi, cũng chính những người "xấu xa" đó lại điều hành xã hội, đất nước của họ. Xong mọi chuyện lắng đọng ít lâu, đợi đến kỳ bầu cử sau, lại lôi ra nói xấu tiếp. Nhiều câu chuyện cũ rích cũ rơ, cũng lôi ra để dìm hàng nhau, để phán xét lẫn nhau. Nhiều người có nghiên cứu sách vở, hiểu và quan niệm cuộc sống vốn "vô thường", nhưng khi đụng đến chuyện phán xét người khác, thì nó phải "thường" mới được. Nhiều người gắn bó sâu sắt quá với cái quá khứ nên cũng khó buông bỏ để nhận ra chân tướng của hiện tại. Nên lỡ thương thì trái ấu cũng tròn, lỡ ghét thì bồ hòn cũng méo. Dĩ nhiên cũng có nhiều người thấy bạn bè ghét thì ghét theo, thấy anh em thương thì mình bầu, chứ cũng chẳng rõ tốt xấu ra sao. Đúng sai thì miễn bàn ở đây, nhưng quả nhiên là muốn có những sự đánh giá công bằng, buông bỏ khách quan trong xã hội này thực không phải là chuyện dễ dàng chút nào. Mà ai cũng vậy thôi, tây tàu gì cũng thế, định kiến cá nhân bao giờ cũng khó thay đổi nhất.

Đôi khi mình có cảm giác là thiên hạ cứ săm soi vào những chuyện "ngày ấy xa rồi", hoặc những lỗi lầm nhất thời ngày xửa ngày xưa .... của các vị  ứng viên, mà xao lãng đi chuyện ghi nhận những gì đang xảy ra trong hiện tại, họ đã thay đổi như thế nào, và họ đang đóng góp được điều gì trong công việc hiện tại. Nhớ lại hồi đó mình còn ở VN, nhiều lúc nghe người ta nói về lý lịch dĩ vãng "oai hùng" của ông lớn này hoặc bà lớn nọ, mình cứ thắc mắc không biết cả nhiệm kỳ (hoặc vài nhiệm kỳ) họ đã làm được điều gì và thay đổi được điều gì ? Đặc biệt là mấy ngài bộ trưởng. Cuối cùng mới nghiệm ra rằng đi họp, ký giấy, phát bằng khen, phát lương, và giữ cho không bị đi tù, cũng là những công việc không nhẹ nhàng tí nào !

Còn như ở Mỹ, khi nói đến chuyện T/T Trump thì vô vàn bất tận. Trước hết phải công nhận là trong lịch sử nước Mỹ chưa có một vị tổng thống nào từ khi chưa lên chức cho đến khi tại chức, mà có nhiều chuyện, nhiều đề tài để nói và xỉa xói đến như vậy. Báo chí công kích hầu như mỗi tuần mỗi ngày. Bao nhiêu chuyện đời tư, thói ăn cách mặc, đạo đức ứng xử, em út gái gú, vợ con bạn bè, thói hư tật xấu gì lôi ra hết. Rồi ai nói cứ nói, ai phán cứ phán, ông cứ tiến lên, cứ tweet, ai phang ông là ông phang lại. Thế thôi .... :-)

Nhưng nhiều lúc coi TV hoặc tin tức, thấy những chuyện cần thiết hơn như là phân tích khách quan và ghi nhận ông đã làm được những gì lâu nay và kế hoạch sắp tới, cũng như phân tích khả năng hiện thực cho những chọn lựa khác của nước Mỹ, hoặc kế hoạch đổi thay cụ thể như thế nào ... thì lại ít nghe người ta nói đến. Mới đây cô cháu gái của T/T Trump xuất bản cuốn sách lôi hết đời tư lý lịch ba đời của cô và gia đình ra, dĩ nhiên chừa phần lớn nhất cho ông chú ở Nhà Trắng. Mới tháng trước đây, ông cố vấn an ninh từng thận cận viết sách kể tội, rồi tháng 9 tới đây ông luật sư riêng cũng sẽ cho ra cuốn sách mới nữa ...chắc chắn cũng chẳng phải là tin tốt đẹp gì. Nói chung toàn là chuyện nói xấu, soi từng tơ răng kẻ tóc. Mình luôn quan niệm ông T/T nào cũng có cái hay cái dở nhất định của họ. Muốn ông nhà buôn làm tổng thống thì phải khác ông chính khách. Muốn ăn bún bò Huế thì phải chịu cay, muốn hương vị đậm đà thì làm tô bún mắm. Cũng may là ông T/T có sức khoẻ, không rượu chè nhậu nhẹt, cafe thuốc lá, chứ gặp ai yếu yếu, bị đả kích xỉa xói cỡ đó, chịu áp lực không nỗi, dám tiêu rồi :-). Không binh ai ghét ai, không phán xét ai, cũng không biết ai thắng ai thua, nhưng mình luôn mong mỏi rằng người dân lúc nào cũng đủ sáng suốt để có một sự chọn lựa khách quan đúng đắn cho đất nước của mình. Đó cũng là một đặc ân mà không phải dân tộc nào cũng may mắn có được !

Và lâu nay cứ mỗi lần mà cảm thấy quá tải với những câu chuyện "dĩ dãng", hận thù đố kị dai dẳng, thì mình lại nhớ đến câu chuyện của ông Phật và ngài đại gia năm nào .....


Saturday, July 18, 2020

Phiếm: Ám ảnh mơ hồ !


Mấy hôm nay báo chí và mạng xã hội VN đăng tải nhiều bài viết về bác sĩ Trần Đông A. Có lẽ bắt đầu từ câu chuyện mổ tách cặp song sinh dính liền Trúc Nhi - Diệu Nhi. Thực ra thì mấy chục năm trước, ca mổ tách Việt - Đức năm 1988 của BS Đông A cũng đã gây rất nhiều sự ngạc nhiên của thế giới y khoa thời bấy giờ. Và rồi, cũng như lần trước, báo chí bắt đầu kể lể lại những câu chuyện xưa của BS Đông A, từng là sĩ quan quân y lính Dù của chế độ cũ với đầy thiện cảm. Nhiều người cũng nhắc lại câu chuyện ông Sáu Dân (Võ văn Kiệt) biết trọng người tài, khéo léo bảo kê cho BS Đông A về, chứ không cũng đã đi vượt biên mất tiêu rồi. Mà thời đó không phải chỉ có chuyện bs TĐA, ai cũng nghe những giai thoại về ông Sáu Dân đi bảo lãnh và giữ chân nhiều vị hiền sĩ, nhân tài, khoa học của chế độ cũ ở lại làm việc cho VN. Trong đó có những vị mà mình cũng đã từng may mắn được gặp sau này. Chắc chắn đó mãi là những câu chuyện hay, đầy tính nhân văn, thể hiện được sự thông cảm và tôn trọng nhau của những con người hiểu biết, cho dù đã có lúc không cùng chiến tuyến với nhau.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng bs Trần Đông A và nhiều vị trí thức nhân sĩ khác được ông Sáu Dân mời giữ lại, là hoàn cảnh có chút may mắn đặc biệt. Vì nếu như thời đó các vị ấy kém may mắn sống ở những địa phương khác chứ không phải SG, như các tỉnh miền Trung chẳng hạn, hoặc là tên tuổi tài năng chưa có cơ hội lọt đến tai ông Sáu Dân, thì cuộc đời họ chắc đã rất nhọc nhằn trên những lối rẽ khác !
Ví dụ như nói về binh chủng Dù và TQLC ngày xưa, mỗi binh chủng đều có một tiểu đoàn quân y, với hàng trăm bác sĩ nha sĩ dược sĩ tài năng, và hàng bao nhiêu đội ngũ nhân viên y tá, cứu thương, bệnh viện, trạm xá các cấp... Những người quân y sĩ đó đã không những cứu thương cho đồng đội của mình, mà nhiều lúc còn sẵn sàng cứu thương cho cả đối phương của họ và những ai còn nằm lại trên trận tuyến, khi hoàn cảnh cho phép. Trách nhiệm công việc, nguyên tắc nghề nghiệp, và lòng nhân đạo sẽ không cho phép họ làm khác hơn. Và dẫu biết rằng cuộc chiến tranh nào cũng vậy, nguyên nhân không nằm ở chỗ những người lính, đặc biệt là lính quân y. Nhưng cuối cùng khi cuộc chiến kết thúc thì bao nhiêu người trong số đó được trọng dụng như BS Đông A, và bao nhiêu người phải rơi vào những số phận bi thảm khác ?

Cho nên cũng hy vọng những câu chuyện như thế này sẽ là cơ hội tốt để nhìn lại những được mất của đất nước từng bị ảnh hưởng bởi tư duy hận thù, phân biệt đối xử dựa trên lý lịch nhân thân nhiều đời, "thành phần chính trị"..v.v. Nhất là trong bối cảnh cả gần nửa thế kỷ một đời người trôi qua, mà nhiều người nhìn đâu cũng còn thấy "ta" với "địch". Một nỗi ám ảnh mơ hồ !

Nhân nói đến chuyện ứng xử thời hậu chiến, mỗi khi nhắc về cuộc nội chiến Nam-Bắc ở Mỹ, nhiều người thường ca tụng sự cao thượng của tướng Grant (miền Bắc - bên thắng cuộc). Vì ông đã ra sức bảo vệ tướng Lee (miền Nam - bên thua cuộc) và cả binh sĩ đôi bên được an toàn trở về quê hương cùng nhau xây dựng đất nước. Thời đệ nhị thế chiến cũng thế, cả thế giới ca tụng sự cao thượng vĩ đại của tướng MacArthur (Mỹ) đã bảo vệ cho ngôi vị của Nhật Hoàng Hirohito (bên thua trận) và giúp đỡ xây dựng lại một đất nước Nhật Bản phồn thịnh. Mãi cho đến ngày hôm nay, đất nước Nhật vẫn tôn kính và biết ơn tướng Douglas MacArthur (bên thắng cuộc) như một anh hùng "dân tộc" của đất nước họ. Còn mình thì lúc nào cũng tự hào về anh hùng Nguyễn Trãi và câu chuyện Hội thề Đông Quan của nước Việt. Quả nhiên "một chiến thắng hoàn hảo nhất là chiến thắng không có kẻ chiến bại !"

Ngài Gandhi của Ấn độ có một câu nói rất nổi tiếng "The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong". (Tạm dịch: Kẻ yếu không thể tha thứ, bởi sự tha thứ là thuộc tính của kẻ mạnh). Mình thì không muốn lạm bàn về chuyện mạnh yếu ở đây, nhưng vẫn thường nghĩ rằng con người ai cũng mong muốn được phụng sự cho tổ quốc và đồng bào của họ dưới nhiều hình thức khác nhau. Một thể chế tiến bộ và xã hội văn minh là xã hội tận dụng được sự đa dạng đó, chứ không phải là một xã hội phân biệt kỳ thị, mang nặng định kiến hận thù !


Monday, June 01, 2020

Phiếm: Bao giờ mới hết kỳ thị ?




Mấy hôm nay những người theo dõi tin tức đều biết đến vụ anh cảnh sát Mỹ trắng (Derek Chauvin) ở Minnesota đè cổ anh Mỹ đen (George Floyd) lâu quá, dẫn đến tử vong. Mới nhìn vô thì dường như ai cũng nhận ra là lỗi của người cảnh sát, đã hành xử quá đáng trong lúc thi hành công vụ. Nhưng đối với luật pháp ở Mỹ cũng như các nước dân chủ khác, nếu chưa được toà án xét xử, thì cũng chưa dám kết luận điều gì. Tất nhiên là sự việc này có thể chỉ là sai phạm cá nhân, chứ chẳng liên quan gì đến ông sếp hoặc ông thị trưởng, hoặc ông tổng thống, hay chính sách chủ trương gì cả. Cũng có khi chưa chắc là vì kỳ thị đen trắng, nhưng phản ứng đám đông thì bao giờ cũng dẫn dắt vấn đề đi theo những lối rẽ khác nhau, khó mà dự đóan được.

Thế là mấy ngày nay dân chúng Mỹ (đủ sắc dân, kể cả da trắng) biểu tình rầm rộ ở nhiều nơi đòi công lý và đòi chấm dứt tình trạng phân biệt màu da. Đây là việc làm đúng và hoàn toàn hợp pháp, thể hiện quyền tự do biểu đạt của người dân, đòi hỏi sự thoả đáng của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó lại là những đám quá khích lưu manh, thừa gió bẻ măng, đập phá, hôi của, và xâm phạm tài sản người khác. Dĩ nhiên là thời đại nào, quốc gia nào, cũng có thành phần "tát nước theo mưa", "mượn gió bẻ măng "như thế, khó mà tránh khỏi. Đây là loại tội phạm nghiêm trọng, cần phải ngăn chận và trừng trị.

Hôm qua có anh bạn hỏi "Thế tình trạng kỳ thị này có được chấm dứt không ?" Theo thiển ý của mình thì cơn sốt biểu tình bạo loạn nào rồi cũng sẽ qua đi, xưa nay vẫn thế, nhưng sự kỳ thị trong lòng con người chắc chắn sẽ còn kéo dài. Bởi đó là thuộc tính của con người. Luật pháp chỉ là những lá chắn để bảo vệ sự bình đẳng cho xã hội thôi, nhưng không thể làm thay đổi được trí tuệ & tư duy của những con người nhỏ nhen thiển cận. Kỳ thị màu da, kỳ thị giới tính, kỳ thị địa vị, kỳ thị vùng miền, kỳ thị gốc gác....v.v... Đó là những ý niệm thuộc về tư duy và đạo đức của từng cá nhân, mà chỉ có giáo dục và sự tỉnh thức hiểu biết mới làm thay đổi được tư duy đó.

Mấy hôm nay cũng có nhiều người bình phẩm và phê phán về sự kỳ thị chủng tộc của Mỹ rất nặng nề. Mình thì quan niệm là thấy lỗi thiên hạ bao giờ cũng dễ hơn thấy lỗi của mình, phê phán thiên hạ bao giờ cũng dễ hơn thay đổi bản thân mình. Ở đâu cũng có sự phân biệt kỳ thị, chỉ là ít hay nhiều. Riêng nói về tư duy kỳ thị, thì VN ta cũng "không phải dạng vừa", có nguồn gốc xa xưa và kéo dài qua nhiều thế hệ. Từ thời phong kiến đã hình thành những sự phân biệt kỳ thị nặng nề, giàu nghèo, địa vị xã hội, gốc gác, ông sơ bà cố, bằng cấp, môn đăng hộ đối ..v.v. Ngay đến thời nay, cho dù có chấp nhận hay không, thì các hiện tượng ganh ghét, kỳ thị, phân biệt đối xử .... vẫn nhan nhản xảy ra hàng ngày đấy thôi. Nhiều người đến chết đi chôn vẫn còn bị kỳ thị mả to mồ lớn. Ngay cả ở những buổi tiệc họp mặt, bà con láng giềng gần gũi, họp tộc, họp làng, họp đồng hương, họp bạn bè chung trường chung lớp, thì chuyện kỳ thị vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Huống hồ chi là nói đến chuyện mấy anh tây trắng tây đen có lịch sử phân biệt kỳ thị chồng chất lâu đời. Mỹ là hợp chủng quốc, một đất nước được hình thành bởi dân di trú, có nhiều nguồn gốc xuất xứ khác nhau. Đúng ra họ sẽ dễ dàng chấp nhận sự khác biệt hơn những quốc gia "thuần chủng" khác. Tuy nhiên thực tế không hẳn là như vậy, vì còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố xã hội khác nhau và tư duy trình độ của mỗi con người. Nên cứ lâu lâu lại xảy ra một sự kiện đình đám, biểu tình la hét rầm rộ. Chủ yếu vẫn là nạn kỳ thị đen trắng, phân biệt đối xử, đánh đập bắn nhầm, cảnh sát da trắng, nghi phạm da đen da màu .v.v... Chỉ là lần này xảy ra trong lúc mọi người đang bị áp lực nặng nề về dịch bệnh kéo dài, nên phản ứng có vẻ bộc phát mãnh liệt và căng thẳng hơn. Và dĩ nhiên cũng không loại trừ khả năng có những bàn tay lông lá vẽ rồng vẽ rắn, lợi dụng thời cơ, mở đường truyền thông cho cuộc bầu bán tổng thống cuối năm hoặc những mục đích chính trị đảng phái khác. Who knows ?

Cuối cùng thì chắc chắn mọi chuyện xáo trộn cũng sẽ được giải quyết, lắng dịu. Nhưng sự kỳ thị thì sẽ còn dài dài, ít hay nhiều, lộ liễu hay kín đáo, công khai hay lén lút... là tuỳ vào luật pháp và thông điệp của xã hội đối với tệ nạn này. Sự kỳ thị sẽ không hoàn toàn biến đi vì đó là thuộc tính của con người. Chỉ hy vọng là với thời gian, giáo dục và luật pháp sẽ lần hồi xây dựng được những nếp suy nghĩ mới, để xã hội có cái nhìn công bằng hơn & ứng xử với nhau tử tế hơn. Rõ ràng là như ở Mỹ hiện nay, thế hệ con cái của mình có quan niệm bình đẳng hơn thế hệ mình và những thế hệ trước đây. Ví dụ ở nhà, đôi khi mình sơ ý dùng từ "Mỹ đen" thôi, chứ chưa nói đến tốt xấu gì cả, là đã bị 2 đứa con chỉnh sửa ngay. Điều đáng lưu ý hơn nữa là tụi nhỏ tôn trọng giá trị của bình đẳng và công bằng một cách chân thực, chứ không phải chỉ "diễn tuồng" như những thế hệ đi trước.

Nhớ lại vào thời cuối thập niên 70, đầu 80 ở VN, chính sách phân biệt thành phần chính trị và lý lịch gia đình được thi hành triệt để, nhất là ở các tỉnh miền Trung. Nhiều gia đình và cá nhân phải gánh chịu những hậu quả đắng cay, mất mát. Rất nhiều người không được đi học, đi làm, một cách bình đẳng như những người khác. Đặc biệt là đối với những gia đình miền Nam, từng có người thân làm việc cho chính phủ VNCH ngày trước. Dĩ nhiên là bên cạnh đó cũng không hiếm những cán bộ địa phương hiểu biết hạn hẹp, ý thức sai lệch, đã lợi dụng luật pháp (như anh cảnh sát Minnesota hôm nay), mà trù dập thiên hạ vì những lý do khác nhau, hoặc mâu thuẩn vì quyền lợi cá nhân. Cho nên đã có rất nhiều người phải đau lòng, gạt nước mắt rời bỏ làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của họ, để ra đi tìm miền đất dung thân mới. Mình cũng có người bạn rất thân, đậu thủ khoa ĐHBK ĐN thời bấy giờ, nhưng địa phương không cho đi học, bắt phải đi nghĩa vụ lao động trên rừng núi cao nguyên. Đến khi mãn hạn về lại, thi đậu, đi học ở ĐHKT ở SG, cũng không xong. Thế là cuối cùng đành bỏ xứ ra đi, và chết trên biển cả mất xác !
Cũng nhớ vào thời đó, có quyển truyện dịch "Hãy để ngày ấy lụi tàn" của Gerald Gordon (nguyên tác là Let The Day Perish), nói về nạn kỳ thị chủng tộc ở Nam Phi. Giới trẻ xôn xao, chuyền tay nhau đọc. Có lẽ họ cảm thấy gần gũi vì tìm được phần nào những cảm xúc tương đồng. Nhiều người đọc xong đã khóc sụt sùi như khóc cho chính bản thân của họ. Nhưng đó là chuyện ngày xưa, hy vọng đất nước VN ngày càng văn minh hơn, những lỗi lầm đó sẽ không còn tái diễn nữa.

Lâu nay mình vẫn luôn nghĩ rằng tôn giáo là giải pháp tốt nhất cho nạn kỳ thị và bất bình đẳng giữa người với người. Bởi lẽ tôn giáo nào cũng dạy dỗ sự chung sống hoà bình, và kêu gọi không phân biệt đối xử. Đúng là như vậy, nhưng thực tế thì không phải lúc nào thiên hạ cũng nghe theo, làm theo giáo lý của họ. Thậm chí nạn kỳ thị phân biệt còn xảy ra ngay cả giữa các tín đồ, giáo hữu với nhau, hoặc trong các giáo hội, ban đại diện, các tổ chức thiện nguyện, nhân đạo....v.v. Ở một số nơi, những phân biệt như chùa to chùa nhỏ, nhà thờ lớn nhà thờ bé, cúng nhiều cúng ít, đại gia tiểu gia, ông này bà nọ, đạo hữu quan chức, tín đồ doanh nhân, đệ tử thầy này sư nọ .v.v.... vẫn còn là những chuyện xảy ra mỗi ngày. Mà xảy ra ngay cả ở trên những đất nước văn minh, luật pháp hẳn hoi, chứ không phải chỉ có ở những làng quê nghèo nàn hẻo lánh, chậm lụt phát triển. Bởi vậy nói đến vấn nạn kỳ thị, thì có thể tìm thấy ở khắp nơi, ở mọi thành phần xã hội, mà chẳng ai có thể dự đóan và khẳng định được điều gì. Suy cho cùng, thì cũng chẳng có ông Phật, ông Chúa nào mà có thể bứng được cái cục vàng "kỳ thị phân biệt" trong lòng của mỗi con người, nếu như bản thân họ không tỉnh thức, hạn hẹp, cứ khư khư bảo thủ, giữ lấy làm của riêng để đem theo về chốn thiên đường  :-).

Còn trở lại chuyện dân thiểu số ở Mỹ, và nguồn gốc kỳ thị có từ đâu, thì lại là những câu chuyện khác nữa. Nói ra cho đủ thì cả một lịch sử dài từ thời khai quốc, mua bán nô lệ, giải phóng nhân quyền, phong trào đấu tranh, bình đẳng dân chủ .v.v.. Cho đến ngày nay những con số thống kê tội phạm dài đăng đẳng, cách ăn cách ở, nhảy múa sinh hoạt hàng ngày. Đó cũng là nguyên nhân ít nhiều gây ra những thành kiến nhất định ở một số người phân biệt, hoặc thiểu số cảnh sát có tầm nhìn hạn hẹp, có định kiến không tốt về dân da màu. Thực tế thì ở Mỹ, người da màu chiếm tỉ lệ rất cao trong hàng ngũ cảnh sát, và lãnh đạo các cơ quan công quyền của tiểu bang và liên bang. Tuy nhiên đó cũng không phải là số đông so với người da trắng. Còn nói về nhân viên công lực ở Mỹ, thì đại đa số là người tốt, họ tuân thủ lời thề chức trách công việc, bảo vệ luật pháp, bảo vệ người dân, gìn giữ trật tự an ninh xã hội. Thế nhưng làm sao tránh khỏi chuyện "con sâu làm rầu nồi canh". Cho nên chuyện "bad cop, good cop" thì ở đâu cũng có, chỉ là ít hay nhiều.

Tóm lại, rất mong mọi chuyện sớm được giải quyết. Mong toà án và chính quyền sớm xét xử thoả đáng, công lý sớm được thực thi, để cho người dân yên lòng hả dạ. Còn mấy anh hôi của ăn ké, tát nước theo nước, mong sớm bị tóm cổ hết, để trả lại sự bình an cho xã hội. Cũng cầu mong những con người chất chứa hận thù & nặng nề chuyện phân biệt kỳ thị, thì ngày mỗi trưởng thành hơn để công bằng với chính bản thân họ, và đối xử tử tế với kẻ khác, đặc biệt là đối với những kẻ nghèo hèn cô thế, thấp cổ bé miệng hơn họ....

Viết tới đây tự nhiên nhớ đến bài thơ "Mộng Ngày" của Thầy Tuệ Sỹ, mặc dù không liên quan gì đến nạn kỳ thị của xã hội, nhưng mình chép lại để các bạn thưởng thức:

Ta cỡi kiến đi tìm tiên động
Cõi trường sinh đàn bướm dật dờ
Cóc và nhái lang thang tìm sống
Trong hang sâu con rắn nằm mơ

Đầu cửa động đàn ong luân vũ
Chị hoa rừng son phấn lẳng lơ
Thẹn hương sắc lau già vươn dậy
Làm tiên ông tóc trắng phất phơ

Kiến bò quanh nhọc nhằn kiếm sống
Ta trên lưng món nợ ân tình
Cũng định mệnh lạc loài Tổ quốc
Cũng tình chung tơ nắng mong manh

Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh
Ngoài hư không có dấu chim bay
Từ tiếng gọi màu đen đất khổ
Thắp tâm tư thay ánh mặt trời?

Ta gọi kiến, ngập ngừng mây bạc
Đường ta đi, non nước bồi hồi
Bóc quá khứ, thiên thần kinh ngạc
Cắn vô biên trái mộng vỡ đôi

Non nước ấy trầm ngâm từ độ
Lửa rừng khuya yêu xác lá khô
Ta đi tìm trái tim đã vỡ
Đói thời gian ta gặm hư vô 
(Tuệ Sỹ 1984)


PN (2020)












Sunday, April 12, 2020

Những tiếng vỗ tay mùa đại dịch Vũ Hán




Hôm nay ngày lễ Easter (Phục Sinh). Hàng năm vào tuần này, nhiều nơi, nhiều khu phố, nhà thờ, hội đoàn ... tổ chức các trò chơi cho các em bé, ca hát nhảy múa vui chơi. Gia đình, bạn bè, sẽ có những buổi hội họp ăn uống, để chào mừng không khí mùa xuân bắt đầu. Nhưng năm nay thì không, không hội hè đình đám, không bạn bè thân hữu tập trung. Nhiều nhà thờ cũng không tổ chức hội họp. Đức Giáo hoàng Francis cũng làm lễ Thánh trong giáo đường St. Peter's Basilica lặng lẽ.

Tuy nhiên, những khoảng cách không gian, những social distancing trước đại dịch Vũ Hán đã không làm cho con người quên đi những khoảng lặng của tình người, lòng tri ân cuộc sống, và những giá trị nhân bản cần thiết của xã hội. Chiều nay 6g, nhiều người dưới thành phố mình đang sống, hẹn nhau cùng mở cửa vỗ tay tri ân những người y tá, bác sĩ, cảnh sát, nhân viên y tế xã hội ....v.v...đã không sợ nguy hiểm làm việc ở tuyến đầu chống dịch Vũ Hán. Trên thế giới, mấy tuần qua, nhiều quốc gia, nhiều địa phương, cũng đã làm như thế để tri ân, để tạ ơn, để cổ vũ những người "thiên thần áo trắng" ngày đêm chống dịch cứu người. Nhiều nơi, các nhà hàng, các khu phố còn đem những thức ăn thức uống, hoặc các dụng cụ bảo hộ trao tặng cho đội ngũ nhân viên ý tế coi như thay lời cảm tạ. Mình rất xúc động và trân trọng những ứng xử nhân văn như thế.

Nghĩ đến đôi lần mình coi tin tức bên VN, thấy các "đại gia" hay "đại ca anh chị" gì đấy, hoặc thành phần bất hảo ... vào tận bệnh viện chửi chém bác sĩ y tá, mà rùng mình ghê sợ. Dĩ nhiên là cũng có những người bác sĩ y tá tắc trách trong công việc hoặc tranh thủ cơ hội lợi dụng, chứ không thể hoàn hảo tuyệt đối được. Nhưng một nền giáo dục mà dẫn đến tình trạng đánh thầy cô, cướp sư sãi, chém thầy thuốc ... .v.v...thì có nhiều thứ phải đáng suy gẫm lại.

Những người thầy thuốc, đội ngũ y tá bác sĩ, trong xã hội nào cũng đáng được tôn trọng. Bởi nếu họ nhỏ nhen, đố kỵ, phân biệt chính trị, sang hèn, sướng khổ, màu da, chủng tộc ... thì xã hội này đã loạn từ lâu rồi. (Tất nhiên là ở đâu và thời nào cũng có những cá nhân lợi dụng cái nhãn mác bác sĩ, y tá, lương y, để làm những chuyện sai trái. Nhưng đó chỉ là thiểu số, và chuyện nên lưu ý nhận xét & phân tích để đề phòng luôn là cần thiết).

Xin mạn phép nhắc lại một ký ức tuổi thơ của mình. Thời mình còn nhỏ, Má mình làm y tá, trông coi một Trạm Xá ở một vùng chiến tranh ác liệt, "ngày quốc gia đêm cọng sản". Nhiều lúc nửa đêm, mờ sáng, cũng phải đi băng bó cứu thương cho đồng bào hay binh lính. Có đêm hoả châu, đại bác vang rần, Má đi mà cả nhà thấp thỏm đợi chờ lo lắng. Thời đó chiến tranh ngày càng khốc liệt, quanh vùng quê mình, cứ đêm về, bom mìn bẫy gài giăng đầy, đến sáng mới được gỡ. Hên xui may rủi, sống chết khó lường, nhưng rồi may mắn mọi chuyện cũng qua. Chiến tranh nào cũng tàn nhẫn, và người dân luôn là kẻ bị thiệt thòi.
Nhớ nhiều lần mình đi theo Má trong những đợt phát thuốc sốt rét hay chích ngừa cho đồng bào ở miền núi, vùng sâu vùng xa, bán an ninh. Có khi có cả lính Mỹ đi theo, để bảo vệ nhân viên Hội chữ thập đỏ, tổ chức Y tế thế giới v.v... Ai cũng biết là trong số những người dân đen đó có cả những người cán bộ, du kích, kháng chiến quân. Nhưng đã làm ngành nghề này thì thấy ai chết cũng phải cứu. Cuộc sống ở vùng "bán an ninh" đều như thế, không thể biết ai là ai, nhưng người dân nào bịnh cũng phải được cứu chữa. Người dân nào cũng được quyền chăm sóc, phải được chích ngừa phát thuốc bình đẳng như nhau. Má mình cũng như bao nhiêu người làm công việc y tế cứu thương khác ở vùng chiến tranh, cho dù cận kề cái chết, đi sớm về khuya, cũng phải làm nghĩa vụ của mình. Cũng giống như những người y tá bác sĩ ngày nay, bất kể là gốc đen trắng vàng đỏ, giàu nghèo sang hèn, ai cũng phải được cứu trị. Thâm chí nhiều vị bác sĩ y tá chấp nhận rủi ro lây nhiễm, sống chết để cứu người khác, cũng là chuyện bổn phận bình thường mỗi ngày.
Nói đến đây, nhớ lại thời 1975, có mấy ông cán bộ địa phương đến kêu Má mình phải đi học tập cải tạo vì từng làm việc cho "Mỹ Nguỵ". Vừa buồn cười vừa xót xa !

Nhưng đó là chuyện đã xa rồi. Thời này, chắc chắn ai cũng văn minh hơn, nhân bản hơn. Xin hãy tri ân những người thầy thuốc ngày đêm tuyến đầu chống dịch bệnh cứu người. Nếu không có gì quý tặng nhau, không vỗ tay cổ vũ nhau, thì ít ra cũng xin đừng chửi chém nhau !

Cầu mong bệnh dịch Vũ Hán sớm qua. Chúc mọi người an lành. Và trân trọng ghi ơn những vị anh hùng áo trắng đã hy sinh cứu người trong cơn đại dịch khủng khiếp này.

Dưới đây là chương trình Hát cho Hy vọng của Andrea Bocelli, trình diễn hôm nay.
(Andrea Bocelli: Music For Hope - Live From Duomo di Milano)


Friday, March 20, 2020

Tia sáng cuối đường hầm



Hôm qua, Mark Zuckerberg (Facebook) đã có một cuộc phỏng vấn khá chi tiết với Dr. Anthony Fauci - người hiện nay được cho là chuyên gia bậc nhất về các dịch bệnh do virus gây ra. Nếu quý vị nào nghe được tiếng Anh, nên nghe. 

https://www.usatoday.com/story/tech/2020/03/19/mark-zuckerberg-facebook-anthony-fauci-coronavirus-covid-19/2881623001/

Nhiều vấn đề được đưa ra nhưng đa phần liên quan đến nước Mỹ. Riêng về dịch Vũ Hán đại khái có những điểm cần lưu ý như sau:

- Hiện tại thuốc ngừa (vaccin) của bịnh covid-19 đã tiêm chủng vào 45 người thiện nguyện tại Mỹ . Tuy nhiên theo BS. Fauci, sau vài tháng sẽ là đợt thử 2 trên diện rộng nếu có phản ứng tốt . Đó là quy định an toàn bắt buộc, nên sớm nhất để có vaccin cho dịch cúm Vũ Hán phải trên 1 năm . Ông cho rằng từ năm 2002 đến nay đã có mấy lần dịch coronavirus (SARs, MERs ...), nên ông nghĩ hợp lý hơn là nghiên cứu và sản xuất vaccin cho tất cả các chủng Corona thay vì chỉ tập trung vào COV-19. Vì nếu không, sẽ tiếp tục còn các chủng corona mới trong tương lai .

- Do vậy, nên giải pháp thay thế là tìm kiếm các loại thuốc đã có sẵn ngoài thị trường, hoặc sắp hoàn chỉnh, để xài cho tình hình hiện nay. Như thế sẽ nhanh hơn và giải quyết được tình trạng cấp bách. Ông có nhắc đến một số tên thuốc, trong đó có chủng loại chống sốt rét đã được sử dụng bao nhiêu năm nay, là ký ninh thần thánh .....

- Nói về các chủng loại thuốc ký-ninh thì VN ta quá quen thuộc rồi. Từ thời chiến tranh, nằm rừng chống muỗi, hoặc dân cư vùng quê vùng sâu vùng xa ....nhiều người đã từng nếm qua. Đến thời bình, hết sốt rét, dư đủ rủng rỉnh, thì lại xài ký-ninh để pha chế cafe, tẩm thực phẩm, nấu bánh ..... cho đậm đà hương vị, đẹp mắt, lâu hư ..v.v.. Gần gũi & quen thuộc.

- Một lưu ý rất đáng quan tâm, BS Fauci từng nhắc đi nhắc lại nhiều lần ở các cuộc họp báo khác là : Giới trẻ (U30) sẽ rất ít bị ảnh hưởng bởi virus Vũ Hán. (Có thể bị nhiễm bệnh nhưng lướt qua được, và không có triệu chứng nguy hiểm bên ngoài) . Cũng bởi thế nên nhiều người trẻ không biềt mình nhiễm bệnh . Tuy nhiên họ vẫn là nguồn gây bệnh cho kẻ khác nguy hiểm nhất, nhất là với những người lớn tuổi và có tiền sử bệnh tật . Nên ông kêu gọi giới trẻ nên hiểu biết và giữ gìn cho người khác, cách ly để đừng phát tán cơn bịnh này )

- Còn nói đến yêu cầu thử nghiệm và điều kiện để chấp thuận một loại thuốc mới ở Mỹ thì rất là khắt khe, nên lúc nào cũng đòi hỏi những quy trình thử nghiệm (clinical trials) cẩn thận chi tiết. Đây là một chính sách và phương thức rất tốt, tôn trọng giá trị sinh mạng con người. Nhưng có thể là một yếu điểm trong những tình hình cấp bách như hiện nay. (Cho dù tổng thống Trump rất ủng hộ giải pháp thay thế này). Tuy nhiên, ở các nước châu Âu thì quy trình thử nghiệm dễ dàng hơn. Mấy hôm nay bên Pháp đã thử nghiệm lâm sàng phương thức dùng ký ninh kết hợp, rất hiệu quả & thành công. Mỹ cũng đang thử nghiệm áp dụng chloroquine (một chủng ký ninh dạng viên) để trị cúm Vũ Hán. Dĩ nhiên đây chỉ là giải pháp thay thế tạm thời, không phải trường hợp nào cũng ứng dụng được. Và ký ninh cũng không phải là thuốc dành để trị cúm, nhưng có còn hơn không, có còn hơn không .... Chỉ là một giải pháp tạm thời trong khi chờ đợi những điều tốt hơn xảy ra như vaccin chẳng hạn, nên sẽ không hứa hẹn sự hoàn hảo nhất. Mọi người không nên sử dụng tùy tiện các loại thuốc chống sốt rét này vì các phản ứng phụ rất nguy hiểm, phải cần có sự chỉ định của bác sĩ. Nhưng nói chung cũng là tin vui và là ánh sáng cuối đường hầm cho nhân loại lúc này.

(Mà nói tới đây, mình phải thành thật cảm phục những vị lãnh đạo của Mỹ, các vị thống đốc tiểu bang & tổng thống Mỹ. Ngày nào cũng xuất hiện trên TV để cập nhật thông tin chính xác và tìm các giải pháp hổ trợ cho người dân. Từ đề xuất giải pháp cho đến các gói hổ trợ, đến họp báo với các cơ quan ban ngành, quốc hội, CDC (cơ quan kiểm soát dịch tể), FEMA (cơ quan giải quyết tình trạng khẩn cấp), SBA (doanh thương nhỏ), Bộ tài chánh, Cơ quan thuế IRS .v.v... Đích thân ra mặt để điều hành giải cứu đất nước. Rất đáng trân trọng. Đây có lẽ là sự khác biệt rõ nhất giữa nhà lãnh đạo và nhà cầm quyền !!!)

- Cũng mở ngoặt chút là dược chất Chloroquine phosphate kỳ này lên ngôi. Mà VN là một trong vài nước hiếm hoi trên thế giới có phosphate, cây nhà lá vườn và hoàn toàn có khả năng chế ra món này nghen.
Dưới đây là bản tin về thử nghiệm thành công dùng ký ninh trị cúm Vũ Hán và study của Mỹ . Chắc nay mai lại sẽ có nhiều thông tin khác liên quan đến đề tài "Hydroxychloroquine" này .


Cầu mong dại dịch sớm qua, và thế giới được an lành . Chúc tất cả bình an .

Thursday, November 28, 2019

Phiếm: Ăn gà tây, nhớ gà ta :-)

Nhân ngày tạ ơn nói chuyện không tạ ơn ..... của các bác "trí thức" quê nhà :-)

Mấy hôm nay, báo chí mạng xã hội lại rần rần chuyện mấy nhà "trí thức" quê ta bừng bừng khí thế đấu tranh giành quyền không đặt tên đường cho mấy ông giáo sĩ phương Tây đã tìm ra chữ quốc ngữ năm xưa. Cụ thể là 2 ông Alexandre de Rhodes và Francisco De Pina. Nhiều nhà "trí thức" cho rằng mấy ông giáo sĩ đặt ra chữ Quốc ngữ là để đô hộ VN, chứ chẳng công trạng gì. Có ông "trí thức" khác nêu lý do không đồng ý, là vì ông Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) viết cuốn "Phép giảng tám ngày" bằng tiếng Quốc ngữ nhằm mục đích truyền đạo Thiên Chúa giáo, và sử dụng câu chữ thô bạo để công kích Tam giáo ở Việt Nam (Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo). Amen !

Thực ra, mấy bữa trước có coi qua rồi, nhưng hoải quá, rồi cũng chẳng có ý kiến ý cò gì . Hôm nay lễ Tạ ơn, nãy giờ phụ vợ ướp con gà tây để chiều cho vô lò. Hoàn thành nghĩa vụ rồi, rảnh rỗi lại sinh nông nỗi, dài chuyện trong lúc đợi chờ...

Nói vòng vo cho xa một chút, ví dụ như những con dao ngày nay đã có nguồn gốc từ  thời đồ đá của người tiền sử (Homo sapiens). Rồi 2.5 triệu mùa lá rụng trôi qua, người ta hôm nay dùng dao để nấu ăn, đâm chém, múa may, biểu diễn, làm quà biếu tặng, phòng thân, phong thần ..v.v.... Dao có thể dùng để giết người, mà cũng có thể dùng để cứu người. Chuyện đơn giản vậy ai cũng hiểu, không lẽ cứ thấy ai xách dao đi rượt thiên hạ, lại đổ tội lên mấy ông xài Oldowan ngày xưa ?

Giờ nói sơ qua chuyện nguồn gốc của chữ quốc ngữ VN. Thì cũng như bao nhiêu giai thoai lịch sử khác, nhiều nguồn, nhiều sách, nhiều giả thuyết, làm sao trọn vẹn hết được ? Nhưng lâu nay, có lẽ nguồn được thuyết phục nhất là nguồn cho rằng bộ chữ Quốc ngữ ra đời khoảng năm 1622 trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, do công của người giáo sĩ Bồ Đào Nha Francisco De Pina (1585-1625). Ông Francisco De Pina là giáo sĩ đầu tiên đến Đàng Trong năm 1617. Vốn giỏi tiếng Nhật và chữ Hán, nên ông dễ dàng học nói tiếng Việt và đọc chữ Nôm. Và sau đó, ông cũng nhận thấy các giáo sĩ khác gặp quá nhiều khó khăn trong việc học hỏi ngôn ngữ đọc và viết của người Việt, nên đã nghĩ ra cách dựa vào bảng mẫu tự La Tinh để ghi âm theo tiếng bản xứ.
Năm 1624, sau khi tương đối hoàn thành hệ thống tiếng Việt mới, ông mở lớp dạy lại cho các giáo sĩ khác đến truyền giáo tại Việt nam. Ông cũng tự viết những bài giảng và đi truyền đạo bằng thứ chữ Việt mới này từ đó (nay là Quốc ngữ). Cho đến tháng 12 năm 1625 ông bị chết đuối ở cảng Đà nẵng. Sau khi ông chết, thì có những giáo sĩ đã từng học chữ quốc ngữ VN của ông, đứng ra tiếp tục công việc hoàn chỉnh hệ thống chữ mới đó, nhưng chủ yếu là do giáo sĩ Gaspar De Amaral (1549-1646), giáo sĩ Antonio Barbosa (1594-1647), và giáo sĩ Alexandre De Rhodes (1591-1660) mà người VN gọi là cha Đắc Lộ. Ba vị giáo sĩ này cũng là tác giả của những cuốn tự điển Việt Nam - Bồ Đào Nha thời đó. Tuy nhiên, chỉ có ông Alexandre De Rhodes là gốc Pháp, nên sau này đã có nhiều dư luận và tranh cãi về động lực phát triển chữ Quốc ngữ của ông.
Có lẽ mục đích ban đầu của chữ Quốc ngữ cũng chỉ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với người bản xứ dễ dàng hơn. Về sau, khi thực dân Pháp đến Việt Nam, họ cũng bị những bế tắc về ngôn ngữ như những nhà truyền giáo trước đó, cả Hán và Nôm. Nên giải pháp tốt nhất là buộc người Việt Nam phải sử dụng chữ Quốc ngữ. Và có lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes nổi bật và được nhắc đến nhiều sau này. Cho nên công bằng mà nói chính người Bồ Đào Nha đã khai sinh ra chữ Quốc ngữ, và người Pháp đã "ép" dân VN ta dùng chữ Quốc ngữ.

Dĩ nhiên là buổi ban đầu chữ Quốc Ngữ đã từng bị giới sĩ phu VN tẩy chay, vì được cho là sản phẩm của bọn 'Tây lông", là công cụ của thực dân Pháp cai trị đất nước ta. Mấy cụ đồ, nhà Nho của ta dễ dàng gì cho cái thứ "Tây học" đó lấn sân chữ Nôm đơn giản vậy. An Nam ta mờ, đâu dễ "mất gốc" như thế :-). Nên chắn chắn hành trình phát triển chữ Quốc ngữ ngày xưa cũng rất gian nan. May mắn là hồi đó còn chưa có các vị "trí thức", giáo sư, tiến sĩ, viện nghiên cứu văn hoá lịch sử, các nhà Huế học, Đà Nẵng học ... như bây giờ. Nhưng cuối cùng thì do sự tiện ích và những động lực khác nhau, chữ Quốc ngữ đã thắng thế và tồn tại được.
Tuy nhiên, khi nói đến công ơn truyền bá và trau chuốt cho chữ Quốc ngữ có được như ngày hôm nay, thì không thể không nhắc đến các vị tiền nhân như Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Lương Văn Can .... và những đội ngũ tân học nhiều tài năng, đầy nhiệt huyết và dũng cảm của những thế hệ trước. Thế nhưng những người con VN ưu tú đó đã được tri ân đúng mức chưa ? Con đường nào đã mang tên họ để tri ân cho việc xây dựng một nền tảng ngôn ngữ dân tộc ?

Còn cái ông "trí thức" giáo sư tiến sĩ của viện nghiên cứu gì đó cho rằng ông cha Đắc Lộ viết cuốn "Phép giảng tám ngày" bằng tiếng Việt để công kích Tam giáo ở Việt Nam (Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo), cũng nên coi lại vì tư duy này cũng hơi lạ :-) !
Thực ra thì ông Alexandre de Rhodes cũng là một giáo sĩ bình thường, và chuyện ông ta ca tụng Thiên chúa giáo, không đồng ý với quan niệm Tam giáo cũng là chuyện bình thường thôi. Nhìn lại ngày xưa, với điều kiện sách vở và những tư tưởng thời ấy, thì cũng không ai chờ đợi ông ta hiểu biết hết cái thâm diệu của một tôn giáo khác. Mình không nghĩ ông ta có ý phỉ báng. Ngay cả đến thời buổi này, sách vở tràn ngập, phương tiện truyền thông rộng rãi, đại chúng hơn nhiều, mà cũng không hiếm lắm những chuyện tôn giáo hiểu lầm nhau. Dĩ nhiên là lúc nào cũng có những vị tu sĩ hoặc tín đồ hiểu biết lý lẽ, tôn trọng sự khác biệt, luôn dành sự tôn kính cho nhau và tôn trọng các tôn giáo khác. Nhưng bên cạnh đó cũng không hiếm những người tư duy hạn chế, cực đoan, chia rẽ, chê bai hoặc phỉ báng những ai có đức tin khác mình. Thậm chí nhiều người cuồng tín, tin rằng trong vũ trụ này chỉ có giáo chủ của họ là vĩ đại, và tôn giáo của họ là duy nhất. Cũng bình thường thôi ngài "trí thức" ạ. Cũng như tìm đâu ra được một ông giảng dạy triết Mác Lê mà đi khen ngợi chủ nghĩa "dẫy chết" tư bản :-) ? Bởi vậy, thiết nghĩ không nên chỉ vì cái quan điểm khác nhau, kiến thức khác biệt, hoặc đức tin riêng của họ, mà quên đi cái công trạng đã kiến tạo & hình thành nên một hệ thống "Quốc ngữ" mà chính ngài "trí thức" và tất cả chúng ta đã và đang xử dụng hôm nay.

Nói tới đây mới nhớ, hồi mình còn đi làm bên London, có lần đi đến thư viện Các-Mác (Marx Memorial Library) ở Farringdon với một người bạn trẻ từ bên Pháp qua. Măc dù có ít người đến viếng, nhưng thư viện vẫn luôn được chăm sóc. Anh bạn trẻ của mình thắc mắc là tại sao trải qua nhiều sự phản đối như thế mà thư viện ấy vẫn được tồn tại. Chỉ đơn giản bởi vì đó thuộc về lịch sử, cho dù có khác biệt nhau về quan điểm. Nước Anh chưa từng là quốc gia cọng sản, cũng chưa từng tin vào lý thuyết của Mác. Nhưng ông Mác đã từng xin tá túc tại đây, và người ta tôn trọng điều đó như một sự kiện lịch sử. Sách vở, hình ảnh, tài liệu, đều được trưng bày minh bạch và không cần dấu diếm điều gì !

Hôm nay là ngày lễ Tạ ơn (Thanksgiving) của Mỹ. Đây là một tục lệ văn hoá rất hay, là ngày lễ lớn nhất trong năm, để mọi người có thể tạ ơn những ân điển trong cuộc sống đã dành cho bản thân và cho gia đình của họ. Xưa nay nhiều người cho rằng việc biểu hiện lòng biết ơn và tạ ơn một cách đúng đắn trong đời sống là những ứng xử và tư duy cần thiết, chứng tỏ sự trưởng thành của con người.

Thôi tới giờ đi nướng gà, chào tất cả các bạn. Chúc tất cả ngày lễ Tạ ơn an lành, hạnh phúc.







Wednesday, November 20, 2019

Tản mạn ngày 20/11 - Cảm ơn những Người có công dạy dỗ người khác !

Love is a better teacher than duty. (Albert Einstein)





Hàng năm cứ đến ngày nhà giáo Việt nam, hắn lại ngồi nghĩ về những quãng ngày đã cũ...
Bao nhiêu thầy cô giáo đã đi qua cuộc đời hắn, dạy dỗ những bài học cần thiết nào đó, rồi lại đi xa. Không phải chỉ là những thầy cô giáo trên bục giảng, hoặc những nhân vật thành công tên tuổi, hoặc bằng này cấp nọ, mà có khi họ chỉ là những con người bình thường nhất, thậm chí còn rất nghèo hèn và khốn khổ. Như một thứ duyên hội ngộ, đến rồi đi, nhưng những bài học họ để lại là kim chỉ nam cần thiết cho đời sống của hắn. Không biết bắt đầu từ đâu và kết thúc lúc nào, cũng không có một tiêu chuẩn nào để thẩm định giá trị của những bài học cuộc sống, nhưng hắn đã trưởng thành từ đó. Vâng, chính họ là những bậc thầy cô giáo mà suốt đời hắn luôn phải tri ân .
....
Nước giếng khơi từ đáy thẳm mang tên
Nuôi dưỡng những cuộc đời thả nổi
Mặc cát đảo nghìn năm gió thổi
Bỗng Việt nam từ một dấu chân người ...
(Mai Thảo)

Rồi hắn đi xa, thật xa. Có những lúc ở một phương trời nào đó, hắn lại nhìn về chốn cũ, mà nhớ đến những bài học đầu đời. Nhớ đến những bạn bè, đàn anh, đàn chị, những thầy cô đã lần lượt ra đi. Trong cuộc sống, dĩ nhiên không phải bài học nào cũng ngọt ngào thơ mộng như ... "Thưở còn thơ ngày hai buổi đến trường. Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ ". Mà có những bài học đầy cay đắng ngậm ngùi, nhưng đó lại là những thứ ngậm ngùi cần thiết .
....
Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ
Chiều chơ vơ chiều dạt mấy hồn tôi
Trời viễn mộng đoạ đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi
(Thầy Tuệ Sỹ)

Có những ngày thơ thẩn bên giảng đường ĐH với những bài xã hội học đương đại của Daniel Bell, Michel Foucault, Max Weber, C. Wright Mills.... Hắn lại miên man nghĩ về những ngày lang thang, trốn học, chăn bò, tắm sông... của thời mới lớn.
...
Thưở đầu đời chú bé ôm phao,
Và nhút nhát dĩ nhiên ngộp nước ... ( Nguyễn Tất Nhiên)

Những người thầy đã dạy hắn từng sãi bơi đầu tiên, từng cách bám chân gánh phân trên đường làng lầy lội ..." trời mưa tránh trắng, trời nắng tránh đen". Những bước chân đứng lên sau bao lần ngã qụy với gánh mía, bó rơm, trên vai nặng trĩu. Những lần gượng đứng lên giữa bất công của xã hội và nghịch lý của cuộc sống. Những điều đáng quý, đáng làm, và những điều không đáng khóc. Rồi những kinh nghiệm đạp xích lô, sửa máy, cày cấy bón phân, hái trà trồng cafe, kẹp hom đánh rạ, đường cày luống thẳng, rải mạ ngay hàng ... cho đến cách nướng bắp giữa đồng, tát cá đìa, đặt lờ ống tre, đắp bùn nướng rạ ..vv. Đó là những bài học tồn tại đáng qúy nhất, và cũng là những điều cần thiết đã khắc sâu vào tâm thức của hắn -  một đứa trẻ nhà quê tập tễnh vào đời !
....
Trên vắt vẻo một chiếc cầu tre cũ
Sớm trưa chiều lặng lẽ đón người qua
Dắt tuổi thơ anh tập tễnh vào đời
Khi anh lớn, thì chiếc cầu đã gãy ... (PN)

Rồi có những ngày hắn từng thất bại, chạy trốn cả chính bản thân mình. Bên cạnh những đêm lang thang, vũ trường, rượu chè be bét. Một cô gái bán bar đã dạy hắn bài học lạc quan hơn cả Emile Durkheim. Lúc hắn lao đầu vào công việc như một thứ tham vọng thiêu thân, một nhà sư đã dạy hắn ý nghĩa vô thường, cái có cái không, cái thực cái ảo, để hắn chợt nhận ra những gì cần thiết. Lúc hắn bị áp lực nặng nề bởi những ước mơ, trách nhiệm, người phu quét đường dạy hắn giá trị đơn giản của quãng đường sạch sẽ mỗi buổi sớm mai ... Hắn đã học hỏi từ những người thầy cô giáo vô danh như thế. Họ đến rồi đi, mà có khi cả đời không bao giờ gặp lại.
Một mớ kiến thức học đường, giúp hắn tậu đươc một tấm bằng nho nhỏ. Nhưng chính những bài học cuộc đời đã giúp hắn tồn tại và trưởng thành hôm nay. Có một lần ngày 20/11, hắn mua một bó hoa và hộp bánh tặng cho bà giáo người nước ngoài. Bà hỏi tại sao, hắn trả lời ..." Hôm nay là ngày tri ân thầy cô giáo ở quê tôi". Bà giáo ngạc nhiên cảm ơn, chớp mắt cảm động. Còn hắn thì quay lưng đi để che dấu nỗi xúc động khi nghĩ đến bao nhiêu người dạy dỗ hắn vẫn còn khốn khổ ở quê nhà.

Hôm nay, nhìn đứa con hớn hở ôm gói quà trao tặng cho thầy cô giáo, hắn thấy vui lây. Trên đường về, con hỏi " Hôm nay Ba có đến trường tặng quà cho thầy cô của Ba không? ". Hắn khựng lại thật lâu, tìm câu trả lời.... "Con ơi, Ba không còn được đến trường nữa, nhưng Ba đã có rất nhiều thầy cô giáo. Thầy Cô trong trường và cả Thầy Cô ngoài đời. Họ đã dạy Ba những điều vô cùng cần thiết, nhưng giờ họ đang ở rất xa. Sau này lớn lên con sẽ hiểu ."
Từ đâu một câu nói xa xưa của Aristotle chợt trở về trong hắn "A true disciple shows his appreciation by reaching further than his teacher" (Tạm dịch - Trò hơn thầy là cách đền đáp công ơn dạy dỗ tốt nhất.)

Một ngày 20/11,
PN
(Chân thành cảm ơn những Người đã có công dạy dỗ người khác .)



Friday, October 11, 2019

Ocean Vương - thế hệ VN mới ở hải ngoại

Ocean Vương - TÔI ĐÃ HỌC LÀM CON TẮC KÈ CÓ THỂ ĐỔI MÀU DA

Phỏng vấn : Khuê Phạm (ZEIT ONLINE Team)
Người dịch : Tôn Thất Thông

Read the English version of this article here - Đọc bài phỏng vấn tiếng Anh đăng trên trang ZEIT ONLINE ở đây




ND : Xin giới thiệu với độc giả một cuộc phỏng vấn lý thú. Trước hết, người được phỏng vấn là Ocean Vương, một người Mỹ gốc Việt thế hệ hai, vừa xuất bản cuốn sách trong năm nay, trở thành một bestseller của New York Times và nhanh chóng được dịch ra 24 thứ tiếng. Thứ hai, người phỏng vấn là nhóm ký giả của ZEIT ONLINE ở Hamburg, được hướng dẫn bởi Khuê Phạm, một người Đức gốc Việt thế hệ hai. Thứ ba, nội dung phỏng vấn xoay quanh chủ đề nhập cư, và dường như có một sự đồng cảm sâu sắc giữa người phỏng vấn và người trả lời.. Điều đáng mừng là cộng đồng trí thức Việt Nam hải ngoại không chỉ có chuyên gia trong các ngành nghề truyền thống, mà đã có những who-is-who trong văn học và truyền thông đại chúng.

Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Ocean Vương là một sự kiện văn học quan trọng trong năm nay [2019]. Sau đây là cuộc trò chuyện với tác giả về Việt Nam, về định kiến châu Á và sự cô đơn trong các chuyến xe buýt đến trường.

Ocean Vương đứng đó với nụ cười bẽn lẽn trong phòng khách sạn ở Berlin và ngồi vào một chiếc bàn nhỏ. Người Mỹ 30 tuổi này sinh ra ở Sài Gòn và mới phát hành cuốn tiểu thuyết đầu tay On Earth, We’re Briefly Gorgeous, mang lại cho anh danh tiếng là một thần đồng văn học. Ở Berlin, anh xuất hiện trên bục đọc sách tại Liên hoan văn học quốc tế. Vào ngày thứ sáu cuối tháng 9 này, anh mặc một chiếc áo màu xanh, đội mũ lưỡi trai màu hồng và đeo một chiếc khuyên dài bằng vàng ở tai phải. Một nhà thơ tỏa ra một hỗn hợp của sự dễ bị tổn thương và niềm tự hào. Khi biết rằng, người phỏng vấn cũng có bố mẹ người Việt, mặt anh sáng bừng lên. Anh chuyển đổi dễ dàng từ tiếng Anh sang tiếng Việt trước khi quay lại tiếng Anh.

ZEIT ONLINE : Ông trốn khỏi Việt Nam cùng gia đình khi ông mới có hai tuổi. Ông có còn ký ức nào về thời gian trước đó không ?

Ocean Vương : Không còn một chút nào. Điều đó thật buồn cười, nhưng những ký ức đầu tiên của tôi là từ Mỹ. Dù sao, tôi vẫn còn bà con ở Việt Nam và thỉnh thoảng có về thăm. Năm 2009, tôi có mặt ở đám tang của bà tôi. Lúc ấy tôi thật bối rối: Trong đầu óc tôi, hình ảnh Việt Nam được tạo thành qua lời kể của những người bà con. Tuy nhiên, khi ở Sài Gòn, tôi cảm thấy như mình đang ở Times Square thành phố New York. Nó giống như một thế giới khác ! Văn hóa cũng đã thay đổi : trẻ con cởi mở và tự do hơn nhiều, gần như thiếu lễ độ. Tôi đã được giáo dục rất nghiêm ngặt ở nhà; khi tôi thấy chúng nói chuyện với bố mẹ, tôi cảm thấy mình như một bà già.

ZEIT ONLINE : Ông lớn lên cùng gia đình Việt Nam tại Hartford, Connecticut. Cuộc sống đó giống như thế nào ?

Vương : Chúng tôi bảy người sống cùng nhau trong căn hộ chỉ có một phòng ngủ : bố mẹ tôi, bà tôi, chú tôi, hai dì và tôi. Họ từng là nông dân trồng lúa, không được học hành và cũng chưa hề có một chiếc TV ; khi bạn vào căn hộ đó, bạn có cảm giác như một cuộc hành trình vào quá khứ. Nhưng đồng thời, nơi đó thật vô cùng sinh động, giống như một ngôi làng nhỏ. Luôn luôn có một điều gì đó diễn ra, tiếng Việt luôn luôn được nói, không có một lúc nào yên lặng. Đối với một đứa trẻ như tôi không quen nói nhiều, điều đó thật tuyệt vời : tôi chỉ cần nhắm mắt, lắng nghe và cảm nhận một phần của gia đình này.

ZEIT ONLINE : Điều gì đã xảy ra khi ông rời khỏi ngôi làng nhỏ này và bước ra ngoài ?

Vương : Chúng tôi sống ngay tại trung tâm thành phố, trong một cộng đồng người da đen và châu Mỹ La-tinh. Bởi vì chúng tôi không có xe hơi, nên chúng tôi phải đi bộ đến khắp mọi nơi. Tôi không biết rằng nước Mỹ chủ yếu là người da trắng, cho đến khi tôi lớn lên và lái xe đến trung tâm thương mại. Lúc ấy tôi nghĩ : Đợi đã, chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy ?! Có huyền thoại là, nước Mỹ là một chiếc nồi dùng để nấu chảy mọi thứ, nhưng trong thực tế không có gì được hòa nhập với nhau, mọi thứ đều tách biệt. Bây giờ khi nghĩ về điều đó, tôi tin rằng thông qua những thế giới khác nhau này, tôi đã học được cách trở thành một con tắc kè hoa [có thể tự đổi màu] : tôi có thể điều chỉnh hành vi và cách nói chuyện của mình ở bất kỳ nơi nào tôi đến. Đối với một nhà văn, đó là điều tuyệt vời nhất : tôi có thể biến mình trở thành bất kỳ tính chất nào, thành bất kỳ nhân vật nào.

ZEIT ONLINE : Có người Việt nào khác trong khu phố của ông không ?

Vương : Có một gia đình Trung Quốc, nhưng họ không bao giờ rời khỏi nhà. Nhưng cũng có một siêu thị châu Á. Nó rất nhỏ và được nhồi nhét từ trên xuống dưới bằng ấm trà, đũa và những chiếc chăn đỏ kiểu Việt Nam. Mẹ tôi thường mua sắm ở đó một cách chậm rãi đặc biệt, để có nhiều thời gian hơn ở đó. Mẹ tôi chỉ vào các thứ và nói, "Đây là nước mắm, nước tương. Con làm Phở như thế." Khi còn bé, tôi ghét nó, nhưng bây giờ tôi nghĩ nó rất đẹp, một sự giáo dục tuyệt vời.

Vương ăn nói nhỏ nhẹ với dáng trầm tư. Anh đến với văn học qua thơ. Những bài thơ của anh đã xuất hiện trong các báo lớn như New Yorker hay New York Times, tập thơ Night Sky with Exit Wounds được Giải thưởng T. S. Eliot và sẽ được Hanser (ND : Nhà xuất bản Đức) xuất bản vào mùa xuân năm sau trong phiên bản song ngữ (Nachthimmel mit Austrittswunden). Cuốn tiểu thuyết On Earth, We’re Briefly Gorgeous có một hình thức trữ tình khác thường : Nó được viết như một lá thư ; người kể chuyện về „Tôi“ viết cho người mẹ Việt Nam của mình, một người không biết đọc.

Trong từng mảnh vỡ, Vương kể về cuộc đời của một cậu bé tên là Little Dog, cũng sinh ra ở Sài Gòn, lớn lên ở Hartford và yêu một cậu bé da trắng, người sau này đã rơi vào nghiện ngập ma túy. Từ bản phác thảo của anh, người ta đọc được nỗi đau của một người ngoại cuộc, người đấu tranh để thoát khỏi quá khứ chiến tranh của gia đình và giới hạn của môi trường sống chung quanh. Vương nói, tất cả các nhân vật đều dựa trên những con người thật. Anh chủ ý quyết định không viết như một cuốn hồi ký hoặc sách phi hư cấu : các nhân vật của anh nên có một cuộc sống của riêng họ.

Con là người Việt Nam, điều đó đã đủ phiền toái rồi !

ZEIT ONLINE : Little Dog, nhân vật chính trong cuốn sách của ông, đón xe buýt đến trường mỗi buổi sáng và đau khổ với sự thật rằng, không ai muốn ngồi bên cạnh mình. Ông thường có trải nghiệm này không ?

Vương : Vâng, điều đó thường xuyên xảy ra với tôi. Trong phiên bản đầu tiên, tôi đã viết một phiên bản trung thực hơn của cảnh này trên xe buýt, nhưng sau đó lại lấy nó ra vì nó quá hoàn hảo, giống như một cảnh trong phim ảnh.

ZEIT ONLINE : Câu chuyện thực sự như thế nào ?

Vương : Một hôm, một cô gái da trắng thấy tôi ngồi đó và khóc. Cô cũng bị người khác trêu chọc vì cô có niềng răng và đeo kính. Cô ấy ngồi xuống cạnh tôi và làm một điều tuyệt vời. "Bạn có bảng tính nhân ở đó không?", cô ấy hỏi tôi. "Một lần một là 1. Hai lần hai là 4." Chúng tôi cùng nhau nói như thế. Sau khi tôi viết ra cảnh này, tôi đọc lại một lần nữa và tự nhủ : Khoảnh khắc này có giá trị thật tuyệt vời đối với tôi, tôi không muốn biến nó thành văn học. Dường như tôi đã sai. Trong cuốn sách, Little Dog sau đó được người ông da trắng cứu thoát.

ZEIT ONLINE : Có vấn đề gì không, khi ông luôn phải ngồi một mình trong xe buýt đến trường ?

Vương : Mẹ của Little Dog khuyên hắn là nên làm kẻ vô hình để không ai chú ý đến. "Con là người Việt Nam, điều đó đã đủ phiền toái rồi", bà nói. Bà ấy đến từ một thế giới khác, từ chiến tranh, vì vậy bà ấy muốn bảo vệ đứa con của mình : ai tỏ ra lộ liễu quá, sẽ có nguy cơ bị làm tổn thương. Đứa bé nghe lời mẹ. Một mặt, cuốn sách là một cuốn tiểu thuyết giáo dục, nhưng mặt khác cũng là cuốn tiểu thuyết nghệ thuật. Làm thế nào mà người này trở thành một nghệ sĩ ? Làm thế nào mà đứa trẻ này, luôn cố gắng làm ra vẻ vô hình, rồi cuối cùng bắt đầu nói và tìm kiếm sự thỏa mãn trong tình dục của mình ?

ZEIT ONLINE : Những cảnh ân ái giữa Little Dog và người bạn da trắng của anh ta, Trevor, thật vô cùng mạnh mẽ. Thật hiếm khi người ta đọc được một điều như vậy. Có khó không để viết như thế ?

Vương : Những cảnh này rất khó, nhưng tôi muốn viết ra vì chúng nói lên khía cạnh của sự đồng tính luyến ái, chuyện mà mọi người sợ nhất. Chúng ta học được lạc thú tình dục khi gặp thất bại. Ở trường, họ không dạy bạn bất cứ điều gì về tình dục đồng tính trong giáo dục giới tính. Cha mẹ không hề nói điều đó với con cái. Không có gì hết. Người ta vấp ngã trong bóng tối, theo nghĩa đen cũng như nghĩa bóng, và đó là một phần của trải nghiệm bản thân. Tôi muốn tôn vinh truyền thống lâu đời của những người đồng tính.

ZEIT ONLINE : Bằng cách viết những cảnh ân ái này một cách cởi mở, ông cũng đã phá vỡ định kiến của người đàn ông châu Á vốn thường là ức chế.

Vương : Người châu Á thường được cho là nhỏ bé, ít nói và có nữ tính – những phẩm chất được coi là yếu đuối ở Mỹ. Điều khuôn mẫu là, chúng tôi làm như thể người khác luôn luôn có lý, và thể hiện một bản sắc "theo sau quí vị !". Chúng tôi làm việc trong ngành dịch vụ, trong tiệm giặt ủi và tiệm nail, chúng tôi dọn dẹp khách sạn và chăm sóc người bệnh. Tôi rất quan tâm đến những gì sẽ xảy ra, khi một người Mỹ gốc Á chấm dứt việc cố gắng làm hài lòng người khác và bắt đầu tự chú ý tới bản thân mình.

Sẽ như thế nào khi ta thuộc về một thiểu số đang dần dần trở nên hữu hình ? Vương giơ tay lên không trung và làm một vòng bán nguyệt, để tưởng tượng một đống tuyết cao. Anh nói, là một nghệ sĩ châu Á có nghĩa là chạy qua đống tuyết này. Ban đầu không có gì hết, nhưng cuối cùng còn một dấu vết ở đó.

ZEIT ONLINE : Năm ngoái có một bộ phim Hollywood đã được ra mắt trong các rạp chiếu bóng. Tất cả diễn viên đều là người gốc Á, không có ngoại lệ, đó là phim Crazy Rich Asians. Trước sự ngạc nhiên của nhiều người, phim đó đã giành vị trí số một trên bảng xếp hạng điện ảnh Mỹ. Ông đã xem chưa ?

Vương : Crazy Rich Asians là một bộ phim hài lãng mạn vốn không lý giải sâu sắc các chủ đề của người Mỹ gốc Á. Nhưng nó đã chạm vào cánh cửa và kiếm được rất nhiều tiền. Tôi không đặc biệt thích thể loại này, nhưng tôi đã xem vì nó quan trọng. Đó là một buổi sáng lúc mười một giờ và phòng chiếu phim đầy những khán giả da trắng. Cảnh đầu tiên bắt đầu với một bài hát opera tiếng Hoa. Tôi ngồi đó và ứa nước mắt. Bất kể nội dung phim thế nào – ở đây toàn những người da trắng, lúc mười một giờ sáng, nghe một bài hát opera tiếng Hoa ! Chỉ riêng điều đó thật là quan trọng !

Bà rất tự hào, rằng con bà đã làm được chuyện như thế

ZEIT ONLINE : Ông có nghĩ rằng bây giờ công chúng quan tâm hơn đối với những câu chuyện thuộc loại đó không ? Ông có được lợi ích từ điều đó không ?

Vương : Hoàn toàn đúng. Nếu tôi viết cuốn sách của mình vào năm 1970, sẽ không có ai biết gì về nó. Tôi thậm chí sẽ không dám đặt chân vào một tòa nhà xuất bản ! May mắn thay, đã có một vài nhà văn mở đường : người đấu tranh cho nữ quyền Maxine Hong Kingston, người đoạt giải Pulitzer Việt Thanh Nguyễn, tiểu thuyết gia Monique Truong. Trong thời gian qua, ý thức đã mạnh hơn... Câu hỏi là, liệu nó sẽ giữ như vậy hay không.

ZEIT ONLINE : Sách của ông đã được dịch sang 23 ngôn ngữ. Có ai dịch ra Việt ngữ chưa ?

Vương : Cho đến bây giờ thì chưa. Việt Nam thật khó khăn, vì có rất nhiều kiểm duyệt và cuốn sách thì nói về Việt Nam. Nhưng sách đã được bán ở Trung Quốc, nơi nó cũng bị kiểm duyệt một chút.

ZEIT ONLINE : Gần đây, tôi có về Sài Gòn và nghe một số trí thức đang nói về ông. Họ biết ông qua kênh YouTube.

Vương : Có một sự khác biệt lớn giữa nhà nước Việt Nam và các nghệ sĩ trong bóng tối. Ở Việt Nam từ trước vẫn luôn như vậy, nhưng bây giờ chúng ta biết được nhiều hơn thông qua phương tiện truyền thông xã hội. Khi họ bảo tôi nên về đó, trái tim tôi thật xao xuyến. Tôi cũng muốn thế, nhưng nhiều người bạn của tôi gặp vấn đề về thị thực nhập cảnh khi họ muốn du lịch đến đó, hoặc họ bị rơi vào danh sách của bộ máy an ninh quốc gia. Tôi đang chờ đợi một cơ hội tốt để đi. Nhưng tôi biết rằng, có nhiều điều tuyệt vời trong đời sống ngầm, cũng như việc đọc thơ.

ZEIT ONLINE : Ông đã dịch vài đoạn văn từ cuốn sách của mình để đọc cho gia đình nghe chưa ?

Vương : Tôi không thể dịch nó. Tiếng Anh quá phức tạp và vốn tiếng Việt của tôi chưa đủ tốt. Trước đây, tôi muốn cải thiện kỹ năng ngôn ngữ của mình vì tôi nghĩ về việc sẽ làm nghề phiên dịch. Rồi tôi học nhiều từ mới, đem về nhà và sử dụng chúng. Gia đình tôi không hiểu gì hết. Tôi tự nhủ : Tôi quả thật đã ở rất xa họ vì tiếng Anh của tôi, tôi không thể để bản thân mình bị tách xa hơn khỏi gia đình chỉ vì vốn tiếng Việt. Có lẽ tôi sẽ học lại, khi họ không còn nữa. Nhưng bây giờ, tôi cứ để tiếng Việt của mình ở tình trạng này, tức ở trình độ lớp ba.

ZEIT ONLINE : Cuốn sách của ông là một lá thư gửi mẹ của người kể chuyện về „tôi“. Mẹ của ông nói gì về chuyện đó?

Vương : Tôi nói với mẹ tôi những gì tôi đang viết, nhưng hơi giống như tôi đang kể cho mẹ về chuyện ở Sao Hỏa. Đó không phải là thế giới của mẹ tôi. Những người trong gia đình tôi làm việc trong các nhà máy và tiệm làm móng, đọc chữ là một thứ hàng xa xỉ tư sản mà họ chưa bao giờ có. Tại sao tôi nên yêu cầu họ phải quan tâm? Bằng cách nào đó, tôi thích thế này: Khi tôi về nhà, tôi chỉ là một đứa con trai, không phải là nhà văn Ocean Vương. Tuy nhiên, mẹ tôi lại thích đến những buổi đọc sách của tôi, bà trang điểm thật hợp thời trang và nhìn khán giả vì bà không hiểu tôi đang nói gì. Bà muốn nhìn thấy khuôn mặt của họ, và nghiên cứu họ như một nhà nhân chủng học. Bà rất tự hào rằng, con trai mình đang làm điều như thế.

ZEIT ONLINE : Rằng con bà đạt được điều đó.

Vương : Chính xác. Bây giờ tôi có thể hỗ trợ mẹ. Trước đây, người ta phải gọi điện khắp bà con nếu ai đó cần một chiếc răng mới hoặc khi chiếc xe bị hỏng. Cả làng chìm trong sự rộn ràng. Sau đó, chúng tôi phải đến siêu thị châu Á nhỏ kia để vay tiền. Điều đó thật khủng khiếp và vô cùng căng thẳng. Bây giờ tôi có thể xử lý nó khi điện thoại đổ chuông, thật giống như trò ảo thuật. Đôi khi tôi nói đùa về nó. Khi mẹ tôi gọi, tôi nhấc máy và chỉ hỏi : bao nhiêu ? (Cười)

ZEIT ONLINE : Nhiều người nhập cư thế hệ một hy sinh rất nhiều để con cái họ được tốt hơn. Mẹ ông hiện đang bị ung thư. Ông có cảm thấy rằng thành công của ông là một sự bù đắp cho sự đau khổ của bà ? Rằng ông có thể trả lại cái gì đó cho bà ?

Vương : Điều đó có thể đúng, nhưng tôi cũng sẽ hỗ trợ mẹ tôi ngay cả khi tôi không trở thành nhà văn. Khi tôi học cấp ba, tôi làm việc tại Panera Bread (ghi chú BBT: một chuỗi cửa hàng bánh của Mỹ). Tôi lo chuyện nhập đơn đặt hàng cho các bánh sandwich trên máy tính. Những người khác đã làm tốt điều đó, nhưng tôi vẫn không thể xử lý nổi chiếc máy tính. Anh chàng làm bánh sandwich lúc nào cũng la mắng tôi, "Ocean, bạn đã làm sai!" Tôi xin mọi người cho tôi đi dọn dẹp nhà vệ sinh, họ hết sức ngạc nhiên. Ông chủ chạy theo tôi vì ông nghĩ rằng tôi đang tính làm điều gì đó cấm kị. Nhưng tôi chỉ muốn ở một mình, điều đó tốt hơn cho tôi rất nhiều. Ngay cả thời đó, tôi cũng đã hỗ trợ mẹ và gia đình tôi.

Đăng trên ZEIT ONLINE ngày 1 tháng 10 năm 2019

Monday, April 29, 2019

Những ngày xưa thân ái ...



Thỉnh thoảng có ai nhắc về ngày 30/4, mình lại nghĩ đến cô Cao thị Nhíp - Cô gái "giải phóng quân" dẫn đường năm nào, từng được coi như một trong những biểu tượng của ngày đất nước thống nhất, và được một đạo diễn dựng phim có cùng tên "Cô Nhíp". Thế rồi những năm gần đây, lại nghe tin cô đã trở thành công dân Mỹ và sống ở California. Mình vốn không quan tâm lắm chuyện cô trở thành công dân nước nào, nhưng sở dĩ nhớ đến cô Nhíp, là vì cô ta giống một người có liên hệ tới mình năm xưa, chị Bửng.

Trước năm 1975, Ba Má mình đi làm xa nhà, ở vùng bán an ninh, nên không dám dẫn mình theo, mà gởi cho Bà Ngoại. Lúc đó Ngoại mình ở Ba La, một làng quê rất thanh bình, nơi có những cánh đồng lúa vàng ươm, ruộng mía bát ngát, bàu sen ngào ngạt, vườn tược tươi mát ... Ngoại có 2 người giúp việc, Dũng ( lúc đó trong xóm thường gọi là Bủng) lo việc nặng nhọc đàn ông quanh nhà, và chị Bửng chỉ đặc biệt lo chăm sóc mình. Nhớ ngày nào, mình cũng ngồi chờ gói kẹo Chặt chị đem về từ chợ Mù U. Ăn xong, chị dẫn ra giếng, bắt cởi quần áo tồng ngồng, đi tắm. Cả Dũng và chị Bửng đều là người cùng làng, chân chất, đơn giản. Ngày đó, mọi người cùng ở trong nhà Ngoại, rất gần gũi, thương yêu đùm bọc nhau, coi như gia đình ruột thịt.

Rồi năm đó, chạy giặc trở về. Nhà Ngoại bị đốt, cả một ngôi nhà to lớn chỉ còn lại đống tro bụi và những cây cột cả ôm, cháy sạm trùi trũi. Ngoại khóc, rồi đi lên tỉnh ở với Ba Má mình. Dũng đi theo lên tỉnh, còn chị Bửng xin nghỉ việc ở lại quê chăm sóc ruộng vườn, rồi nhảy núi. Ít lâu sau, tới tuổi đăng lính, Dũng xin phép Ba Má và Ngoại nghỉ việc, đi Biệt Động Quân. Không lâu lắm, tin về đi nhận xác, tử trận ở La Vang, Quảng Trị. Những đồng bào cùng làng cùng quê, thật thà chất phác, từng thương yêu nhau, trở thành 2 chiến tuyến, người còn kẻ mất. Còn chị Bửng mất bặt tin tức. Chiến tranh ngày mỗi ác liệt hơn !

Sau 03/1975, nhớ là vài tuần gì đó, chị Bửng lên nhà mình trong quân phục "cô Nhíp". Nhìn chị rất giống hình ảnh của Cô Nhíp trong phim sau này. Cả nhà bàng hoàng sửng sốt. Chị có chút xa lạ ngại ngùng, im lặng gật đầu chào mọi người, đưa ánh mắt nhìn quanh, rồi chạy lại ôm Ngoại, khóc mừng. Nghe nói chị là một cán bộ chỉ huy đơn vị gì đó. Đó cũng là lần cuối gặp chị, sau không còn liên lạc với nhau nữa. Hồi đó, gia đình mình cũng như hàng triệu gia đình miền Nam khác, phải bận rộn lo toan với bao nhiêu biến động đổi thay của cuộc sống, ít có thời gian quan tâm nhau. Không biết sau này chị ra sao ?

Rồi sau đó, bắt đầu những đợt di chuyển từ Bắc vào Nam, người ngày càng đông dần. Tập kết hồi hương, bộ đội, cán bộ, đùm túm ba lô, ki cóp từng kí gạo, từng hộp lương khô TQ, từng cái chén sành, từng thước vải sô, đôi dép râu, gói thuốc lá Điện Biên, ...vào để "khai phóng" và "giúp đỡ" miền Nam đói khổ, lạc hậu, bị kìm kẹp. Người đi kẻ ở. Người vui kẻ buồn. Từ lúc đó, mình bắt đầu lờ mờ hiểu ra được ý nghĩa của chữ "giải phóng".

Sau này, thỉnh thoảng có đôi lúc nghĩ thoáng qua, không biết có khi nào chị Bửng lại như cô Nhíp năm xưa chăng ? Giờ này đang ung dung ở Huntington Beach hoặc ngồi đâu đó ở Little Saigon thưởng thức ly cafe hương vị quê nhà, mà nghĩ về câu chuyện "giải phóng" của đời mình ?






Tuesday, April 16, 2019

Bia căm thù & những được mất ?









Hôm qua có dịp ghé ngang toà nhà One World Trade Center ở New York (nơi đã từng là toà nhà tháp đôi bị khủng bố 9/11/2001). Vẫn đang còn những kiến trúc xây dựng thêm, nhưng so với vài năm trước đây thì khá nhiều hạng mục đã được hoàn thành.

WTC. Nơi đã từng bị khủng bố, một trong những biến cố tồi tệ nhất của lịch sử nhân loại, một sự kiện đã làm ảnh hưởng cả thế giới. Một trong những tang thương, đổ nát, và bi hùng nhất của lịch sử nước Mỹ. Bao nhiêu nạn nhân và anh hùng đã ngã xuống với biết bao câu chuyện chưa và sẽ không bao giờ nói hết ....

Nhưng từ nơi đó, từ những đổ nát hoang tàn, đã mọc lên những công trình hoành tráng. Không còn là tháp đôi nữa, mà là một toà nhà One World Trade Center, biểu tượng của sự đoàn kết vươn lên mạnh mẽ, không hề khuất phục. Một trạm xe lửa điện ngầm hoành tráng, mang kiến trúc tuyệt đẹp biểu tượng đôi cánh thiên thần bay lên của những anh hùng đã ngã xuống hy sinh vì người khác, vì xã hội tốt đẹp, vì đất nước an vui. Những bờ nước ngày đêm không ngừng nghĩ chảy miết, tươi mát, bên cạnh tên tuổi của những con người đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi đây .....

Thật đẹp & thật ý nghĩa. Nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, hùng tráng nhưng không bi ai. Một tư duy lạc quan và cái nhìn hướng về tương lai phía trước !

Tuyệt nhiên không hề có một tấm bia căm thù nào !

Không một hận thù nào được ghi dấu nơi đây. Một cây hoa lê (bradford pear) duy nhất còn sống sót giữa mịt mù khói lửa, vẫn được chăm sóc kỹ lưỡng như một biểu tượng tồn tại, hàng năm vẫn mãi trổ hoa vào mùa này, xinh tươi và hiền hoà. Mỗi lần đi qua đây, vẫn thích ngắm nhìn những công trình kiến trúc mới, ngày mỗi mọc lên. Mình tự hào và ngưỡng mộ những con người đã hy sinh & đóng góp để làm nên một câu chuyện lịch sử bi hùng đầy tính nhân văn.

Rồi cũng không khỏi ngậm ngùi khi nghĩ về những tấm bia căm thù ở nhiều quốc gia khác, nơi hận thù được nhắc nhở, gieo rắc qua bao nhiêu thế hệ. Những tấm bia căm thù bằng gạch đá, và những tấm bia hận thù trong lòng người. Những hận thù có thực, và những hận thù không có thực. Tuyên truyền, ảo giác, cơ hội, tát nước theo mưa.... Đã, đang, và sẽ còn tiếp tục ! Được, mất gì ở đó ?

Những điệp khúc cay đắng, đố kỵ, hận thù dai dẳng, rồi sẽ đưa thế hệ tương lai của họ về đâu ?



Wednesday, March 20, 2019

Paul Gregory: Why Socialism Fails

SATURDAY, JUNE 23, 2018

Paul Gregory: Why Socialism Fails


As the collapse of the Soviet Union approached, Francis Fukuyama proclaimed the victory of liberal democracy over planned socialism in his 1989 essay, “The End of History?” 

More than a quarter century later, the USSR has indeed disintegrated. Its former east European empire lies inside the European Union. China has a market economy, though the nation is led by a single party. And the “socialist” states of North Korea, Cuba, and Venezuela are in economic ruin. Few now advocate “back to the USSR.” At the same time, many people still consider socialism an appealing economic system. 

Consider, for example, that Bernie Sanders—an avowed supporter of a socialist United States—is America’s most popular politician—and that as many millennials favor socialism as capitalism.
The analogy of the jockey and the horse explains the continued appeal of socialism. Socialists believe that socialist regimes have chosen the wrong jockeys to ride the socialist horse to its deserved victory. Bad jockeys such as Stalin, Mao, Fidel, Pol Pot, and Hugo Chavez chose tactics and policies that led their socialist horse astray. But actually, a look at how the Soviet Union actually worked reveals that it’s the horse itself that’s the problem.

After gaining power a century ago and then holding onto it through a civil war, the Soviet communists were intent on building a socialist state that would overwhelm capitalism. State ownership and scientific planning would replace the anarchy of the market. Material benefits would accrue to the working class. An equitable economy would supplant capitalist exploitation and a new socialist man would rise, prioritizing social above private interests. A dictatorship of the proletariat would guarantee the interests of the working class. Instead of extracting surpluses from workers, the socialist state would take tribute from capitalists to finance the building of socialism.

The basics of the Soviet “horse” were in place by the early 1930s. Under this system, Stalin and his Politburo set general priorities for industrial ministries and a state planning commission. The ministers and planners worked in tandem to draw up economic plans. Managers of the hundreds of thousands of plants, factories, food stores, and even farms were obligated by law to fulfill the plans handed down by their superiors.

The Soviets launched their planned socialist economy as the capitalist world sank into depression, trade wars, and hyperinflation. Soviet authorities bragged of unprecedented rates of growth. New industrial complexes grew from scratch. Magazines featured contented workers lounging in comfortable resorts. The message: The West was failing, and the Soviet economic system was the way to the future.

As the competition between capitalism and Soviet socialism became more pronounced during the Cold War, serious scholarly study of the Soviet economy began. The overarching research agenda of Western scholars was “scientific planning”—the socialist belief that expert technocrats could manage an economy better than spontaneous market forces. After all, would not experts know better than buyers and sellers what, how, and for whom to produce?

It was the Austrian economists F. A. Hayek and Ludwig von Mises who resisted this idea most forcefully. In their landmark critique laid out in a series of papers written from the 1920s through the 1940s, they concluded that socialism must fail. In modern economies, hundreds of thousands of enterprises produce millions of products. Even with the most sophisticated computer technology, managing such large numbers would be far too complex for an administrative body trying to allocate resources. Modern economies, therefore, are too complex to plan. Without markets and prices, decision-makers will not know what is scarce and what is abundant. If property belongs to all, what rules should those who manage assets for society follow? 

The Soviets’ solution to the complexity and information problems was a national plan that spelled out production goals only for broad sectors, not for specific transactions. In other words, rather than mandate the delivery of 10 tons of steel cable by factory A to factory B, the planners set a target for the total number of tons of cable to be produced nationwide. Only a few specific goods—such as crude oil, aluminum ore, brown coal, electricity, and freight-car dispatches—could be planned as actual transactions. Everything else had to be planned in crude quantities, such as several million square meters of textile products. Product specifications, delivery plans, and payments were worked out at lower levels and often with disastrous results.

Soviet scientific planning, in fact, directed only a minuscule portion of products. In the early 1950s, central agencies drew up less than 10,000 planned indexes, while industrial products numbered more than 20 million. Central agencies drew up generalized plans for industrial ministries, which issued more detailed plans to “main administrations,” which prepared plans for enterprises. There never was a pretense that the top officials would plan the production of specific products.

To make matters even more complicated, virtually all plans were “drafts” that could be changed at any time by higher state and party officials. This constant intervention, called “petty tutelage,” was an irritant from the first to the last day of the Soviet system, but it was a key pillar of resource allocation.

Central planners prepared preliminary plans for a small percentage of the economy. These “draft plans” set off huge “battles for the plan” as ministries and enterprises scrambled to fulfill their production targets and meet their delivery quotas, all of which could be changed by party and local officials at any time.

As the commissar of heavy industry, Sergo Ordzhonokidze complained in 1930: “I guess they think we are idiots. They give us every day decree after decree, each one without foundation.” An unnamed defense contractor echoed the same complaint a half century later: “They stick their heads into every single issue. We told them they were wrong, but they would demand that things be done their way.”

The manager’s task was presumably simple: The plan was the law; the manager’s job was to fulfill the plan. But the plan kept on changing. Moreover, it consisted of multiple tasks, such as deliveries, outputs, and an assortment program. Throughout the entire history of the Soviet Union, gross output (measured in tons, meters, or freight/miles) was the most important plan indicator and the most malleable. Nail producers, whose output was judged by weight, would produce only heavy nails. Tractor manufacturers, struggling to meet their tractor quota, were caught delivering tractors without engines to their customers, who accepted them anyway for their spare parts. Shoe manufacturers, whose plans were based on quantity, produced one size and one color to the chagrin of customers. Other targets, such as cost reductions or new technologies, were ignored as counting less towards fulfillment of the plan.

Under scientific planning, supply had to roughly equal demand—and, given their distaste for the anarchy of markets, Soviet planners could not balance supply and demand by raising and lowering prices. Instead, they compiled “material balances” using primitive accounting to compare what materials were on hand with what were, in some sense, needed.

Soviet material-balance planning suffered from a number of deficiencies. For example, only a few balances could be compiled—in 1938, only 379 central balances were prepared in a market of millions of goods. And then, the balances were based on distorted information. Producers of goods in the balance lobbied for easy targets that concealed their capacity. Industrial users in the balance overstated what they needed to be sure of fulfilling their own plans.

Figuring out the proper balance was an exhausting exercise—and Soviet planners did not reinvent the wheel each year. Instead, they resorted to what came to be known as “planning from the achieved level,” which meant that each year’s plan was last year’s plus some minor adjustments.

By the early 1930s, supply agencies were distributing materials based on what they did in the previous year. A fast forward to the 1980s reveals the same practice in place: When a producer of welded materials wished to use thinner metals, the official answer was: “I don’t care about new technology. Just do it so that everything remains the same.” Material-balance planning was hostile to new products and new technologies because they required a reworking of an already fragile system of balances. American economists who were studying Soviet industrial production in the 1950s were astonished that the same machines were produced over decades without modification, something unheard of in the West.

Material-balance planning was the most fundamental weakness of the Soviet system. It froze the Soviet economy in place. Each year’s production was a replica of the previous year. A Soviet manager from 1985 would have felt quite at home in the same enterprise in 1935.
Beyond material-balance planning, soft budgets constituted another key defect. The economist Janos Kornai of Harvard University grew up in Hungary under planned socialism. His research, which draws on his first-hand experiences, focuses on the economic losses associated with soft budget constraints. As Kornai, if enterprises do not face the risk of bankruptcy, they will not seek out cost economies and other survival strategies. From day one of the Soviet system, loss-making enterprises understood they would be bailed out automatically, if not right away.

The primary cause of soft budgets was that the Soviet system was based on output plans. One enterprise’s output was another’s input. If output plans failed widely, the whole plan would fail. Taking an enterprise out of production due to insolvency was simply not an option.

In practice, loss-making enterprises paid for deliveries with IOUs. Unsettled IOUs would grow until they reached crisis proportions. Gosbank, the state bank, would then step in and make good on the unpaid bills by issuing money and creating what Soviet banking officials called a monetary overhang—more rubles chasing goods than there were goods to buy. In fact, Gosbank’s main business in the early years of the Soviet Union was organizing bailouts. When one was completed, it was time to start working on the next.

The problem with socialism isn’t a bad jockey—it’s the horse itself. The Soviet economic system suffered from pathologies that would ultimately doom it. Starting in the late 1960s, the USSR economy went into a long decline, which came to be called the “period of stagnation.” Mikhail Gorbachev was elected General Secretary of the Communist Party in 1985 on the pledge that he, as a radical reformer, would reverse the decline.

Gorbachev failed because the core of the Soviet planned system was rotten Despite his reform inclinations, he remained a believer in socialism. He was determined to save Soviet socialism by making it more like capitalism. In so doing, he created an economy that was neither planned nor a market—a chaotic free-for-all, which the Russian people regrettably associate to this day with that they came to call “wild capitalism.”

Professor Paul Gregory is a research fellow at the Hoover Institution, the Department of Economics at the University of Houston, Texas, and the German Institute for Economic Research in Berlin. This article was first published by the Hoover Institute's Defining Ideas.