Saturday, July 24, 2021

Tản mạn về dịch thuật kinh sách

 


Nói đến chuyện dịch thuật, mình nghĩ một trong những lãnh vực khó nhất là dịch kinh sách. Tôn giáo nào cũng thế, cho nên ngày xưa nhiều nhà truyền giáo phải ráng học cho rành rẽ tiếng địa phương. Thậm chí nhiều vị còn góp phần tạo ra hoặc hoàn chỉnh một số ngôn ngữ để dễ dàng diễn giải hơn. Trong tiếng Anh có cụm từ "Lost in Translation" mang tính hài hước để nói đến sự sai lệch ý nghĩa trong dịch thuật, dịch gà ra cuốc. Nhưng đó chỉ là nói đến chuyện thông dịch, thông ngôn hàng ngày. Dịch kinh sách còn khó hơn nhiều, vì để dịch được sát nghĩa, người dịch phải hiểu đúng ý nghĩa bao hàm của từ ngừ đó. Nếu không rất dễ gây ra ngộ nhận, và dẫn đến nhiều hệ lụy phiền phức. Đó là còn chưa nói đến nhiều người vô tình hoặc cố ý lợi dụng sự lệch lạc trong dịch thuật, dẫn dắt bản thân họ và người khác vào con đường mê tín, dị đoan.

Ví dụ như câu kinh 6 âm trong PG (The Six syllables) "Om Mani Padme Hum", rất ngắn gọn và sâu sắc, tán dương khả năng tự tỉnh thức và tự giác ngộ của tất cả chúng sinh như đóa sen vượt lên từ chốn bùn dơ. Câu kinh còn mang hàm ý sâu sắc hơn là không nên tìm kiếm "ông Phật" ở bên ngoài, mà là từ “Phật tánh” sẵn có bên trong. (Mỗi chữ Om, Mani, Padme, Hum đều mang hàm ý sâu sắc khác nhau. Có rất nhiều tài liệu về câu kinh này từ nhiều ngôn ngữ khác nhau kể cả tiếng Việt trên mạng, nếu ai muốn tìm hiểu).

Thế nhưng phiên âm (chứ không phải phiên dịch) tới lui một hồi, sao lại thành ra câu tiếng Việt "Án ma ni bát rị hồng". Rồi một số ông thầy bùa, thầy chú, thầy cúng, thầy làng, bắt ma bắt hồn, oan gia trái chủ ...lại đem ra xử dụng với đầy màu sắc mê tín !

Giờ trở lại câu chuyện chữ "Bát Nhã" trong kinh sách nhà Phật. Lâu nay ai ở VN cũng ít nhiều nghe qua chữ này, đặc biệt là những người có đọc qua kinh sách PG hoặc có đi chùa chiền. Thỉnh thoảng mình còn thấy mấy ông làm thơ, viết truyện, và cả mấy ông "nhậu sĩ", đem "Bát Nhã" lên thớt của họ hoặc cho vào quán nhậu để mổ xẻ nữa, nên chắc chữ này thì cũng không lạ lẫm gì với nhiều người VN.

Thực ra chữ Bát Nhã có nguồn gốc từ tiếng Phạn, đó là chữ Prajna, được kết hợp bởi 2 chữ Pra- và -jna. Để giải thích chi tiết của 2 từ này thì hơi dài và trừu tượng. Các bạn có thể tìm hiểu thêm trên mạng nhé. Theo Wiki thì "Prajna" được nói đến như thế này (is used to refer to the highest and purest form of wisdom, intelligence and understanding. Prajna is the state of wisdom which is higher than the knowledge obtained by reasoning and inference). Nôm na là một trạng thái trí tuệ cao nhất bao gồm nhiều góc cạnh khác nhau, vượt qua các ngưỡng cửa của sự thông minh, hiểu biết, và kiến thức thông thường. Ví dụ như trí tuệ của một ông giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sư, na sa na séo, ha va ha viếc, chủ tịch, giám đốc, nhà phát minh ra đèn đom đóm, keo dính chuột..v.v.. đều là nhừng kiến thức chuyên môn, trí óc thông minh, kiến thức rộng rãi, nhưng đó không phải là trí tuệ "bát nhã". Bởi thế để dịch được chữ "Prajna" ra một ngôn ngữ khác cho đúng nghĩa thì quả là vô vàn khó khăn, mà có khi chẳng bao giờ diễn đạt cho trọn vẹn, thế nào cũng thiếu đầu thiếu đuôi. Thực tế là trong cuộc sống có những từ ngữ chỉ hiểu, “ngộ”, nhưng rất khó diễn đạt. Đặc biệt là trong các lãnh vực triết học, tôn giáo,  hoặc tâm linh. Cho nên các Ngài ngày xưa đã để nguyên chữ "Prajna" không dịch. Khi những tạng kinh này đến Trung quốc, cũng chỉ phiên âm ra tiếng địa phương na ná như “Pra-jna”, rồi qua đến Việt Nam thì trở thành “bát nhã" như ngày hôm nay.

Rồi cũng chính vì ý nghĩa bao la của chữ "bát nhã", mà lôi cuốn không biết bao nhiêu vị tu sĩ, triết gia, trí thức, nhân sĩ  ...vào cuộc, tìm tòi, mổ xẻ, phân tích ra nhiều tầng, nhiều lớp khác nhau. Cuối cùng có nhiều người bị lạc vô cái mê hồn trận chữ nghĩa đó, thành ra vô tình đi ngược lại với cái mục đích giải thoát mà họ đã tìm kiếm ban đầu. Tất nhiên cũng không hiếm những người hiểu biết và nhận ra được giá trị cốt lõi của cuộc sống và sự giác ngộ, nên lựa chọn con đường đi riêng cho họ. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người tuy nhận thức được vấn đề, nhưng lại bị những hệ lụy chằng chịt trong cuộc sống, những rào cản trói buộc của đời thường, nghiệp cơm áo gạo tiền quá nặng, hoặc tham vọng thành tựu quá lớn, mà không thoát ra nỗi. Rồi cuộc sống ngắn ngủi chóng qua đi, tháng ngày cứ quanh quẩn với những trách nhiệm và “thành tựu”, đầy rẫy những vướng mắc. Vướng vào hình thức thay vì nội dung, vướng vào lý thuyết suông thay vì thực hành, vướng vào ảo tưởng thay vì thực chứng, ráng kiếm thêm cho nặng chứ không phải bỏ đi cho nhẹ, ráng hiểu biết để hơn thua chứ không phải để nhẫn nhịn …v.v. Ham muốn (desires) và gắn bó (attachments) ngày càng nhiều, đời này chưa hết đã muốn lôi kéo đời khác. Cho nên cuối cùng là thuyền "bát nhã" của họ cứ quay vòng vòng trong bờ, hết xăng bao nhiêu lần rồi, mà vẫn còn chưa định hướng đi đuợc, chứ đừng nói tới chuyện bến bờ bên kia. Tất nhiên trong đám phàm phu đó có bản thân mình :-).

Và dĩ nhiên là mình không muốn bàn luận xa hơn về ý nghĩa và nội dung của chữ "Bát Nhã" trong phạm vi ngắn ngủi của bài viết này, mà chỉ muốn nói đến vấn đề dịch thuật kinh sách. Vì nếu không cẩn thận, đôi lúc sẽ làm mất đi cái ý nghĩa thâm diệu của chữ nghĩa, mà thậm chí còn dẫn đến những hiểm lầm đáng tiếc !

Ví dụ như bản kinh "Bát Nhã Ba La Mật Tâm kinh" ở VN. Theo mình, khi dịch cái tựa của kinh "Prajna-paramita Hrdaya Sutra" (The Heart Sutra of Perfect Wisdom) ra thành "Bát Nhã Ba La Mật Tâm kinh", mà không giải thích rõ ràng, là đã vô tình làm mất đi một số ý nghĩa vô cùng quan trọng của bản kinh ! 

(Còn tại sao như thế ? Trước hết xin nói rõ, đây chỉ là ý nghĩ cá nhân của mình. Tất nhiên đây là một vấn đề rất quan trọng, mà đã có biết bao nhiêu vị cao tăng tu sĩ VN, đức độ trí huệ cao cả, từng nghiên cứu dịch thuật trong bao nhiêu năm qua, nên mình không hề có ý dám xúc phạm hoặc phê phán.)

Trước hết nói sơ qua về ý nghĩa của kinh Bát Nhã Ba La Mật Tâm kinh. Là một trong những kinh căn bản và phổ thông nhất trong đạo Phật, thường dùng để đọc tụng. Nguyên gốc từ tiếng Phạn là "Prajna-paramita Hrdaya Sutra", dịch sang tiếng Anh là "The Heart Sutra of Perfect Wisdom". Gọi cho đơn giản là Tâm kinh. Kinh này ngắn, có khoảng chừng 260 chữ (bản ngắn tiếng TQ), hiện nay được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Có nhiều giả thiết khác nhau về nguồn gốc và thời điểm ra đời của Tâm Kinh, không đồng nhất. Và toàn bộ bản gốc của bộ kinh lớn Đại Bát Nhã (Maha Prajna Paramita) cũng đã bị quân Hồi giáo tiêu hủy khi họ đánh chiếm Đại học PG Nalanda Ấn độ vào thế kỷ 12.

Kinh Bát Nhã Ba La Mật Tâm kinh đọc tắt là Tâm kinh (The Heart Sutra), là tóm lược của bộ kinh Đại Bát Nhã Ba la Mật (Great Perfecton of Wisdom Sutra, tiếng Phạn gọi là Maha-prajna-paramita-sutra), gồm có 600 quyển. Tâm Kinh có nhiều bản dịch từ tiếng Phạn ra tiếng TQ. Trong đó bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập (402-412) và Ngài Huyền Trang (Tam Tạng) vào thế kỷ thứ 7 sau CN, là thông dụng nhất, được truyền qua VN và lưu hành cho đến ngày nay. Còn phiên bản tiếng Anh thì đến thế kỷ 19,  mới được Samuel Beal dịch ra. Ngày nay có rất nhiều sách vở tài liệu nói về Tâm Kinh của nhiều tác giả, nhiều tu sĩ khắp nơi trên thế giới . Tất nhiên là cũng không hiếm những tranh luận đối đáp gay gắt, bất đồng quan điểm, như bao vấn đề khác của tôn giáo và xã hội lâu nay. Có người đọc kinh sách để gom hết về một mối, rồi buông bỏ hết coi như không đọc chữ nào. Thì bên cạnh đó cũng có những người càng đọc, càng ôm, càng rối, càng lụy, sợi tóc chẻ làm năm làm bảy. Đọc để tranh luận hơn thua, đọc để trói chứ không phải để mở, đọc để chứng tỏ chứ không phải để thực hành, nên càng đọc càng nặng nề. Âu cũng là chuyện bình thường thôi. Như trong Tâm kinh có một câu rất nổi tiếng "Form is emptiness (śūnyatā), emptiness is form", mà nhiều nhà nghiên cứu, học giả phương Tây cũng thường nhắc đến. (Tạm dịch là: Sắc tức là không, không tức là sắc). Ai cũng nói được nhưng mấy ai thực chứng được điều này ?

Mở ngoặc chút, ngài Huyền Trang (Xuanzang), tức là ngài Đường Tăng Tam Tạng trong truyện hư cấu Tề thiên đại thánh của Ngô thừa Ân, đã tốn 3 năm đi bộ từ TQ qua Ấn độ để tìm học kinh Phật và thỉnh kinh đem về cho TQ. Rất nhiều người cũng đã từng đi như thế và bị chết trên đường vào thời kỳ đó. Tất nhiên là thực tế thì chẳng có Tề thiên, Trư bát giới .. nào đi theo cả, mà Ngài chỉ đi một mình. Sau khi đến nơi, ngài lưu lại Ấn độ 17 năm để học tiếng Phạn tiếng Ấn, rồi được vua Ấn độ mời làm "quốc sư" hiệu trưởng trường đại học Nalanda. Nhưng sau đó ngài xin hồi hương đem kinh sách về cho TQ. Về đến TQ, vua Đường cho lập khu dịch thuật rất lớn, tuyển dụng nhiều người phụ giúp Ngài. Với lực lượng hùng hậu như thế, mà phải tốn gần 5 năm sau, Ngài Huyền Trang mới dịch xong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Thế mà kinh Bát Nhã Ba la mật Tâm kinh, nói gọn là (Heart Sutra) tóm lược được ý nghĩa của bộ Đại Bát Nhã đó, thì cũng tưởng tượng ra ý nghĩa súc tích của Tâm Kinh đến mức độ nào. Tuy nhiên cho dù là thâm thuý và uy lực đến đâu, thì cũng không phải chỉ cần ngồi đó đọc tụng mà giác ngộ được !

Giờ trở lại nói về chuyện phiên âm dịch thuật cái tựa "Prajna paramita Hridaya Sutra" ra tiếng VN, vô tình làm mất đi một số ý nghĩa quan trọng. Khi phiên âm chữ Prajna thành ra "Bát Nhã", paramita phiên âm thành ra "Ba la mật” hoặc “ba la mật đa", Hrdaya (dịch ra thành"Tâm"), Sutra (dịch ra thành “Kinh"). Thì người VN đọc câu "Bát Nhã Ba la Mật tâm kinh" không có ý nghĩa gì đặc biệt, mà chỉ đơn giản là một cái tựa đề của 1 bài kinh, như bao nhiêu kinh sách khác, kinh Pháp Hoa, kinh Pháp Cú, kinh Hoa Nghiêm ...v.v..Thậm chí một số ít người nghe đến chữ ba-la-mật còn tưởng có liên quan gì đến mật tông mật pháp hoặc phương pháp bí mật nào đó. Điều này quả nhiên là không chính xác, và làm mất đi những ý nghĩa rất quan trọng của câu chữ "Prajna paramita Hridaya Sutra". Cũng tương tự như trường hợp đọc "Om mani padme hum" thành ra "Án ma ni bát rị hồng", không hiểu được hàm ý sâu sắc bên trong, mà chỉ mơ hồ hiểu được cái ý nghĩa “tâm linh” của nó !

1. Prajna (bát nhã) được ghép từ 2 chữ : Pra-jna ; Pra là Tối thượng và duy nhất, Jna là hiểu biết, là trí tuệ 

2. Paramita (sự hoàn hảo) được ghép lại từ Parama (the other shore, tức là bờ bên kia) , và Ita (that which has arrived tức là đến, sẽ đến, hoặc đã đến ...)

3. Hrdaya (là tâm, là chính yếu, trọng tâm, điểm chính), chứ không phải nghĩa đen của trái tim, nhịp đập trong cơ thể.

Có những vị cao tăng, thiện tri thức ngày xưa chỉ giảng giải câu "Prajna paramita Hrdaya Sutra" mà tốn tới hàng tháng, hàng năm mới nói hết ý nghĩa của nó. Trong khi đó chúng ta chỉ đọc lướt qua câu "Bát nhã ba-la-mật tâm kinh" như một cái tựa đề thì uổng phí quá.

Chỉ cần qua cái tựa đề, Tâm Kinh đã giải thích cho người ta thấy được cái ý nghĩa quan trọng tối thượng của trí huệ Bát Nhã trong việc tìm đến sự tỉnh thức & giác ngộ. Đó là phải tự mình học hiểu và thực chứng mới đi đến được bờ bên kia. Không nên chờ đợi ở bất cứ ai và cũng không ai có thể ban bố sự giác ngộ được cho mình. Những đạo lý vô thường, vô ngã, có, không, được, mất ....trong bản kinh là những diễn giải, chỉ ra cho con người hiểu thấu và thực hành để thực chứng, để đạt được trí huệ Bát Nhã, chứ không chỉ để đọc và cầu nguyện. Các vị Bồ Tát xưa nay cũng đã phải đi theo con đường đó mà tìm đến giác ngộ, chứ không hề có ngoại lệ hoặc phải nhờ đến thân thế, quen biết, hay lý lịch tốt :-).
Thực tế, thì cũng có rất nhiều người loay hoay nhầm nhẫn giữa các phương pháp tu tập, cũng như các loại trí tuệ và kiến thức thông thường trong cuộc sống với cái trí tuệ "bát nhã" được nhắc đến trong kinh sách. Nên xã hội vẫn thường xảy ra ngộ nhận về những giá trị có liên quan đến địa vị, bằng cấp, chức tước, giàu nghèo, sang hèn, hình thức (tu sĩ, trí thức..) ..v.v.. trong đời sống tâm linh, và trên con đường tìm kiếm những giải đáp cho bản thân của họ. Ví dụ: Một nhà khoa học sáng chế ra bom nguyên tử, ra vũ khí sinh học ...có thể rất thông minh, kiến thức chuyên môn tuyệt đỉnh, tuy nhiên đó không phải là loại trí tuệ Bát Nhã, mà có thể là một dạng u mê. Một nhà độc tài đi tới đâu người ta cũng vỗ tay, chào đón khóc lóc như điên dại, cũng có thể là một dang thông minh biết cách mị dân, trấn áp xã hội. Nhưng chắc chắn đó không phải là trí tuệ Bát Nhã mà trong Tâm kinh nói đến…(Cho nên cũng không nên mù quáng tin vào lý thuyết hoặc danh xưng của bất kỳ ai, cho dù họ có quyền lực, chức tước, hình thức, ông này bà nọ, hoặc chùa to chùa lớn, mà phải tự thực chứng đạo lý đó với chính bản thân. Đạo Phật không chủ trương “blind faith”, tức là tin một cách mù quáng, tin mà không hiểu. Đức Phật thời còn tại thế cũng đã dạy dỗ như vậy).

Bởi thế, mới có một Huệ Năng nhà nghèo, không biết chữ, chỉ cần một câu "Ưng vô sở trụ, sinh nhi kỳ tâm" mà trở nên tỉnh thức. Trong khi đó, một Thần Tú, tu sĩ, con nhà giòng dõi, kiến thức uyên bác, học sâu hiểu rộng, tên tuổi vang lừng, nhưng vẫn chưa đạt đến cái trí tuệ “bát nhã” của sự giác ngộ. Cho nên bài thơ rất hay của Ngài Thần Tú vẫn chưa "thấy” ra được cái "có" và cái "không" trong việc tu học. (Tất nhiên là còn nhiều yếu tố duyên nghiệp trong đây nữa. Câu chuyện này cũng nói đến khái niệm tiện ngộ và đốn ngộ trong PG).

Thân thị bồ đề thọ             
Tâm như minh cảnh đài     
Thời thời cần phất thức     
Vật sử nhạ trần ai.             

Tạm dịch:

Thân là cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để bụi trần bám.

Thôi, cuối tuần, tản mạn một chút về cái tựa đề của một bài kinh quen thuộc. Chỉ là ý kiến cá nhân, không có ý dám múa rìu qua mắt thợ. Tất nhiên thời này thông tin tin tức không thiếu, quý vị nào muốn kiểm chứng hoặc nghiên cứu sâu hơn đều có thể tìm đọc dễ dàng. Mình thì luôn quan niệm rằng, ai cũng có thể sai lầm, cho dù là người tài giỏi hoặc là tiền nhân đi trước. Mạnh dạn trao đổi trong khiêm tốn cũng là một đức hạnh của "kiến hoà đồng giải" vậy. Còn nếu cứ khư khư quan niệm "áo mặc không qua khỏi đầu", cái biết của mình là luôn luôn đúng, chủ nghĩa của mình là luôn luôn vô địch, thì có thể là đang đi ngược lại với đạo lý vô thường của vũ trụ. Và cũng coi chừng là đang đi ngược lại với cái đạo lý vô ngã, cái tánh không “emptiness" thâm diệu mà Bát Nhã Ba la Mật đa Tâm kinh (Prajna paramita Hrdaya Sutra) đang nói đến.

Chúc tất cả bình an mùa dịch bệnh !

PN 

p.s: Nếu quý vị nào nghe được tiếng Anh, mình trích dẫn đường link dưới đây của tu sĩ Guan Cheng bên Canada giảng về "Tâm Kinh". Vị này giảng tương đối đơn giản, dễ hiểu, dễ theo dõi đối với những người mới bắt đầu tìm tòi. Thực ra thời nay có rất nhiều chư vị tăng ni, cư sĩ trí thức nói về Tâm Kinh, hoặc thuyết giảng trên mạng. Quý vị nào rảnh rang muốn tìm hiểu, nên tìm kiếm những ai có cách diễn giải phù hợp với mình, thì sẽ dễ dàng theo dõi hơn .



Sunday, July 18, 2021

Vài ý nghĩ vụn … về dịch cúm Vũ hán

 (Chú Đại Bi, do Ani Choying Drolma trình bày)


Năm ngoái nước Mỹ dịch bệnh nặng về, anh em bạn bè bên VN quan tâm thăm hỏi, mình cảm ơn rất nhiều. Nay nghe tin VN, nhất là SG ngã bệnh, không biết làm gì hơn, mạn phép tóm tắt vài điều đã biết, hy vọng là hữu ích (mặc dù rất nhiều người đã biết rồi).

1. Covid có đáng ngại không ?

Có !
Tuy nhiên không phải tới mức ghê gớm như người ta đồn đoán. Thực tế, rất nhiều quốc gia khốn đốn là vì quá tải các cơ sở phương tiện tiếp nhận bệnh nhân như bệnh viện, khu cách ly, cấp cứu (ICU) …và thiếu thốn các công cụ y tế như máy trợ thở, giường bệnh, dịch truyền, oxy ..v.v.. Bên cạnh đó là sự bối rối, vụng về, thiếu kinh nghiệm trong các phương thức dự phòng, cung ứng, và cách ứng xử đối phó với dịch bệnh cỡ lớn như đại dịch lần này. Kể cả những quốc gia lớn như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Ấn ..... đều bị vướng mắc những sai lầm như thế trong giai đoạn đầu, dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng. Ví dụ như dịch bệnh kéo dài gần 2 năm, mà số lượng máy thở dự phòng cho cả nước với dân số gần trăm triệu dân chỉ dừng lại ở mức dưới 5 ngàn cái, thì quá nguy hiểm !

2. Phòng bị như thế nào ?

- Cho tới nay cách phòng bị hữu hiệu nhất vẫn là dựa vào từng cá nhân, và ý thức tự giác giữ gìn chung cho cộng đồng như giãn cách xã hội, cách ly, tuân thủ các quy cách phòng bị cá nhân, khẩu trang, bao tay .v.v. Thường xuyên tẩy rửa, rửa tay rửa mặt, tránh va chạm, tập thể dục thể thao, ăn uống điều độ, tránh hao tâm tổn lực, giữ gìn vệ sinh chung. Đừng ứng xử kiểu "điếc không sợ súng, hoặc anh hùng rơm" rồi đi lung tung, gây nhiễm cho người khác. Đặc biệt là giới trẻ, những người trẻ tuổi, sức khoẻ tốt, hệ miễn dịch tốt, bị nhiễm bệnh nhưng không biết, hoặc có thể lướt qua, hoặc không có triệu chứng, gọi là (asymptomatic). Tuy nhiên những người bị nhiễm bịnh không có dấu hiệu (asymptomatic) vẫn có thể lây lan cho người khác. Nên nếu chủ quan hoặc không hiểu biết để cẩn thận, thì thành phần này có thể trở thành lực lượng phát tán dịch mạnh nhất !

3. Bị nhiễm rồi thì sao ?

Bình tĩnh đối phó thôi. Không phải ai bị nhiễm bịnh covid thì cũng trở bịnh nặng, hoặc chết đi. Tỉ lệ tử vong rất thấp, dĩ nhiên là tuỳ thuộc vào các yếu tố khác của xã hội, trong đó có yếu tố phòng bị và chiến lược đối phó, ứng xử của chính quyền và sự hợp tác của người dân cũng rất là quan trọng. Ở nhiều nơi trên thế giới trong thời gian qua, có rất nhiều trường hợp tử vong không phải trực tiếp bởi covid-19 mà là những người có bệnh nền nặng hoặc các bệnh khác, nhưng đã không được chữa trị đúng mức, kịp thời, vì bị quá tải nguồn lực và nhân lực do dịch bệnh, cộng với tiêu chí ưu tiên dành cho các bịnh nhân covid, nên dẫn đến các biến chứng phức tạp.

- Thực tế thì có rất nhiều người bị nhiễm bịnh vẫn chữa trị tại nhà, ăn uống, nghĩ dưỡng, xài thuốc cảm cúm hạ sốt như tylenol, motrin, patadol, paracetamol.... rồi vài tuần sau đó bình phục hoàn toàn. Chỉ có những trường hợp bị trở bịnh nặng mới được chuyển vào bệnh viện để trợ giúp bằng các biện pháp hổ trợ nặng đô hơn như máy trợ thở, truyền dịch, kháng sinh, huyết tương ...v.v. Số lượng người tự chữa trị tại nhà và khỏi bịnh sau một thời gian ngắn là rất cao so với số lượng người trở bịnh nặng phải nhập viện. Tuy nhiên báo đài thì ít nói đến số liệu này, làm bà con không nắm bắt được thực trạng càng hoang mang, lo lắng.

- Các chuyên gia khuyên rằng nên cố gắng bình tĩnh, và ráng giữ tinh thần mạnh mẽ, đừng lo lắng thái quá trong trường hợp nhiễm bệnh. Ăn uống bình thường, uống nhiều nước, nghỉ ngơi nhiều, xử dụng các loại thuốc hạ sốt, hổ trợ cảm cúm sẵn có. Nếu có điều kiện, nên uống thêm nguồn vitamin trợ giúp. Hỏi thăm bác sĩ tư vấn những loại vitamin nào phù hợp với bản thân và cách ứng phó tại nhà. Đừng nghe theo lời mấy ông lang băm, thầy cúng, thầy đề, mê tín, cúng tế oan gia trái chủ, uống bùa chú bậy bạ .... mà bị mạng mất tật mang ! 

4. Thuốc men như thế nào ?

- Cho đến thời điểm hiện nay, thì thế giới vẫn chưa có thuốc nào trị bịnh cúm hiệu quả hoàn toàn. Đó là mới nói về những bệnh cảm cúm thông thường chứ chưa nói đến covid-19. Nhiều người lâu nay vẫn hiểu lầm nhừng thuốc như tylenol, motrin, aspirin, patadol ..... là "thuốc cảm cúm". Không phải vậy, đó chỉ là thuốc làm giảm nhẹ các triệu chứng của cảm cúm như nóng, sốt, ho hen, nhức mỏi thôi. Đây là một hiểu lầm rất thường gặp, nên nhiều người cứ nghĩ là thuốc "cảm cúm" có thể “giết” được con vi rút cúm. Ở Mỹ và nhiều nước khác, hàng năm thiên hạ vẫn phải đi chích ngừa cúm mùa, vì chưa có thuốc nào "giết" được nó cả. Có một số loại thuốc chuyên trị các bịnh do virus gây ra, gọi là "antiviral" như Tamiflu (oseltamivir phosphate), Relenza (zanamivir), Rapivab (peramivir), Xofluza (baloxavir marboxil) v.v... Các loại thuốc này bên Mỹ muốn mua phải có toa bác sĩ, thế nhưng đối với covid-19 thì những em này không xi nhê lắm. Từ lúc dịch cúm Vũ Hán (covid-19), có một số thuốc “antiviral” nổi bật lên như Remdesivir được dùng để trị bịnh theo cách truyền dịch. Bên cạnh đó cơ quan FDA cũng cho phép xử dụng một số thuốc antiviral khác trong những trường hợp khẩn cấp như loại Sotrovimab (monoclonal antibodies). Dưới đây là tên một số loại thuốc “antiviral” khác đang được các cơ quan chức năng như NIH, CDC, FDA theo dõi và thẩm định để điều trị cho những người bị nhiễm covid nặng. Ví dụ như Ivermectin, Nitazoxanide, Lopinavir, Hydroxychloroquine, Chloroquine, Azithromycin…v.v. Mình sẽ đính kèm đường link phía dưới cho bạn nào rành tiếng Anh theo dõi nhé. Vì các loại thông tin này thường xuyên được cập nhật trên các trang mạng của chính phủ như FDA hoặc NIH.

Bấm vào đây coi hướng dẫn điều trị COVID-19 của cơ quan y tế NIH Hoa Kỳ

(Cho đến nay thì những loại thuốc trên vẫn nằm trong danh sách để xử dụng khẩn cấp điều trị cho các bệnh nhân covid nhập viện. Tất nhiên về khoảng này các bạn trong ngành y dược chắc chắn sẽ biết nhiều hơn. Ở đây mình chỉ tóm tắt cho các bạn tham khảo thôi. Ai muốn biết sâu hơn, tốt nhất nên hỏi thăm bác sĩ của các bạn, thông tin sẽ được cập nhật hơn)

Hiện nay, có nhiều hãng thuốc tại Mỹ được sự ủng hộ của chính phủ, chạy đua nghiên cứu dạng thuốc viên uống, dành cho những ngừời mới bị covid-19, hoặc mức độ bịnh nhẹ đến bịnh vừa. Có vài loại dự kiến sẽ được ra đời vào cuối năm nay hoặc đầu năm sau. Ứng cử viên nặng ký nhất hiện nay là thuốc Molnupiravir của hãng Merck và Ridgeback Biotherapeutics. Hiện đang ở giai đoạn thử cuối cùng. Nếu thành công thì đó sẽ là loại thuốc uống “antiviral” đầu tiên trị được bịnh cúm Vũ Hán. Và chắc chắn là sau đó sẽ còn nhiều loại thuốc uống trị covid khác ra đời.

Xin lưu ý là thuốc antiviral khác với thuốc antibiotics (trụ sinh) nghen. Thuốc trụ sinh thì không trị được các bịnh gây ra bởi "viral infection" như cúm, ban trái, rubella, measles, rhinovirus, coronavirus (tổ tiên của covid-19), adenovirus ..v.v.  Mặc dù ra tiệm thuốc tây ở VN thì các vị cứ phán, cứ trụ sinh mà chơi tới bến. Kệ, trật gà thì cũng trúng chim. Xin lỗi mấy cô bạn dược sĩ nghen. Chỉ nói đến một số ít "cược sĩ" bán thuốc liều thôi :-) . 

- Còn nói đến thuốc ngừa (vaccin) cho dịch cúm Vũ Hán thì hiện nay trên thế giới cũng có nhiều loại. Công nghệ khác nhau, hiệu quả khác nhau, ảnh hưởng phụ cũng khác nhau. Cho nên cũng cần tìm hiểu trước khi chích, để không bị hoang mang vì các tin đồn thất thiệt. Đương nhiên là lâu nay ai cũng biết chích ngừa vaccin là phương pháp hiệu quả nhất dành cho tất cả các căn bịnh gây ra do "virus". Tuy nhiên tính hiệu quả của mỗi loại thuốc tiêm chủng và các ảnh hưởng phụ do nó gây ra, là những điều cần thiết phải biết vì không phải loại thuốc nào cũng giống nhau. Một số loại thuốc ngừa có hiệu quả rất thấp hoặc có những ảnh hưởng phụ phức tạp, nhưng do nhu cầu cấp thiết, nên vẫn được đem ra xử dụng. Trong khi đó có một số người đã được chích ngừa, chủ quan không bị mắc bệnh hoặc ỷ y tiếp xúc với nhiều người khác, nên có thể vô tình trở thành nguồn dịch lây lan.

Thứ tự hiệu quả của các loại thuốc ngừa hiện nay trên thế giới là Pfizer, Moderna, J&J, AstraZeneca, Sputnik, Sinovac ...v.v.. Tuy nhiên đây chỉ là đánh giá dựa trên số liệu thu thập được của một số cơ quan chuyên môn. Số liệu có tính tương đối của nó. Còn đối với thuốc ngừa của Nga (Sputnik) và Trung quốc (Sinovac) thì cũng như những vấn đề thường lệ khác của họ lâu nay, có thể sẽ không bao giờ có một số liệu minh bạch và chính xác được. Cho nên tuỳ vào cảm tính và vận may của đất nước vậy !

==> Có hai loại thuốc vaccin nữa sắp ra mắt, cần lưu ý:

* Novavax của Mỹ (mã số cổ phiếu là NVAX), rất tiềm năng, đang ở những bước cuối cùng để xuất xưởng trong quý tới.

* Thuốc thứ hai đặc biệt có tên gần giống Novavax của Mỹ, đó là Nano Covax của Vietnam. Hôm trước có đăng báo là sắp ra đời, tính hiệu quả trên 99%, và chi phí chỉ tốn $120,000 đồng VN cho một liều, tương đương với usd $5.2. Nghĩa là khi ra mắt sẽ trở thành loại thuốc chống covid hiệu quả nhất thế giới và rẻ nhất ! (Xin lỗi, thông tin này là mình đọc trên báo Vietnam News chính thống nghen. Hy vọng không phải nói cho vui kiểu kéo đám mây điện tử về VN)

- Cũng xin nhắc lại, chích ngừa xong không có nghĩa là sẽ không bị dịch và không lây lan cho người khác. Cho nên những người đã được chích ngừa vẫn cần phải giữ gìn, quan tâm dùm cho người chưa được chích ngừa. Nhiều người chích ngừa xong, vẫn có khả năng bị nhiễm bịnh, nhưng có thể không có triệu chứng rõ rệt, nên thường chủ quan, vô tình lây lan cho người khác. Nên biết thêm là những người đã chích ngừa thì vẫn có khả năng mắc bệnh nhưng thấp hơn, và nếu có mắc bịnh thì khả năng bịnh nặng, hoặc nguy hiểm đến tính mạng cũng thấp hơn. Còn các bác theo thuyết âm mưu hoặc theo quan điểm không chích ngừa covid, thì mình cũng rất tôn trọng, và không dám nói đến ở đây.

Tuy nhiên để đạt đến mức độ "miễn dịch cộng đồng" (Herd immunity) thì cần phải đạt đến một số lượng tiêm chủng nhất định. Nhiều người cho rằng cần khoảng 70% tổng dân số cộng đồng có tiêm chủng mới tạo ra được tình trạng miễn dịch công đồng. Nhưng đó cũng chỉ là lý thuyết thôi, không phải là tuyệt đối, đặc biệt trong các biến chủng sinh học phức tạp. Bên cạnh đó, ý thức con người, trình độ dân trí, cũng như điều kiện kinh tế xã hội của từng quốc gia, cũng là những biến số rất quan trọng trong việc dập tắt dịch bệnh. Cho nên không ai bảo đảm được điều gì. Hy vọng các loại thuốc ngừa kết hợp cùng với các loại thuốc uống đang nghiên cứu hiện nay, sẽ dẫn đến những kết quả khả quan hơn. Và cũng hy vọng qua kinh nghiệm lần đại dịch này, giúp cho giới khoa học đi gần hơn với những phương cách đối phó dịch bệnh phù hợp và hữu hiệu hơn trong tương lai. 

5. Truyền thông mùa dịch ?

- Đây là một vấn đề rất quan trọng trong mùa dịch bệnh, vì ai cũng hoang mang, lo lắng vì bối cảnh mới mẻ và tin tức loạn xạ. Đám tin vịt thừa cơ thả vịt câu view, rồi nhiều người đọc tin không kiểm chứng, không phân tích, cứ thế gởi ra, truyền tải, càng làm rối loạn xã hội, gây hoang mang cho bà con anh em bạn bè. Dạo trước bên Trung đông có kẻ còn sợ quá, uống cả thuốc rầy vào để diệt covid. Phải cảnh giác chứ nghe tin vịt, rồi uống cả lá ngón, thuốc sâu, ngọc linh, ngầu pín… trị bệnh thì không tốt chút nào !

- Thông thường ở các nước phát triển đều lập ra một ban chỉ đạo toàn quốc (tập trung và duy nhất, cập nhật tin tức hàng ngày). Mọi thông tin chính thống đều do ban này thông báo. Ban bệ đó sẽ bao gồm các vị lãnh đạo đứng đầu quốc gia và những vị đại diện các ngành chính liên quan mật thiết đến tình hình đất nước như là tài chánh, y tế, an ninh, lương thực, phòng bị, cứu hộ ...v.v... Bên Mỹ bên Châu Âu, thời kỳ cao điểm, tổng thống thủ tướng ngày nào cũng lên TV họp báo cùng với ban chỉ đạo chống dịch, cập nhật tin tức trong ngày và trực tiếp thông báo các kế hoạch cụ thể, để cho người dân không bị bối rối hoặc hiểu lầm.

Còn nếu không tuân theo nguyên tắc tập trung và duy nhất, mạnh ai nấy phán, hoặc chuyện gì cũng đợi ý kiến từ một vài người không chuyên môn, e rằng trống đánh xuôi kèn thổi ngược, khó đồng nhất, tạo điều kiện cho bọn xấu tung tin giả. Cũng dễ bị đám gian thương, tham quan lợi dụng cơ hội để trục lợi, hoặc làm phiền phức rối loạn lòng dân, thực giả khó phân. Ở đất nước nào thì vấn nạn này cũng có thể xảy ra !

- Nên lưu ý chính những người thừa hành chống dịch kém hiểu biết, hoặc các kế hoạch phân bổ và cách triển khai thực hiện không đồng bộ là những nguyên nhân góp phần làm nhiễu loạn trật tự xã hội. Cho nên có một phương án truyền thông hợp lý và đồng nhất trong thời kỳ đại dịch là tối quan trọng. 

6. Ăn uống gì, làm sao sống, tiền đâu ?

- Phần này thì hoàn toàn dựa vào chính phủ nước sở tại, mình không biết và cũng không dám ý kiến. Chỉ là rất quan tâm vì hoàn cảnh kinh tế đất nước VN khác với nhiều nước khác. Số lượng lao động hè phố, buôn gánh bán bưng, công nhân, nông dân nghèo ... lượng người dân kiếm sống từng bữa ở VN rất nhiều. Không biết nhà nước VN có phương cách nào giúp đỡ cho họ vượt qua kiếp nạn này không ?

(Mở ngoặc chút, trong đợt dịch bệnh vừa qua, chính phủ Mỹ sẵn sàng hổ trợ cho người dân của họ bằng mọi cách, không phải chỉ vì họ giàu có, mà là họ quan niệm rằng đó là những  kiếp nạn "không phải do người dân gây ra". Người dân đen là nạn nhân đáng thương của cơn dịch bệnh quái ác, mà nguyên nhân còn chưa biết là do con người cố ý hay do tự nhiên gây ra.)

Tóm lại, xin có vài ý kiến vụn dựa vào cái hiểu biết hạn hẹp của mình. Các bạn nào muốn có thông tin cập nhật hơn nên tham khảo với các bác sĩ dược sĩ chuyên môn nhé. Phần còn lại, chính yếu vẫn là do các bạn, tự tìm hiểm & ứng biến dựa vào hoàn cảnh của từng người. Mỗi người mỗi cảnh. Xin cầu chúc tất cả các bạn cùng gia đình nhiều may mắn, thân tâm an lạc. Mong kiếp nạn sớm qua đi và cuộc sống bình an sớm trở lại !

PN

Wednesday, June 30, 2021

Trở về trường cũ



Ngày ấy đã qua

thầy cô người già người mất

bạn bè biền biệt 

đứa ngược đứa xuôi

Long não cứ đến mùa thay lá

hàng phượng vĩ cỗi dần trên lối xưa 

vẫn cánh rụng rơi 

như tuổi thơ của một thời nuối tiếc


Anh trở lại,

dẫu chỉ là đứng đợi

một buổi nào 

của ngày ấy xa xưa

những vô lý của thời trai trẻ

chưa nắm tay đã mộng mị tơ hồng

môi mới khẽ đã chim lồng cá chậu


Anh trở lại,

chỉ bởi lòng tơ tưởng

nhớ một thời hoa bướm qua đi 

những ước mơ đội đá vá trời

những cổ tích của thời cơm gế củ

rưng rưng buồn chuyện kẻ ở người đi

"trèo lên cây bưởi hái hoa,

bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân"

nên u uẩn đời lưu lạc 

có nỗi buồn của người con gái 


Anh trở lại,

rồi một mình đứng lặng

giữa sân trường ngoài đám lá lao xao

tất cả đều xa lạ 

con đường hai buổi ngày xưa 

nay Từ Thức,

chân lạc loài từ những bước loanh quanh

khung cửa hẹp mái đầu xanh ngơ ngác

"Dạ, có nghe Mẹ kể chuyện ngày xưa

ngôi trường cháu cũng một thời như thế ...."


Hạt bụi vô tình 

rơi vào khoé mắt 

nhoè nhoẹt chân chim

lấm sân trường cũ

Anh trở lại, 

hay ngày xưa trở lại ?

thềm cũ ai ngồi 

vạt nắng miên man …


PN


Saturday, June 26, 2021

Thơ của bạn,


Năm đó, lần đầu tiên về quê họp mặt với bạn bè cùng khoá sau mấy chục năm ra trường. Thực ra trường to nhiều lớp, có rất nhiều người ngày xưa mình chưa bao giờ biết, hoặc chưa bao giờ gặp mặt, hoặc chỉ nghe tên. Mà dẫu ngày xưa có biết nhau thì mấy chục năm cũng nhìn không ra. (Mấy ông tập kết xa quê nhà thời gian ngắn hơn mình, mà năm 75 về còn nhận vợ con không ra, huống chi mình :-)). Nhưng về trường cũ rồi thì gặp ai cũng tay bắt mặt mừng, như đã thân nhau từ muôn kiếp nào ....

Có thằng bạn rủ về dưới Thu Xà nhậu đặc sản cá bống kho, mực cơm nướng, cá cồi hấp ... Trời mưa, ngồi bên hiên quán lá dột nước, nghe nó kể chuyện "ôn tập" cả đêm, vừa mày tao, vừa tiếng đệm, tiếng lóng, tiếng Đan Mạch ... nghe đã tai lâu ngày. Viết bài này tặng bạn bè năm đó. Năm nay, đúng mười năm sau, lẽ ra đến hẹn lại lên, nhưng dịch bệnh lây lan, thôi đành hẹn bạn bè khi hết dịch nhé :-).

PN

Thơ của bạn,


Có những bài thơ
không bắt đầu bằng chữ nghĩa
mà tiếng "mày, tao" bên vỉa hè xưa

Bao nhiêu năm,
trời mưa bỗng dột
rớt vô tình như một lời ru
Trong góc tối tao thu mình rất khẽ
chợt vỡ òa ngày rất trẻ đầu xanh

Ở nơi đó,
tao đã từng lỗi hẹn
Nợ tình ai ngày hôn lén bờ môi
Nay trở lại bâng khuâng chiều chửa tối
Giữa quê mình lạc lối chạy loanh quanh

Nên cứ rót,
tao không đành để cạn
say ngọt ngào,
con bống sạn nằm queo,
Ðêm sao đủ cho nửa đời ấp ủ
Thế là thơ, cần giấy bút làm chi ?

Hôm nay,
còn lại tiếng ve
không xác phượng đỏ, không tre đằng ngà 
Một mình ngồi ở phương xa
bỗng dưng lại nhớ
hôm qua
.... thơ mày !

PN (2011)



Thursday, June 17, 2021

Tản mạn về "Từ thiện" ...

 


Gần đây trên mạng xã hội VN rầm rộ những câu chuyện đấu tố "từ thiện". Xấu có tốt có, đúng sai chưa biết, nhưng cứ đem ra khai tội lẫn nhau dưới nhiều hình thức, trần trụi và a dua. Và đây cũng không phải là chuyện mới mẻ gì đối với mạng xã hội. Tất nhiên đại đa số những chuyện đấu đá thị phi, hơn thua trên mạng lâu nay cũng chỉ là nghe đi nói lại, phán xét dựa theo cảm tính hoặc đám đông, chứ chẳng phải là quan toà có đầy đủ chứng cớ, nên không ai bảo đảm được điều gì. Nếu là nạn nhân thì cũng chẳng được quyền bào chữa công bằng, mà cho dù có cơ hội thanh minh thanh nga thì lý lẽ cũng chưa chắc có được giá trị gì trước đám đông hùng hậu và a dua của mạng xã hội. Cho nên mỗi khi nghe thấy những chuyện như thế này, mình thường liên tưởng đến câu chuyện người đàn bà bị ném đá trong kinh Thánh :-)

Thực tế thì kết quả cuối cùng của “đấu tố”, “sao kê”, lai chim lai chuột, ăn chặn ăn bớt, vụ oan giá họa, đúng sai ra sao còn chưa biết, nhưng chắc chắn sẽ làm cho nhiều người ngán ngẩm, và có thể gây ra nhiều ảnh hưởng cho các hoạt động "từ thiện" về sau, đặc biệt là trong giới văn nghệ sĩ. Mình thì nghĩ rằng những người có quan niệm đúng đắn về việc “hành thiện bố thí”, sẽ không dễ bị lôi cuốn vào những thị phi như vậy !

Nhân đây mình cũng có vài ý nghĩ tản mạn về chuyện "làm thiện". Tất nhiên cũng chỉ là những suy nghĩ cá nhân, đúng sai tuỳ người cảm nhận. Đọc cho vui thôi :-)

Xưa nay có nhiều người cho rằng động cơ của hoạt động từ thiện có liên quan đến tôn giáo, đức tin về nhân quả báo ứng hoặc phước báu công đức .v.v.. Điều này thì mình không rõ lắm, và cũng không hoàn toàn đồng ý. Tuy nhiên, có một điểm chung là tôn giáo nào cũng dạy tín đồ của họ sống tử tế, làm thiện làm lành. Nhưng làm thiện làm lành thì không nhất thiết là có liên quan đến tôn giáo. Còn quy luật nhân quả là của vũ trụ, không do ai tạo ra, cũng không thuộc quyền sở hữu của bất kỳ một tôn giáo nào. Và cũng chính vì quy luật nhân quả, nên những người sống tử tế, hành thiện làm lành chắc chắn sẽ gặp được những điều thiện lành, tốt đẹp đến với họ trong cuộc sống.

Tuy nhiên, trong cuộc sống không phải ai cũng tin vào đạo lý nhân quả hoặc có cùng quan niệm nhân sinh. Thiên hạ vốn có tư duy và trình độ hiểu biết khác nhau, nhiều nguồn đa dạng, nên tồn tại những dị biệt và mâu thuẫn, cũng là chuyện thường tình. Nhìn chung thì đại đa số cá nhân và tổ chức từ thiện ở VN đều hoạt động rất tốt, ngày càng phát triển và có nhiều ảnh hưởng tich cực đối với cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó thì cũng có những mặt trái tiêu cực, liên quan đến mê tín dị đoan, cúng bái nghi lễ, lạm dụng quyền hạn, vụ lợi cá nhân, ganh ghét đố kỵ …. Tuy không nhiều nhưng cũng tạo ra một số ảnh hưởng nhất định đến các hoạt động từ thiện chung của xã hội.

Ngoài ra cũng không hiếm những trường hợp quan niệm lệch lạc về ý nghĩa và mục đích của việc bố thí, từ thiện. Ví dụ như có một số ít người coi chuyện làm từ thiện như một sự ban phát, khai ân, nên mong đợi những sự hồi báo, như quyền lực, đặc ân hoặc sự tôn vinh từ kẻ khác, kể cả sự xưng tụng từ những người nghèo khó hoặc cộng đồng xã hội. Khi không được như ý, lại sinh ra bức xúc, bất mãn, thậm chí còn cắt đứt dây chuông, hoặc chửi bới doạ nạt đòi lại… Một số người khác có quan niệm giá trị của việc “từ thiện” quy ra "thóc", nên tính toán hơn thua, so đo giá trị đóng góp, chê bai cúng nhiều cúng ít, phúc nhiều phúc ít … vô tình làm tổn thương nhiều người khác. Thậm chí có nhiều người còn chờ đợi Phật, Chúa, Trời, Diêm vương, thần linh … sẽ ghi nhận công đức “lớn lao” của họ, mà đáp ứng những lời khấn nguyện hoặc ban bố ân điển cho họ. Đến khi không được “lại quả” như ý, thì lại kể lể, sân si, sinh ra lắm phiền toái cho bản thân và nhiều người liên quan. 

Trong cuộc sống đời thường, có nhiều người nhận thấy các việc làm sai trái, nhưng không phải ai cũng đủ can đảm và khả năng để nói lên sự thật, hoặc ngại đụng chạm, ngại phê bình thẳng thắn, ngại góp ý chân thành về các ứng xử lệch lạc của người thân quen, nên những ngộ nhận ngày càng nhiều. Xã hội ngày càng nhiều những hiện tượng tung hô quá đáng, đầy rẫy những ứng xử kệch cỡm, lạm dụng danh nghĩa trá hình như tôn giáo, cộng đồng, văn hoá dân tộc, yêu nước thương dân..v.v… Làm cho nhiều người có cái nhìn phiếm diện về công việc từ thiện, nghi ngờ lòng tốt của người khác, dẫn đến những phán xét không công bằng, vơ đũa cả nắm, hoặc đổ thừa đổ lỗi cho nhau. Và cứ thế, lần hồi những công việc từ thiện cao cả đáng quý lại trở nên phức tạp, đầy những nghi ngờ và đố kỵ, làm cho một số cá nhân và tổ chức tham gia gặp nhiều khó khăn hơn. Nhiều người có thiện tâm trong sáng muốn làm từ thiện cũng dè dặt hơn. Cho nên những suy nghĩ chín chắn về các hệ lụy gây ra do các tranh chấp hơn thua hoặc nhu cầu câu view trên mạng xã hội bao giờ cũng rất cần thiết.

Một yếu tố quan trọng nữa trong việc làm từ thiện bố thí, đó là bản sắc văn hoá đặc thù của từng địa phương. Có nhiều quốc gia và một số vùng miền trên thế giới, chuyện làm từ thiện hoặc đóng góp cho cộng đồng xã hội được coi như là những nhu cầu cần thiết và trở thành các sinh hoạt bình thường tự nhiên trong đời  sống. Cho nên không phải chỗ nào cũng có những cách làm từ thiện và ứng xử ồn ào như nhau.

Nhắc đến việc làm thiện làm lành, trong PG có một khái niệm rất quan trọng, đặc biệt là đối với những người nghiên cứu đi sâu vào con đường thực hành đạo pháp. Đó là hạnh bố thí trong sáu pháp tu học ba-la-mật. Tiếng Anh gọi đó là "Six Paramitas", hoặc "Transcendent perfections", tiếng Việt dịch ra là Lục Ba la mật (có một số sách dịch là Lục độ Ba la mật). Chữ mật ở đây không liên quan gì đến bí mật hoặc phù phép pháp thuật nào cả. Có thể chỉ là cách phiên âm từ tiếng Phạn ra TQ, rồi TQ sang VN từ thời xa xưa. Dĩ nhiên ở các nước Á đông, vốn có truyền thống PG lâu đời, nên được thuyết giảng về nhiều phương tiện tu tập khác nhau. Ngôn từ cũng đa dạng phong phú, và khó hiểu hơn, vì được diễn giải theo nhiều cách riêng khác nhau. Còn bên Tây phương, thì kinh sách viết theo tiếng Anh (English) nên chữ nghĩa trực tiếp hơn, đơn giản hơn, phù hợp với những người có ít vốn liếng kiến thức PG như mình. Tóm lại, Lục Ba la Mật (Six paramitas) là 6 tiêu chí tu tập cần thiết nhất cho một người muốn tìm đến sự giác ngộ của bản thân. Nhiều người cũng cho rằng đó là tu theo hạnh bồ tát. Thực ra chỉ là cách nói, dùng từ ngữ thế nào cho người khác hiểu đúng là tốt rồi. Bên PG Nam truyền (Theravada) quan niệm là có 10 paramitas, thay vì là 6. Suy cho cùng thì cũng chỉ là những phương pháp thực hành có cách gọi khác nhau, nhiều con đường cùng dẫn đến một mục đích. Tuy nhiên đây là một trong những lý thuyết căn bản nhất của PG, mặc dù đơn giản nhưng là mấu chốt trọng tâm nhất của việc tu tập. Bạn nào muốn đọc thêm, thì có rất nhiều tài liệu trên mạng. Các trường đại học lớn trên thế giới đều có nhiều tài liệu về lý thuyết PG này. Ví dụ như đại học lâu đời nhất của Anh, Oxford, trong thư khố Oxford Bibliographies, luôn có những tài liệu hoặc bài viết về "Six Paramitas". 

Trong phạm vi bài viết này, mình chỉ muốn nói đến cái ba-la-mật đầu tiên (1st paramita), đó là nói về Bố thí ba-la-mật-đa (tiếng Sankrit là danaparamita; tiếng Anh tạm dịch là perfection of giving, hoặc là generosity). 

Nôm na thì bố thí được định nghĩa là khả năng mở lòng để cho đi hoặc thiện chí để dâng hiến, mà không chờ đợi sự hồi báo. (Chứ nếu bố thí mà chờ đợi sự “lại quả”, kể cả lại quả công đức phúc báu, thì khác gì vừa bỏ ra một cục lại rinh về một cục khác nặng hơn:-). Bố thí được chia ra thành 3 loại:

1. Tài thí: là cho đi bằng tiền của, hiện vật, công sức... (như đại đa số các vị làm từ thiện ngày nay)

2. Pháp thí: là đem sở học sở đắc của mình mà hướng dẩn, giáo dục, thuyết pháp, truyền giáo, giảng giải đạo pháp, đạo làm người…cho kẻ khác.

3. Vô uý thí: là che chở hoặc bảo vệ trực tiếp hoặc gián tiếp các sinh linh yếu đuối, khờ khạo, ngây ngô, bất lực ... trước những bạo lực, cường quyền, sự sợ hãi và những chết chóc tai ương. Hy sinh và sẵn sàng cam chịu thiệt thòi bản thân để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chính nghĩa, giúp sinh linh thoát cảnh sợ hải, lo âu ...

Một số kinh sách cho rằng đó là 3 loại bố thí có cấp bậc từ thấp đến cao. Mình thì không nghĩ vậy. Có lẽ không có sự đo lường nào về công đức, nhưng có sự khác biệt khó dễ trong việc thực hành hạnh bố thí. Xưa nay mình thường nghe nhiều vị giảng giải về thực hành Bố thí Ba-la-mật-đa là vừa làm lợi ích cho người, vừa làm lợi ích cho mình. Theo thiển ý của mình thì chuyện làm lợi cho người, cho xã hội, cho nhân loại, thì ai cũng dễ dàng nhìn ra được. Nhưng nói chuyện làm thiện sẽ đem lại lợi ích cho chính bản thân thì khó nhận ra hơn, mặc dù đây mới là điều quan trọng mà những người tu học chân chính muốn hướng tới. Bởi vì chính sự bố thí đúng nghĩa mới là liều thuốc hoá giải mọi sự chiếm hữu và tham lam, bủn xỉn và bần tiện, kiêu ngạo và ích kỷ ...Đưa họ từng bước tiến đến gần hơn với sự giác ngộ và tỉnh thức !

Tất nhiên là trong mọi vấn đề, mọi lý thuyết đều có tính hai mặt của nó. Tỉnh hay mê, thiện hay ác, nặng hay nhẹ, có khi cũng chỉ là những đường ranh rất mỏng. Vượt quá giới hạn đó lại trở thành một ý nghĩa khác. Mình không phải là những nhà tu hành, càng không phải là các nhà nghiên cứu đạo pháp, hoặc các bậc cao nhân tri thức ... nên một lần nữa, đây chỉ là những hiểu biết trong giới hạn hiểu biết nhỏ bé của mình.

Giờ xin nói chi tiết chút. Thứ nhất nói về "Tài thí", quả nhiên là đơn giản nhất. Có công, có của, có lòng ... cho đi. Làm từ thiện, đi cứu trợ, quỹ tình thương, quỹ hổ trợ, quỹ học bổng, làm nhà tình thương, làm cầu, làm trường, bữa cơm có thịt, cái mền, cái áo, xây chùa, xây miểu ...v.v.. Tuy nhiên, đối với hạnh bố thí, thì sự "cho đi” không phải chỉ dựa trên sự dư đủ của vật chất tiền bạc, mà còn dựa trên khía cạnh tinh thần, sự thiện chí, sự buông bỏ, hy sinh, đức tính khiêm cung, và quan trọng nhất là lòng yêu thương. Vì thế, mỗi người chúng ta đều có những thứ để cho, để hiến dâng cho kẻ khác. Bố thí Ba-la-mật không tùy thuộc vào giá trị vật chất quy ra "thóc”, mà chính là khả năng mở lòng cho đi, sự thấu hiểu và đồng cảm, lòng thương yêu chia xẻ với những kẻ khốn cùng hoặc nỗi đau lâm nạn. Cho người nhưng thực sự là giúp chính bản thân mình. Bởi vậy vài chục tỉ của một đại gia (làm giàu chính đáng hoặc không chính đáng) so với vài ổ bánh mì của người nghèo hoặc bữa ăn cuối cùng của người ăn xin, đâu thể đem ra so sánh giá trị được. Người có nhiều cho đi nhiều, có ít cho đi ít, cần được ghi nhận và tôn trọng như nhau. Mà có lẽ cũng chẳng có ông Phật ông Chúa nào lại đi đo lường giá trị tài vật như thế, nếu có thì chỉ có thể là lòng thành hoặc năng lượng tích cực của việc bố thí tạo ra, và cũng chính bản thân của người đã “cho đi” mới biết. Thời nay rất nhiều sách báo, tài liệu nghiên cứu khoa học cũng đồng ý rằng chính sự thấu hiểu bản thân, tìm được sự an lạc từ bên trong mới chính là hạnh phúc đích thực. Đó là giá trị lớn nhất và cũng là những hạt giống karma seeds quý báu mà họ vừa gieo trồng trong mảnh vườn A-lại-da-thức của họ. Còn dẫu có lên đài, lên TV, lên youtube khoe khoang, thì chắc cũng không đem lại cho họ lợi ích gì, ngoài những phiền toái thị phi, hoặc những xưng tụng có tính chất tạm thời, phe phái. Có những người rất nghèo khó, buôn gánh bán bưng, chạy xe ôm, khuân vác hàng ngày, không có vốn liếng, không học thức, nhưng họ có thể bật khóc thông cảm trước cảnh khổ đau và cơ hàn của kẻ khác. Ngoài tình thương ra, họ chỉ có gói mì, ly nước, hoặc thậm chí không có tài vật gì để hiến dâng, nhưng chính lòng yêu thương đó cũng là sự bố thí đáng kính vậy.

Tuy nhiên, thực tế cuộc sống thì bố thí không phải chỉ đơn giản cho đi là xong việc. Nhiều người phát tâm " tài thí" đôi khi còn phải chịu đựng những thị phi, đố kị, ganh ghét, của thiên hạ chung quanh. Cũng là lẽ thường, thậm chí có lúc còn phải bị mang họa vào thân, hoặc nhận lãnh cả sự thù hận, mới hoàn thành được ý nguyện thiện lành của họ. Chưa hết, nhiều người làm từ thiện mà phải dấu diếm vì sợ người đời đánh đồng cá mè một lứa, nghi kị hiểu lầm động cơ từ thiện của họ. Bởi vậy cũng không hiếm những trường hợp có người chịu đựng không nổi những áp lực nghịch lý, hoặc không vượt qua được ải "thị phi" của thiên hạ chung quanh, đành ngậm ngùi gác kiếm không làm từ thiện nữa. Tức là chính họ đã thua cuộc trước cái mục đích hạnh trì cao cả của họ. Rớt từ vòng gởi xe :-). Bên cạnh đó, cũng có một số người động cơ chính của việc làm từ thiện là mong được hồi báo phúc đức, cho con cho cháu, kiếp này hoặc kiếp sau. Vô tình họ lại làm mất đi cái ý nghĩa cốt lõi của việc bố thí, vừa được nhẹ đi lại mưu cầu thêm những gắn bó mới (attachments). Nói tới đây mới nhớ tới thời mình về VN đi làm, gặp những ông anh cùng quê, rất nặng lòng với quê hương. Bao nhiêu năm qua, không hề mệt mỏi, bền bĩ, thầm lặng giúp đỡ quê nhà, chẳng mong gì sự hồi báo. Cho gạo, cho tiền, lập quỹ hổ trợ, xây trạm xá, xây trường học, giúp đỡ đồng bào, ngư dân. Chắc hẳn cũng có những lúc họ phải trãi qua nhiều thị phi, khó nhọc, nhưng chưa hề dừng bước. Rất khâm phục tấm lòng của các anh ấy.

Ở một số quốc gia đang phát triển, có nhiều nhà tỉ phú nổi lên nhanh chóng do các khe hở của luật pháp và chính sách. Bên cạnh sự giàu có của họ, đôi khi phải trả giá bằng những thiệt hại và khổ đau của nhiều người dân lương thiện khác. Một số người khôn khéo trích khoản phần nhỏ ra để làm “từ thiện”, để xoa dịu lương tâm bản thân, để bù đắp hoặc trấn an bàn dân thiên hạ, hoặc để đánh bóng tên tuổi. Đó không phải là ý nghĩa của bố thí trong paramitas. 

Ngoài ra cũng có nhiều sự bố thí khác cao cả hơn, như hiến dâng một phần thân thể, hoặc hy sinh cả mạng sống của họ vì sự an vui và tồn vong của kẻ khác gọi là Đại Bố thí. Trong lịch sử nhân loại, không hiếm những cá nhân, các chư vị tăng ni tu sĩ PG, hoặc các vị thánh tử đạo của Thiên chúa giáo ... đã từng hy sinh bản thân để giúp đời, truyền bá đạo pháp, thử thuốc cứu người, tự thiêu để đánh thức lương tâm của kẻ khác trước những ý đồ vô minh đen tối…v.v. Nhưng bên cạnh đó, thì cũng có nhiều trường hợp tuy hành động giống nhau nhưng mục đích lại hoàn toàn khác nhau. Nhiều người do xuất phát từ lòng hận thù, cuồng tín, vô minh, hoặc vì những mục đích chính trị khác nhau, cũng tự hy sinh hoặc xúi giục người khác hy sinh, gây ra bao thiệt hại, giết chết bao sinh mạng vô tội khác, làm rối loạn xã hội để phục vụ cho lợi ích cá nhân hoặc tổ chức đảng phái, ví dụ như các tổ chức khủng bố. Đó không phải là hạnh bố thí. Cho nên có nhiều hành vi hoặc hành động hoàn toàn giống nhau nhưng xuất phát từ những động lực khác nhau, thì lại mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. 

Thứ hai, nói về Pháp thí. Nghĩa là nói đến sự cống hiến, tri thức cho đi của các bậc truyền giáo, thuyết pháp, giáo dục, khai ngộ cho kẻ khác. Đây là một việc làm khó khăn, đa dạng và phức tạp hơn nhiều. Đồng nghĩa với khái niệm nước có thể nâng thuyền thì cũng có thể đắm thuyền. Truyền bá đạo pháp không đúng có thể huỷ diệt đạo pháp, đưa xã hội vào thời kỳ mạt pháp. Cho nên nói về Pháp thí là nói về những mục đích và phương tiện khác nhau. Thuyết giảng và truyền bá đạo pháp hoàn toàn lệ thuộc vào trí tuệ, khả năng, và duyên nghiệp của người giảng và người nghe. Chữ "duyên nghiệp" ở đây nói cho đơn giản một chút là sự kết hợp của những điều kiện "cần và đủ" như trong toán học, bao gồm cả cái Ngã, cái vô minh của đôi bên. Mình không dám nói nhiều về phạm vi này, vì đây là một vấn đề tế nhị, khó diễn đạt. Nếu nói không đủ ý, nhất là trong phạm vi của một vài phiếm luận ngắn, dễ gây ra sự hiểu lầm và trịch thượng. Và đó cũng chính là một thứ duyên nghiệp của mình vậy :-) . 

Đại khái, nhiều người khi đến với tôn giáo thì đặt hết niềm tin vào đó. Nhưng đôi khi có sự nhầm lẫn giữa phương tiện và mục đích, nên bị cuốn hút vào những giá trị ảo thuộc về hình thức nghi lễ bên ngoài, mà không có cơ hội tìm hiểu sâu sắc về bản chất thực sự của tôn giáo nên dẫn đến nhiều ngộ nhận đáng tiếc. Bên cạnh đó cũng không hiếm các trường hợp hiểu lầm về đạo pháp do sự giảng giải và hướng dẫn lệch lạc của một số chư vị tu tập dưới màu áo tu sĩ nhưng lại không hiểu biết thấu đáo giáo lý hoặc có những mục đích riêng tư khác. Nhiều vị có thể là do khả năng hoặc kiến thức, hoặc do ngã chấp nặng nề, hoặc do bị chỉ phối bởi các yếu tố đời thường, mà vô tình hay cố ý dẫn dắt đức tin của thiên hạ đi vào chỗ mê tín dị đoan, bùa phép ma thuật, hối lộ thần thánh, hủ tục vô lý…v.v. Và cũng chính vì ngộ nhận chánh pháp nên mưu cầu và hứa hẹn những điều không có thực. Thậm chí còn bị lôi cuốn và quay cuồng trong những chuyện hơn thua tên tuổi danh vị, vọng tưởng công đức, so đo công trạng .v.v..Vô tình ngày càng đưa mình đưa người vào những ngõ rẽ vọng tưởng, càng xa rời chánh pháp và sự giác ngộ. Tất nhiên trong cuộc sống này thì vẫn luôn có nhiều chư vị tăng ni, nhiều bậc tri thức, cư sĩ, thiện nam tín nữ đầy đủ phẩm chất, trí huệ sáng suốt, đạo đức khiêm cung, kiến thức rộng lớn, sẵn sàng dạy dỗ và hướng dẫn kẻ khác đi theo con đường phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên, ở đâu cũng vậy, con người thường sẽ không biết cái mà mình không biết. Ai cũng có những bộ lọc riêng, nên thường có xu hướng tìm nghe những gì họ thích nghe, tìm thấy những gì họ thích thấy. Không ai ngoại lệ cả, trừ khi sự hiểu biết và tu tập của họ đã được thực chứng trải nghiệm và vượt qua những nấc thang trở ngại đời thường này rồi. Nhưng đó cũng là những câu chuyện dài trong cuộc sống!

Thứ ba, nói về "Vô úy thí" (abhayadana). Nghĩa là nói đến sự che chở và bảo vệ trực tiếp hoặc gián tiếp những sinh linh (người & vật) yếu đuối, khờ khạo, ngây ngô, không phương tiện tự vệ trước những bạo lực, lo âu, sợ hãi và chết chóc. Nhiều người dùng trí tuệ, tài lực, và ngôn ngữ của họ khuyên bảo an ủi động viên kẻ khác vượt qua những thời khắc khổ đau nhất hoặc khó khăn nhất. Đại khái là như thế, nhưng theo thiển ý của mình, đây là cấp bậc bố thí cao hơn và là sự kết hợp của hai dạng bố thí trước. Nhiều chùa chiền Bắc truyền ở VN đều thờ cúng Bồ Tát Quan Âm "cứu khổ cứu nạn". Có lẽ là biểu tượng của hình thức bố thí "vô úy thí" này. Để che chở hoặc bảo vệ cho sinh linh thoát khỏi cảnh khổ đau và sợ hãi cùng cực, có lẽ không còn ranh giới giữa "tài thí" hoặc "pháp thí" nữa, mà cần có một hành vi hoặc trạng thái tự nhiên hơn. Có thể phải đòi hỏi một khả năng kết hợp nhiều yếu tố khác nhau để thực hiện công việc hiệu quả. Mặt khác cho dù nhiều người rất có thiện tâm, nhưng “vô úy thí” đôi khi không phải là những việc làm dễ dàng như cho đi một món đồ. Thậm chí có thể phải hy sinh cả cuộc đời hoặc bị ảnh hưởng lâu dài đến nhiều thế hệ. Như trong đời sống hàng ngày, có lúc chúng ta nhìn thấy những nghịch lý gây ra biết bao nhiêu hệ lụy khổ đau phiền muộn cho người khác, nhưng không phải ai cũng có đủ dũng khí, bản lĩnh, để lên tiếng bảo vệ lẽ phải và bênh vực cho kẻ yếu. Ngoài ra, bên cạnh tình thương, lòng kiên nhẫn và sự hy sinh, nhiều lúc còn đòi hỏi phải có trí tuệ và bản lĩnh mới thay đổi được những nghịch lý trong cuộc sống để bảo vệ kẻ yếu. Cho nên có lẽ vậy mà nhiều người đành lực bất tòng tâm. Bên cạnh đó, cũng có nhiều trường hợp biết sai nhưng chỉ vì một ít quyền lợi riêng tư, hoặc vì sự yên ổn của bản thân và gia đình, mà nhiều người đành phải chọn lựa giải pháp quay lưng với sai phạm, mà đúng ra họ phải đấu tranh để bảo vệ người dân thấp cổ bé họng. Đó là một vài ví dụ thường gặp trong cuộc sống đời thường. Bản thân chữ Abhayadana có nhiều ý nghĩa sâu sắc trong các ngôn ngữ cổ xưa như Jainism, Prakrit, Hinduism, Sanskrit, Marathi. Bạn nào muốn tìm hiểu nên đọc thêm nghen. Thực ra, ngày càng già đi, mình mới hiểu ra rằng có nhiều thứ càng nói càng thiếu (hoặc càng sai). Chỉ có sự im lặng, suy gẫm, và tự nhiên cái hiểu sẽ đến !

Cũng không biết có phải vì sự hạn chế của ngôn ngữ mà nhiều vị thiền sư ngày xưa không chọn con đường thuyết giảng để truyền thừa đạo pháp cho các thế hệ sau ? Nhiều vị còn chọn phương cách “vô ngôn”. Nhìn lại lịch sử PG VN hôm nay, rất nhiều tổ đình lớn như Từ Hiếu, Từ Đàm, Thiên Ấn ..cũng như các vị cao tăng tên tuổi như Ngài Tịnh Khiết, Huyền Quang, Nhất Hạnh ... đều xuất phát từ tông Lâm Tế. Mà ngài tổ sư của tông Lâm Tế là Lâm tế Nghĩa Huyền có một câu nói rất nổi tiếng..."Đừng có bị lôi cuốn vì những cái áo. Có cái áo thanh tịnh, có cái áo vô sanh, áo bồ đề, áo niết bàn, áo Tổ, áo Phật. Các ông có biết cái người mặc áo không? ”. Tất nhiên ai cũng hiểu điều mà Ngài muốn nói đến là - Chúng ta thường chỉ nhìn thấy cái áo bên ngoài mà không biết “người” mặc áo. Thấy được chân tướng vấn đề mới là điều mà Ngài muốn chúng ta hướng đến. Thế nhưng thời nay biết bao nhiêu người làm được chuyện đó. Và làm "từ thiện" cũng là một chiếc áo đẹp !

Dông dài thêm một chút, VN mình lâu nay luôn cảm thấy may mắn và tự hào về tông thiền Trúc Lâm Yên Tử. Thiền Trúc Lâm Yên tử đã trở thành một biểu tượng tôn giáo và văn hoá hàng đầu của PG VN. Còn Tết nhất lễ hội, cúng mâm cúng quả, cầu phúc cầu tài thì khỏi nói rồi. Cả nước hiện nay có biết bao nhiêu chùa chiền thuộc nhánh Trúc Lâm, và có rất nhiều chư vị tăng ni, thiền sư khả kính, trí tuệ uyên bác. Và khi nói đến dòng thiền Trúc Lâm, ai ai cũng nói đến công lao của vị vua khả kính Trần Nhân Tông sáng lập ra. Tuy nhiên ít người nhắc đến Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, anh cả của Đức Thánh Trần Trần Hưng Đạo, và là người đã dẫn dắt, dạy dỗ vua Trần Nhân tông vào con đường tu học đạo pháp. Ông có viết quyển "Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục", do chính vua Trần Nhân Tông đích thân ghi lại. Rất hay, nhưng sau này cũng ít khi nghe người ta nhắc đến !

Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ là học trò của nhà sư Tiêu Dao. Trong cuốn "Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục", ông có kể lại rằng khi ngài Tiêu Dao (thầy của ông) đến nước ta để truyền giảng đạo pháp, Ngài ở trần không mặc áo, tay cầm cần câu không lưỡi, ngang nhiên đi vào kinh thành nhà vua. Hồi trước đọc tới đó, mình nghĩ cũng may mắn cho VN ta là Ngài Tiêu Dao sinh vào thời đó. Chứ nếu Ngài xuất hiện ở thời này mà không mặc áo, đi chân đất, lại không có chức danh, không trụ trì chùa nào, làm sao có cửa vào phủ chủ tịch ?

Biết ơn duyên lành !

PN

Friday, June 04, 2021

Giàn thiên lý đã xa .....


Mấy hôm nay nghe anh D kể lại thời thơ ấu, tự nhiên mình cũng đâm ra nhớ nhà. Hai thế hệ cách nhau khá xa, thời ảnh đi du học bên Tây thì mình mới vô mẫu giáo. Vậy mà vẫn còn đó
như in những địa danh, những con đường, và ngày tháng của một thời đã xa ...

Nào là Ngã Tư chính, nhà máy nước, phòng đọc sách, trường Mai Xưa, Tạ Từ đường, chợ Trời, cây xăng trong, cây xăng ngoài, tiệm giặt ủi, tiệm bán vé máy bay bà K, trường Chấn Hưng, Bồ đề, TQT .....cho đến những trò chơi xập xám, các-tê, bài cào ăn bao thuốc lá. Đúng là trí nhớ của anh giỏi thiệt. Chứng tỏ mấy cô gái châu Âu tóc vàng mắt xanh và "...chốn thành đô nhà cao cửa rộng" không đủ khả năng làm cho anh quên được hủ mắm cái quê nhà :-). Khâm phục !

Nhìn lại, quả nhiên thời gian qua nhanh thậtNhững câu chuyện anh kể nghe mới như hôm qua mà nay đã hơn nửa thế kỷ. Cũng nhân nhắc đến chuyện xa nhà nhớ quê, nhớ làng, nhớ bạn bè, nhớ người "em gái hậu phương", mình nhớ tới bài hát "Giàn thiên lý đã xa". 

Thời còn đi học, ở ký túc xá. Tối tối nhớ nhà, vài ba đứa rủ nhau ôm đàn ra ngoài hiên hoặc leo lên sân thượng, chuyền tay nhau từng điếu thuốc củi, ngồi đàn hát vu vơ .... Thời đó nhạc vàng thì phải nghe lén, nhưng nhạc tây 70+ thì vẫn còn thịnh hành. Vẫn còn Eagles, Abba, Bee Gees, Queen, Boney M, Carpenters, Lobo...v.v...Nhưng da diết và "nẫu ruột" nhất vẫn là bài "Giàn thiên lý đã xa" !

Mà nói tới thì phải ngã mũ khâm phục ông nhạc sĩ Phạm Duy. Từ một bài "Scarborough Fair" xa lơ xa lắc như vậy mà làm sao ông có thể đặt ra những lời nhạc "đốn tim" như thế ? Mình đã từng nghe đi nghe lại bao nhiêu lần Simon & Garfunkel hát Scarborough Fair. Hay thì có hay, nhưng đối với mình thì không thể "phê" bằng Thanh Lan hát "Giàn Thiên lý đã xa" được :-)....

Tội nghiệp thằng bé cứ nhớ thương mãi quê nhà

Giàn thiên lý đã xa, đã rời xa 

Đứa bé lỡ yêu, đã lỡ yêu cô em rồi 

Tình đã quên mỗi sớm mai lặng trôi ...

Còn chuyện "nhớ thương mãi quê nhà", thì có khi chưa hẳn là nhớ mẹ nhớ cha, mà chỉ nhớ vu vơ vài em nào đó. Thời đó ai rời trường trường trung học mà lại chẳng từng “yêu” một đôi lần ? Có thể chỉ là thương thầm trộm nhớ ai đó, có "đồ chơi mang đến lại mang về". Hoặc mỗi ngày lớ ngớ thấy nhau chút, đứng bên dãy lớp này mà ngóng dãy bên kia là hạnh phúc rồi. Ngon lành hơn thì rủ nhau hẹn hò đi ăn chè ăn sinh tố coi phin, ghé Thanh Hương ăn chè ỉ, lục tàu xá... :-). Còn ngon hơn nữa thì nắm tay nắm chưng, ôm eo ôm iếc, đèo nhau đi sông Vệ, Mỹ Khê, Phú thọ ... hoặc đâu đó. Còn mấy anh ngoại hạng hơn nữa thì chắc cũng có, nhưng mình không biết hoặc chưa được nghe kể. Nôm na chỉ là thế, nhưng đi xa chút thì ôi thôi ướt át lãng mạn vô cùng. Còn như anh D đi ra nước ngoài, xa hơn nửa vòng trái đất thì còn "tan nát lòng nhau" đến dường nào. Cũng may là hồi đó chưa có phone, facetime, viber, zalo ....như bây giờ :-) .

Nhưng phải cảm ơn âm nhạc, vì chỉ có âm nhạc mới đưa chúng ta trở về chốn cũ một cách nhanh chóng nhất. Không có phi thuyền, tên lửa, máy bay supersonic...nào mà nhanh bằng âm nhạc. Chỉ cần một bài hát cũ cất lên hay một điệu nhạc quen thuộc trỗi dậy, là đủ để kéo theo cả một vùng trời ký ức ! 

Và tất nhiên là trong mỗi chúng ta ai cũng có một ngăn kéo tuổi thơ riêng biệt. Cho dù mỗi người có trãi qua khác nhau những khổ cực nhọc nhằn vật chất hoặc bất công bất hạnh của gia đình & xã hội, thì trong ngăn kéo đó đều có những kỷ niệm ấm áp và trân quý dành riêng cho chính họ. Nhớ có ông nhà văn nào đó nói là "Ký ức tuổi thơ là những giấc mơ còn đọng lại sau khi thức giấc", cho nên mấy anh mơ nhiều thì ký ức tuổi thơ sẽ còn đọng lại nhiều hơn :-).

"It's never too late to have a happy childhood". Thôi chúc mấy anh chị luôn bình an hạnh phúc. Mong mùa dịch chóng qua, lại rủ nhau về quê ôn tập chuyện ngày xửa ngày xưa.

Ôi, giàn thiên lý đã xa, tội nghiệp (những) thằng bé cứ nhớ thương mãi quê nhà.... 

PN


Thursday, May 27, 2021

Tâm và công đức ?


Lâu nay mình vẫn nghĩ có lẽ cái khó nhất trong cuộc sống này là làm sao để có được một cái bánh mà cắt ra ai ăn cũng thấy ngon giống nhau. Nhưng nói đùa vậy thôi, chứ chắc chắn là không ai có thể làm được điều đó. Mỗi người mỗi ý, ngộ tánh khác nhau. Chúa Phật cũng phải chào thua, bởi kinh điển hoặc bất kỳ một lý thuyết tôn giáo nào cũng không thể giúp cho thiên hạ có cùng một sự lãnh hội và hiểu biết giống nhau được.

Mấy hôm nay là mùa lễ Phật đản (đản sanh). Nhiều xứ, nhiều nơi tổ chức cúng lễ rầm rộ. Nhiều chùa tổ chức rất quy mô để cầu cho quốc thái dân an, đẩy lùi dịch bệnh. Dĩ nhiên là không phải đất nước PG nào cũng có ngày Phật đản giống nhau, mặc dù đa số đều tổ chức vào tháng 4 Âm lịch. Mình thì thường nói vui với bạn bè là.... "Chọn lựa ngày nào chắc cũng được, vì Phật không sinh ra vào tháng nào cả, mà đó chỉ là ông thái tử Tất đạt Đa ra đời thôi !"  :-) . 

Rằm tháng 4 năm nay, hôm qua, cũng là một ngày rất đặc biệt. Giới khoa học gọi là ngày nguyệt thực "trăng máu" (blood moon). Trái đất nằm ngay chính giữa mặt trời và mặt trăng. Khoa học thì giải thích đơn giản vậy, còn các ngài phi khoa học thì giải thích ác liệt hơn nhiều, điềm báo lung tung .... 

Nhân mùa Đản sanh, xin mạn phép gởi đến quý anh chị và bạn hữu một bài dịch của cố GS Phạm Công Thiện, dịch từ bản gốc tiếng Pháp của Léon Wieger. Léon Wieger là một nhà truyền giáo Thiên chúa giáo người Pháp, một bác sĩ y khoa nổi tiếng vào đầu thế kỷ 20, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Đông phương, Đạo giáo, Phật giáo ..v.v.. Đây là bài ông viết về buổi thuyết giảng đầu tiên của ngài Bồ Đề Đạt Ma tại TQ, giảng cho vua Lương Võ Đế và triều đình TQ thời bấy giờ. Rất hay, nên đọc !

Cũng xin nhắc lại một điển tích PG rất hay ngày xưa. Vua Lương Vũ Đế là một vị vua khai quốc của triều nhà Lương. Ông là người rất sùng đạo, chuyên xây chùa, luôn làm phước, làm thiện ... và là một trong những vị vua cai trị đất nước TQ thịnh vượng và hùng mạnh nhất. Khi gặp được ngài Đạt Ma, ông hỏi "Ta chuyên làm chuyện tốt nhiều như vậy, có công đức không ?". Ngài Đạt Ma trả lời : Không, không có công đức gì !

Còn thời nay ai mà dám nói "không" nhể ?  Hihihi...:-)

PN

-----------




(BÀI THUYẾT PHÁP CỦA TỔ BỒ ĐỀ ĐẠT MA CHO VUA LƯƠNG VÕ ĐẾ)

(Bản dịch sang tiếng Việt của gs Phạm công Thiện)

Sau đây là bản dịch Bài Thuyết Pháp của Bồ Đề Đạt Ma trong Histoire des Croyances Religieuses et des Opinions Philosophiques en Chine (Depuis l’origine jusquà nos jusquà nos jours) của Léon Wieger (1922).

Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và toàn thể văn võ bá quan là những thành phần trí thức ưu tú trong nước. Lương Võ Đế tuy là một ông vua sùng đạo và các quan văn trong triều tuy là những bậc trí thức trong nước, những cũng không lãnh hội và chấp nhận nổi những ý chính trong bài thuyết pháp, một phần vì nhà vua và các quan còn chấp thủ, một phần vì lời thuyết pháp quá ư mạnh bạo, gần như sổ sàng tuy lý luận rất đanh thép, ngôn từ rỏ ràng và cô đọng. Bài thuyết pháp tuy rất ngắn gọn nhưng thật là đầy đủ ý nghĩa, bao gồm được tất cả tinh hoa của giáo pháp Phật và cốt lõi của thiền. Có thể nói cuốn Đạt Ma Huyết Mạch Luận chỉ triển khai những tư tưởng trong bài thuyết pháp nàỵ. Thất bại trong lần thuyết pháp đầu tiên ở Trung Hoa, Bồ Đề Đạt Ma bỏ ra đi. Ngài không thuyết pháp nữa mà ngồi thiền trước một bức tường (bích quán) trong suốt chín năm trời.

Phần thứ nhất: Bản Chất Của Tâm

Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật - quá khứ và vị lai - đã và sẽ được tạo thành trong tâm. Sự hiểu biết được truyền từ tâm sang tâm qua ngôn từ nên tất cả những kinh sách chẳng có ích lợi gì. Tâm của mỗi người đồng điệu và tương ứng với thực tại muôn đời, với thực tại muôn nơi. Tâm là Phật không có Phật ngoài tâm. Coi giác ngộ và niết bàn là những sự vật ở ngoài tâm là một điều sai lầm. Không có giác ngộ ở ngoài tâm linh động. Không có chỗ nào gọi là nơi chốn của những người đến niết bàn. Ngoài thực tại của tâm, tất cả đều là huyễn tượng. Chẳng có nhân, chẳng có duyên. Chẳng có lý do, chẳng có kết quả. Chỉ có một thực tại duy nhất. Đó là: Tư tưởng của tâm và sự an nghỉ của tâm chính là niết bàn. Đi tìm một sự vật ngoài tâm là đi tìm bắt hư không. Tâm là Phật và Phật chính là tâm. Tưởng tượng Phật ở ngoài tâm hay hình dung Phật ở ngoài tâm là mê sảng.

Phần Thứ Hai: Phương thức

Vậy phải nhìn vào trong chứ không nhìn ra ngoài. Phải tự lắng vào chính mình để thấy Phật tánh trong chính mình. Tất cả chúng sanh đều là Phật như mình nên mình chẳng cứu ai cả. Không có vị Phật nào hơn mình nên không phải van xin, cầu nguyện ai cả. Không có Phật nào hiểu mình hơn chính mình nên không phải học hỏi trong những kinh sách của các vị ấy. Không có luật pháp nào kiềm hãm được Phật. Một vị Phật không thể sa ngã nên ta không sợ phạm tội. Không có thiện, không có ác. Chỉ có những động tác của tâm. Mà tâm là Phật nên tự tánh không thể lầm lỗi được. Cúng kiến, hoằng pháp, nhiệt thành giữ giới, bố thí cầu kinh và tất cả những thứ khác đều không có ích lợi gì cả. Chỉ cần một điều duy nhất là nhìn thấy Phật nơi mình. Sự nhìn thấy Phật ở nơi mình đưa đến giải thoát, đến niết bàn.

Phần Thứ Ba: Phật Tánh

Không có bất cứ một cuốn kinh nào, không có bất cứ sự tu khổ hạnh nào có thể đưa ta ra khỏi luân hồi. Học kinh và tu khổ hạnh hoàn toàn vô ích, phù phiếm. Không có quyển sách nào đáng cho ta mở ra đọc. Trong sự an tĩnh, vô vi hoàn toàn hãy kiến tánh ở nơi mình, nơi chính tâm mình. Đó mới đúng là Phật. Chỉ học nhìn thấy Phật tánh thôi vì đó là điều duy nhất đáng học. Tất cả những hình tượng khác đều là sương mù, ảo ảnh. Hãy nhìn Phật nơi mình. Đó mới là cái nhìn trung thực duy nhất. Phật tánh ở trong mỗi người và trong tất cả mọi người, Phật tánh đều giống nhau. Khi quên tất cả mọi sự và chỉ giữ lại thực tại duy nhất đó là thoát khỏi vòng luân hồi và tới niết bàn. Tất cả những kẻ thuyết lý đều là trợ thủ của Mara và đưa con người đến chỗ huyễn tưởng. Mọi hệ thống triết học đều hoàn toàn sai lầm và có tính cách lường gạt. Nói đến sự tẩy uế, thiện nghiệp, chuyên tâm và tiến bộ là phỉnh lừa thiên hạ. Mỗi người là Vị Phật của chính mình và của tất cả. Điều ta phải làm cho tới cùng là nhận thức rằng thực tại và chân lý duy nhất ấy tiềm tàng trong mỗi người chúng ta. Không có tội hay đúng hơn chỉ có một tội duy nhất: Đó là tội vô minh, tội không nhận được ra Phật tánh ở chính nơi mình. Tội này rất nặng vì nó giam ta trong cõi vô thường. Thân xác là phù du. Cuộc đời trôi nhanh như một giấc mộng. Trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời ta phải tự giải thoát bằng cách tự khám phá chính hình bóng của mình. Trong giấc mộng đời, ta có thể thấy được thực chất của mình. Trong giấc mộng đời, chính Pháp thân tự hé mở trong bản thể. Đó là thực thể.

Phần Thứ Tư: Pháp Thân

Pháp thân này vĩnh cửu. Trải qua vòng luân hồi, thăng trầm qua vô lượng kiếp, pháp thân vẫn không sinh, không diệt, không thêm, không bớt, không nhơ nhớp, không bị tẩy sạch, không yêu, không ghét, không đến, không đi, không đàn ông, không đàn bà, không già, không trẻ, không tu, không tục, không có, không không. Pháp thân không một mà cũng không nhiều, không thánh mà cũng không phàm. Pháp thân đi vào tất cả không bị trở ngại và không gì ngăn cản được. Pháp thân ung dung trong những kiếp liên tiếp, trong vòng sinh tử.

Chúng sanh và vận mạng của chúng sanh đều qui về pháp thân. Ta thấy pháp thân này ngay trong ta. Ta phải di động và hành động trong ánh sáng của tâm. Pháp thân bao trùm tất cả chúng sanh như sông Hằng giữ nước của nó hằng hà sa số những phân tử phù sa. Ta không thể diễn tả pháp thân được, mà cũng không thể giải thích pháp thân bằng ngôn từ. Mỗi người hãy tự chiêm ngưỡng, lãnh hội pháp thân cho chính mình. Lãnh hội được pháp thân là giải thoát, là giác ngộ. Lãnh hội được pháp thân là ra khỏi sự giao động của thế lực mà đức Thích Ca Mâu Ni gọi là cuồng loạn vĩ đại. Giác ngộ đưa ta vào trong tỉnh lặng hoàn toàn. Người ta phải khám phá chính bản thân mình, khám phá Phật tánh ở mức độ ngoài khả năng diễn đạt của ngôn từ và tư tưởng. Pháp thân vô hình, bất biến và không thể bị hủy diệt. Chẳng có Phật nào khác ngoài pháp thân vì pháp thân ở trong chư Phật. Pháp thân cũng ở trong tất cả mọi người.

Phần Thứ Năm: Tĩnh Tâm

Xin nhắc lại rằng vì tánh chất của pháp thân, ta chẳng cần kinh kệ, chẳng cần cúng tế, thờ phụng mà cũng chẳng tìm cái gì ở ngoài bởi lẽ trong mình ta có tất cả. Tất cả những sự vật bên ngoài đều là hư ảo giả tạm. Chẳng có gì thật ngoài pháp thân. Nguyện cầu những gì sùng bái chính là mình, sùng bái những gì chính là mình là một việc phi lý và vô ích. Điều cốt yếu là làm sao có yên lặng và tĩnh tâm; vì yên lặng, tĩnh tâm giúp ta thấy pháp thân chính nơi ta tức là thấy Phật. Tất cả những biểu tượng giả tưởng, tất cả những biểu tượng vật chất đều sai lầm. Chính sự sai lầm ấy giữ ta lại hoặc đưa ta vào trong vòng luân hồi tái sinh. Không nên sùng bái những hình tượng thoát thai từ nơi mình bởi vì những hình tượng ấy không thuộc pháp thân. Chỉ nên sùng bái những ý tưởng phát ra từ Phật tánh. Phải bỏ tất cả những giả tưởng về thần thánh linh thiêng vì đó chính là những ảo tưởng phù phiếm. Không nên thờ kính những vật giả tưởng đó mà cũng chẳng phải sợ hãi những thứ đó. Cũng nên quẳng bỏ tất cả những ảo ảnh về chư Phật. Ảo ảnh chỉ là những ảo tưởng phù phiếm.

Phần Thứ Sáu: Thiền Luận

Không có gì quí hơn những ý tưởng vô hình của tâm phát ra từ Phật tánh. Chỉ có một điều ta thấy thật sự là: Pháp thân ở nơi Ta. Phật là một tiếng Ấn Độ, không phải tên người và có nghĩa là giác ngộ, linh giác mà mọi người có thể đạt tới được. Sự giác ngộ này chính là thiền. Những kẻ đối nghịch với chúng ta không thể hiểu được giá trị mà chúng ta đem vào danh từ thiền. Thiền không có nghĩa là tham thiền, suy tưởng. Ta chỉ đạt đến thiền khi ta thấy được Phật tánh ở chính mình. Một người đọc vô số kinh luận mà không kiến tánh thì chỉ là kẻ phàm tục tầm thường. Đạo lý ta khó hiểu đối với mọi người vì ngôn từ không đủ khả năng diễn tả được đạo. Chỉ có kẻ nào đạt được mới hiểu. Ta có thể nói với những môn đồ ta như vầy: Các ngươi phải đạt đến Phật tánh nơi các ngươi tức là pháp thân nơi các ngươi. Làm thế nào diễn tả được... và bởi vì không thể nói ra được nên tất cả những kinh luận đều vô ích. Kinh luận chỉ là những câu chuyện phù phiếm, đi quanh vấn đề. Kiến tánh là một hành động giản dị. Kiến tánh không thể chia ra thành từng phần nên ta không thể tri và hành từng phần một. Kiến tánh cũng giống như nuốt một thứ đồ ăn, cũng giản dị và lập tức như thế. Người ta không bao giờ thuyết lý viễn vông chung quanh sự nuốt đồ ăn. Ta biết nuốt hay không biết nuốt. Chỉ có thế thôi! Kẻ nào tưởng tượng một thực tại ngoài Phật tánh bên trong và tìm cách xác định thực tại ấy, kẻ ấy rơi vào sai lầm nghiêm trọng. Tất cả những ý tưởng ngoài ý tưởng về Phật tánh nội tại chỉ là những bóng ma phù phiếm. Chính những ý tưởng đó sinh ra bóng ma, những sai lầm và giữ con người triền miên trong vòng luân hồi. Con người sẽ được giải thoát khi đã phủ nhận tất cả những bóng ma và những sai lầm ấy, đồng thời gắn liền với Phật tánh ở trong nội tại. Giây phút giác ngộ này, giây phút giải thoát này, mỗi người hãy tự mình đi đến. Giáo lý chỉ có thể giúp người ta chuẩn bị. Giáo lý không thể tạo ra giác ngộ. Mộng không thể học được. Chết không thể học được. Lãnh hội Phật tánh nơi chính mình cũng không thể học được. Pháp thân rất giản dị. Ta không thể tạo ra được mà chỉ lãnh hội được. Kẻ nào đã lãnh hội được pháp thân thì không cần thiên đàng, không còn địa ngục, không còn mình, không còn kẻ khác, không còn gì bên ngoài. Vậy việc lãnh hội pháp thân là việc của đức tin tuyệt đối, không mảy may pha lẫn bóng tối ngờ vực. Khi người ta mộng, người ta không bao giờ nghi ngờ bởi vì người ta thấy thực tánh của mình. Trong khi thức, ta cũng phải tin tưởng vững chắc như vậy dù có bị những ảo tưởng của giác quan và những sai lầm của trí tưởng tượng ràng buộc.

Phần thứ bảy: Vô Minh

Đối với những người đã khám phá được bóng hình của mình và không còn bị bất cứ một hệ lụy nào ràng buộc, thì bất cứ một hành động nào của thể xác vật chất cũng không có thể ảnh hưởng đến pháp thân. Một kẻ phàm tục làm nghề đồ tể cũng có thể là một vị Phật. Kẻ nào đã lãnh hội được Phật tánh thì không tạo nghiệp nữa dù làm bất cứ một hành động nào bởi vì kẻ ấy đã giác ngộ. Nghiệp chỉ đeo đuổi những người chưa giác ngộ vì những người đó còn trong vòng u tối vô minh. Chính sự ngu muội này đã tạo ra vòng đầu thai, luân hồi ở địa ngục, làm thú và làm người. Tất cả nợ tinh thần chấm dứt ngay khi giác ngộ phá hủy vô minh. Bậc giác ngộ không làm nên tội lỗi và cũng không phạm tội nữa.

Phần thứ tám: Giác Ngộ

Ta phải giảm dần những ấn tượng, bớt dần tham vọng, (bớt dần) tập trung và an trí. Đó là chuẩn bị. Kinh kệ, tu khổ hạnh, công trình nghiên cứu học hành đều chẳng có lợi ích gì cả. Kiến tánh không thể học được. Tại sao có những người đã chuẩn bị cẩn thận và có thành tâm đứng đắn mà vẫn không kiến được tánh? Bởi vì nghiệp của họ chống đối lại. Sự hôn mê mù quáng của họ, sự sai lầm chai cứng của họ, sự bất lực của họ là những hình phạt về những tội lỗi của họ trong quá khứ. Họ chưa trả hết nợ. Họ chưa đủ trong sạch để đạt được giác ngộ. Đây là nợ tinh thần và nỗ lực cá nhân chứ không phải do địa vị xã hội.

Phần thứ chín: Phật là gì?

Ta đến Trung Hoa để truyền bá tâm ấn, đạo lý mới lạ ở đây chưa ai biết. Phật ở trong tâm mỗi người. Giữ giới luật, tu khổ hạnh, cầu kinh, nghiên cứu nghĩa lý, tất cả những thứ này chẳng dùng được việc gì cả. Mục đích duy nhất mà mọi người phải đạt được là giác ngộ. Khi nào đạt được giác ngộ là thành Phật, một vị Phật như tất cả chư Phật dù cho kẻ ấy không đọc được một chữ nào cả. Thành Phật nghĩa là thấy Phật tánh nơi mình, nơi tâm mình, nơi tâm của tâm mình. Phật tánh vô hình, không thể rờ mó được, bản thể của nó mong manh như hư không. Tâm ấy mọi người đều mang trong mình.

Tâm hỡi, tâm ơi!

Mi lớn đến nỗi bao trùm cả vũ trụ.

Mi nhỏ đến nỗi mũi kim không thể xuyên qua được.

Hỡi tâm của ta! Mi là Phật.

Chính vì mi mà ta phải qua Trung Hoa để giảng truyền đạo lý.

(Phạm Công Thiện dịch)

Sunday, May 23, 2021

Dân dã quê nhà ....

 


Năm nay dịch bệnh, ở nhà làm vườn trồng rau. Rau sạch hái vô chỉ cần luộc chấm mắm, đơn giản vậy mà ngon tuyệt. Ngồi ăn mà nhớ đến những món đặc sản ở quê nhà năm xưa, viết kể lại vài món cho đỡ ghiền !

Đã nói đến món ăn đặc sản, thì địa phương nào cũng có, ai mà kể hết được ? Thời buổi bây giờ đi đâu cũng thấy quảng bá rầm rộ, báo chí địa phương, mạng du lịch, zu túp zu tiết cũng đăng đầy. Mà khi nói đến ăn uống là nói đến khẩu vị, cho nên ngon với người này chưa chắc đã ngon với người khác, nên khen chê cũng là chuyện bình thường. Còn cách nấu nướng thì cũng vậy, mỗi nơi mỗi vùng có những món ăn khác nhau. Mà dẫu có món giống nhau thì cách nấu và nêm nếm cũng khác nhau. “Mỗi người mỗi kiểu mười phân vẹn mười” :-). Thế nhưng đôi khi cũng không tránh khỏi chuyện ông bún bò Huế ở Cali chê ông Texas, ông Texas chê bà D.C, bà D.C chê quán ở SG, quán SG chê quán HN ....Vả lại, chuyện ăn uống ngoài việc hợp khẩu vị, còn là hợp thời gian, hợp môi trường, hợp người hợp cảnh, ăn với ai, ăn lúc nào ..v.v... Cho nên nhiều lúc đi tới đâu nghe giới thiệu những món đặc sản, mình rất thích thử cho biết, nhưng cũng không chờ đợi gì lắm. Thực ra, trong lòng của mỗi người đều có những món đặc sản của riêng họ, cho dù là dân dã hay cầu kỳ, thì những hương vị đó vẫn là bất tử. Nhớ ngày xưa mỗi lần đọc Nguyễn Tuân, Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc ... nghe tả các món ăn là đã thấy đói bụng rồi. Nhưng khi đi đến tận nơi, nhìn thấy tận mắt, thì cũng hên xui, tuỳ cô chủ quán hoặc người đầu bếp thôi :-). 

Nếu như nhiều người lâu nay cho rằng đẹp xấu là tuỳ người đối diện, thì ngon dở cũng là tuỳ người ăn. Mà quan niệm này thì luôn luôn đúng, tây ta gì cũng thế. Ngon với người này chưa hẳn ngon với người khác. Như có lần đi lễ hội Mardi Gras ở New Orleans (bang Louisiana - Mỹ), mấy người bạn chuẩn bị chu đáo, dẫn mình đến một nơi rất nổi tiếng về Crawfish, "chính gốc không đại lý", rồi hỏi ngon không. Mà thực ra là mình chưa bao giờ thấy crawfish ngon mặc dù đã cố thử vài lần, nên đành cáo lỗi, làm mấy người bạn cũng hơi thất vọng. Mùa Oktocberfest bên Đức cũng vậy, thức ăn rất ngon, tửu đồ cả thế giới chạy về đó để thưởng thức bia và những món đặc sản, đặc biệt là xúc xích và đùi heo. Nhưng mình lại không thích những món đó, mà chỉ ghiền Steckerlfisch (cá nướng xiên que). Có lẽ xuất thân là dân nhà quê, gốc rạ, nên chỉ quen thuộc với những món gần gũi như cá lóc nướng trui, cá tràu đắp bùn, cá chạch đốt rơm... :-). Một ví dụ nữa như ngoài QN có món Don "thần thành", nhiều ông có vợ phương xa, dẫn về khoe mẽ đặc sản quê nhà. Dọn lên, bà vợ ngồi đợi hoài, không biết ăn sao, hỏi - "Uả món gì mà chỉ có nước với bánh tráng thôi sao ?". Không sao, bây giờ vẽ ra có thêm cái trứng vịt lộn nữa cho phong phú :-) .

Thực ra thì ở đâu quen đó, ngủ hoài quen hơi, ăn hoài quen miệng thôi. Nên đứa con nào cũng nghĩ rằng mẹ mình, bà mình, nấu ăn là ngon nhất, bởi đơn giản là cách nấu nướng và mùi vị nêm nếm quen thuộc từ nhỏ. Như mình hồi nhỏ ở với bà Ngoại, lớn dọn lên tỉnh bà cũng đi theo. Dù chỉ ở quê nhà chỉ một thời gian rất ngắn ngủi, nhưng những hương vị món ăn ngày xưa của bà nấu vẫn đi theo mình cả đời. Mấy năm sau này lần nào về quê cũng cố tìm lại những món ấy, nhưng chắc chắn là không bao giờ gặp được cái hương vị ngày xưa !

Mà nói đến đặc sản VN trước tiên là phải nói đến mắm. Ngay cả các tiệm thực phẩm châu Á ở nước ngoài bây giờ cũng bày bán đủ các loại mắm, khác với thời mấy chục năm về trước. Mắm cái, mắm nêm, mắm tôm, mắm cá lóc, mắm sặc, mắm chua, mắm thính, mắm dì Cẩn, mắm bà giáo Thảo, bà giáo Khoẻ ..... gì cũng có. Mấy đứa con mình không biết ăn mấy món này, nên lâu lâu có bạn bè bên nhà qua chơi, tặng mấy hủ mắm đặc sản, ăn hoài mấy năm chưa hết. Mới lúc trước dịch đây, có ông anh quen cho mình hủ mắm, đặc sản chính gốc Cửa Lò, Cửa Hội. Mỗi lần mở hủ mắm ra là con mình lẻn đi lên lầu hết. Không biết làm bằng con cá gì, nhưng chấm với ba rọi hoặc rau muống, đọt lang, bông bí là tuyệt cú mèo. Còn ở quê Ngoại mình thì ôi thôi đủ loại mắm, vì gần sông gần biển. Có nhiều loại mắm cũng tương tự và đại trà như các vùng duyên hải khác như mắm cá cơm, cá thu, cá nục. Ở đây mình chỉ nhắc đến vài loại bình dân nhưng rất ngon.

- Mắm Dãnh: làm bằng con cá Dãnh, có màu đùng đục như bạc xỉu. Thường dưới quê mấy người chỉ làm quà biếu nhau vì nguồn cá Dãnh không nhiều lắm. Món này mà ăn với thịt ba rọi, bún tươi, thậm chí chỉ với ớt tỏi, cơm nóng thôi....cũng thuộc loại thần sầu :-).

- Mắm Mày mạy: Món này rất hiếm, mấy chục năm sau này ít khi nghe nhắc đến, nên mình cũng quên mất. Hôm qua viết bài này xong, có ông anh cùng làng nhắc đến món mắm mày mạy, mới nhớ. Mày mạy có hình thù giống như con tôm tít còn bé. Ông anh mình nói loại này chỉ có ở vùng Cổ lũy hạ lưu sông Trà. Muốn bắt chúng phải đặt bẹ chuối trên cát, chúng bò vào rồi không thể bò ra được. Xúc về làm mắm, ngon tuyệt vời. Món này mà ăn với bún tươi thì mắm Dãnh cũng đành phải xếp thứ nhì thôi :-). Mở ngoặc chút, ngoài quê mình có loại ớt sim “chim ỉa”, tức là ớt rừng do chim ăn rồi ị  hột trên núi, mọc hoang. Ớt này được thiên hạ hái về ăn Don hay ăn với mắm cùng với tỏi Lý Sơn. Tuyệt ! Không cần món gì cầu kỳ, chỉ cần một chén mắm ớt tỏi đó ăn với bánh đúc lá vông, bánh tráng ướt, bánh tráng nướng nhúng nước, hoặc tô bún tươi, là đã “độc cô cầu bại” rồi :-).

- Mắm Ngừ, mắm Mực .... làm bằng ruột cá ngừ, mực cơm, thuộc hàng dân dã nhưng rất đậm nét quê hương. Bà Ngoại mình nhiều khi bỏ cả đu đủ xanh, hoặc dưa tây, dưa gang vào, dòn ngon và rất thông dụng vào những ngày mưa lụt.

Ngoài quê sau này còn làm cả mắm Nhum (sea urchin), ngày xưa chỉ có vùng biển Sa Huỳnh mới có món này. Thông thường thì người dân quê chỉ xử dụng những loại cá rẻ tiền, nhiều xương, hoặc ăn không ngon, để làm mắm, làm chả. Ví dụ như chả cá rựa, cá thát lát, cả đỏ... Miền Trung vì ở gần biển nên các loại cá làm mắm thường là cá nước mặn. Còn miền Nam, gần sông nước nên đa dạng hơn các giống cá nước ngọt như cá lóc, cá linh, cá sặc, cá tra, cá chốt, cá suối, cá vụn...v.v. Mỗi vùng miền có cách làm đặc thù và mùi vị khác nhau. Và cũng không phải là ai cũng biết thưởng thức mắm. Mình có ông anh quen là công tử của một vựa mắm lớn ở quê mình nhưng lại không hề biết ăn mắm:-).

Kế đến, là nhắc đến các món đặc sản liên quan đến cá. Ngoài lề chút, phải nói là dân VN thuộc hàng ăn cá nhất nhì thế giới. Đi tới đâu, nhà hàng nào, quán ăn nào cũng thấy cá tôm, đặc sản tươi sống. Tuy nhiên, với sự tàn phá môi trường, tận diệt tôm cá như lâu nay, nếu chính quyền không có một kế hoạch cụ thể và cứng rắn, thì vấn nạn nguồn tôm cá cạn kiệt sớm muộn gì cũng không tránh khỏi. Ở những nước văn minh hơn, người ta kiểm soát rất gắt gao về kích cỡ chủng loại hải sản, thời vụ đánh bắt, và phương tiện đánh bắt. Nhiều nơi nghiên cứu cách nuôi trồng lai tạo để trả lại môi trường tự nhiên các chủng loại tôm cá, thủy hải sản, có khả năng sinh sản cao. Còn phe ta thì ăn từng bầy cá con, cá bé, cá lòng tong, ròng ròng ... Lưới bén, lưới chài, lưới bủa, lưới kéo, cỡ lớn cỡ nhỏ, một phân một ly gì cũng xài tuốt. Ngoài khơi thì qua hết thời đánh thuốc nổ, lại đến thời đánh đèn cao áp, lưới cào lưới giả .... Cá chưa kịp lớn, chưa kịp sinh sản, thì đã vào quá nhậu đặc sản quê hương. Còn tăng gia sản xuất, nuôi bè, nuôi ao, ngày càng nhiều, nhưng việc tuân thủ luật lệ môi trường thì người có người không. Lâu lâu còn bị mấy anh doanh nghiệp tiết kiệm xử lý nước thải, xả hàng, bơm hoá chất ra sông ra biển. Bên cạnh đó, cũng không hiếm nạn khách du lịch hoặc các khu dân cư ven biển, thiếu ý thức bảo vệ môi trường, đùn đẩy nylon, ống hút, đồ nhựa, rác thải công nghiệp ra biển. Con người còn chịu không nỗi huống hồ chi tôm cá. Nhưng mấy hãng to hãng lớn, miệng có gan có thép, dù có làm cho nước ô nhiễm cả vùng, dân bó gối cả năm, thì cũng có ông quan này xuống bơi, ông quan kia xuống ăn cá, quay phim lên báo lên đài, coi cũng vui. Còn dưới sông dưới biển thì cá tôm vẫn phải chịu đòn, mà trên bờ thì ngư dân ngư phủ cũng phải gánh gồng cam chịu, đắng cay âm thầm.

Trở lại mấy món đặc sản cá của quê mình ngày xưa. Các món cá thì nhiều lắm, mình chỉ muốn nhắc đến vài món mà mình còn nhớ:

- Cá kè nướng trui: Cá Kè thuộc loại xấu xí, da gai góc, dày cộm (có lẽ cùng họ với các loại bò hòm, bò gai). Loại này ngày xưa rẻ lắm, mấy người dưới quê đi biển vô bán từng bao cát, nhưng sau này lại trở thành đặc sản quý hiếm. Cá này chẳng làm món gì được, ngoài nướng trui cho cháy da, rồi lột ra chấm muối tiêu ớt. Thịt trắng, ngon vô cùng. Những ai sành ăn hơn, thì ăn kiểu "trảm mã xà", nghĩa là vào mùa ruốc, cá kè ăn ruốc đầy bao tử. Nướng cá Kè xong, lấy ruốc từ bao tử ra, nhậu với tỏi một Lý sơn và rượu đế. Tuyệt !

- Cá dìa nướng than: Ngày xưa con sông dưới quê mình, cá dìa, cá đối, cá cồi nhiều lắm. Sông nước lợ, chảy ra cửa Đại, xuoi về biển, cá tôm đủ loại, giờ thì trở thành hiếm hoi đặc sản. Mấy món này ngày xưa thuộc hàng dân dã, nên thương lái ít khi chở lên tỉnh bán, chỉ bán vòng vòng ở địa phương. Ngoại mình thường mua về kẹp lá chuối nướng than ăn với mắm gừng. Lâu lâu muốn thơm hơn, nhét vài lá bòng, lá bưởi, lá sả, vô ruột trước khi nướng. Chín, mở ra thơm lừng !

- Cá chuồn kho nít non: Món này bình dân, thông dụng nhưng đi xa lại nhớ. Tới mùa cá chuồn thì chuồn cồ, chuồn xanh, chuồn bông, chuồn lộng, chuồn gành, chuồn khơi, chuồn mít ...... đủ loại, rẻ ối . Nên nhiều người phải phơi khô để dành cho ngày mưa gió. Còn nấu thì đủ kiểu, nào là kho, ướp nghệ nướng, nấu canh với cà chua xanh, thơm khóm....v.v... Mình thì khoái nhất là món kho với mít non, nhưng chỉ ăn mít thôi, không ăn cá :-).

- Cháo cá hà nàm: Cá hà nàm là cá nhám còn trong bụng. Nghe thì có vẻ ác độc nhưng thường là người ngư dân đánh lưới, vô tình bắt được cá nhám (thuộc họ cá mập), mổ ra mới biết. Dân biển ít ăn cá mập, chỉ ăn cá nhám. Còn ai muốn học cách phân biệt thì phải biết coi cái mang cá, hoặc du lịch về xứ đó học nghề :-). Món này nấu cháo, nghệ, nén, tỏi, hành ...gia vị, thì thôi rồi, khỏi bàn nữa, đại bổ dưỡng !

- Bún biển: thuộc loại tảo rong, sinh vật biển (nước mặn hoặc nước lợ), có hình thù như cọng bún mì, cước câu loại lớn. Tới mùa, dân ở quê vớt về biếu tặng thôi, ít khi bán buôn vì rất rẻ. Nấu nước lèo trụng ăn như bún nước lèo Nam bộ, hoặc có người làm khô như mì Quảng, bún xào, hoặc làm gỏi với tôm thịt rau thơm. Ngoại mình thường làm bún nước cho dễ ăn. Bà nói món này thuộc loại âm hàn (ăn mát) như hột vịt lộn, nên ngày xưa thường không dám cho con nít ăn nhiều, sợ bị ách bụng. (Hồi đó chưa biết uống rượu, chứ bây giờ làm vài ly bourbon là hết hàn ngay :-) .

- Cá bống/cá thài bai: Mấy món này thì nhiều người ngoài quê biết rồi. Nhưng thực ra thì cách kho không phải ai cũng giống nhau. Dưới quê mình, bà con kho cá bống trong trách đất. Tiêu và nước mắm cũng phải thuộc loại đặc biệt. Kho bếp củi, rồi dụi than cho nước mắm sánh lại dần, khô con cá. Mùi vị không lẫn vào đâu được. Bởi vậy sau này về lại quê cũ, thấy có bày bán nhiều, nhưng cách kho khác quá, nên cũng không còn ghiền ăn nữa. Có năm nào coi cái video quảng bá về du lịch quê nhà, thấy ai chỉ cách kho cá bống, dầu mỡ lai láng. Coi xong hết thèm ăn đặc sản luôn. Còn cá thài bai thì thời nay cũng cạn dần, hiếm hoi. Cá thài bai thì phải bắt đúng lứa mới ngon. Già thì lại cứng, non thì lại bở. Mấy năm gần đây thỉnh thoảng về quê vào dịp gần tết, cũng được bạn bè đãi tặng. Vẫn ngon, nhưng thực sự thì khác xa cái hương vị ngày xưa của mình. Nhiều người cho rằng vì ngày xưa thiếu thốn nên ăn cái gì cũng ngon, giờ đầy đủ quả nên không cảm được. Mình thì không nghĩ vậy, vì thực ra trước năm 1975, người dân quê mình cũng không phải thiếu thốn lắm. (Nhận định một cách công bằng, ở Phú Thọ, Cổ Luỹ, Phổ An, ngày xưa sầm uất hơn, mặc dù đó là thời chiến tranh và dân số ít hơn bây giờ. Mỗi lúc ghe cá vô bờ, các "bạn rỗi” mủng thúng xôn xao, cái cặp nách, cái đội đầu, rôm rả tất bật chạy như bay lên chợ. Xe máy 2 càng, hai giỏ hai bên, lạng lách tranh nhau đua cho kịp những phiên chợ tỉnh, chợ huyện. Ghe bầu, ghe buôn, sắp hàng dài trước bến, ra vô tấp nập. Còn bây giờ thì đi lới đi lui lèo tèo vài quán lấn sông. Ngay cả con cá thòi lòi, "dấu đầu lòi đuôi", ngày xưa chẳng ai thèm ăn, giờ cũng thành đặc sản !)

- Bún cá ngừ: Món này thì bây giờ SG cũng bán khá nhiều, cũng như món cá nục hấp cuốn bánh tráng. Nhưng đúng là mỗi người có cách nấu khác nhau. Bây giờ thì mấy quán miền Trung bên Tây bên Mỹ cũng có bán mấy món này, chỉ là hương vị có phần khác nhau. Nhớ ngày đầu tiên về lại VN đi làm, một ông anh rủ mình vô quán 3 miền của cố nhạc sĩ TCS dưới gần cầu Trương Minh Giảng đãi món này với món gỏi sứa dấm nuốc. Mấy chục năm trở lại, đúng là ăn cả một trời thương nhớ. Nói đến món dấm nuốc, nhớ đến nhà thơ Mường Mán. Không biết quán anh ở SG giờ còn bán món này chăng ?

- Canh chua khế: Món này cũng thuộc loại đặc sản của quê mình. Cá chim, cá liệt, cá ngân ....cá nào nấu cũng ngon. Cực kỳ đơn giản mà kỳ lạ là đi xa bao nhiêu năm vẫn còn nhớ hoài.

- Cá khoai nấu mứt (rong biển): Sau này ở SG cứ chiều chiều ngồi nhậu khô cá khoai, cá đuối, là nhớ đến món này ở quê nhà. Ngày xưa bến sông quê mình có nhiều ghe từ Lý Sơn hoặc từ xứ khác, ra vô buôn bán tấp nập. Ghe nào cũng đẩy ắp hành tỏi, rau câu, chưng vịt (một loại rong biển để nấu chè), mứt (rong biển), ruốc khô. Cá khoai nấu rong biển, mềm mại, chưa kịp nhai đã vô bụng rồi :-). Đơn giản mà ngọt ngào !

Thứ ba, là nói về các món dân dã khác mà người dân quê mình thường nấu:

- Canh khoai với tấm nếp: Món này cũng là một trong những món tuyệt chiêu nhớ đời của mình. Sau này về quê hỏi hoài mà chẳng thấy nhà hàng nào bán. Nhiều anh bạn mình ở thành phố nghi ngờ hỏi lại mình "Mày có nhớ lộn không, làm gì có món này ?". Mình còn nhớ rõ mồn một là Ngoại nấu món này như thế nào. Vào mùa mưa lụt ra vườn nhổ từng bụi khoai (giống như bạc hà nhưng nhỏ hơn). Loại khoai này cũng có thể cắt nhỏ làm dưa, mùa mưa lụt kho cá kho thịt để ăn dài ngày .

- Ruột heo xào nghệ: Món này ở quê mình thường ăn mỗi lúc cảm ho. Xào với bún gạo. Ăn riết hoá ghiền !

- Đọt lang, bông bí: Mỗi lần ăn mấy thứ rau này, là nhớ lại cả một thời thơ ấu. Bông bí ở dưới quê khi muốn ăn là hái nhiều bông, ít đọt. Có cả nhừng bông cái (có trái bí con), vì phải hái bớt cho thưa, để những trái bí khác được lớn hơn. Đọt lang, bông bí là phải có chén mắm cá cơm, mắm cá cơm chua thì còn tuyệt vời hơn nữa ! Ớt, tỏi, chanh, gừng.... toàn cây nhà lá vườn. Làm sao tìm lại được ?

- Bắp chuối hà nàm: là bắp chuối chưa ra nải chuối nào. Bóp gỏi hoặc nấu chay, nấu canh chua ... thì thâu rầu lượm ơi !

- Mít non: Quê ngoại mình, nhà nào cũng trồng mít. Nhỏ thì huê mít chấm mắm ruốc. Lớn hơn chút thì gỏi mít non xúc báng tráng, kho cá, luộc, nấu chay .... nón nào cũng tuyệt cú mèo.

- Gỏi ruốc thanh trà: Món này thì phải có trái thanh trà (cùng họ với bưởi). Nhà Ngoại có cây thanh trà và cây khế trên đầu hè, tuổi thơ của mình gắn liền với nó. Ngoài Huế cũng có cây Thanh Trà, nhưng cách làm gỏi Thanh trà, cũng như gỏi Vả hoặc gỏi mít non thì khác với ở quê mình. 

Mà nói đến trái cây dưới quê thì lại một cuốn phim khác nữa. Hôm nào rãnh rang sẽ ngồi nhớ lại. Từ trái ô ma, mầng quân, vú sữa, xoài, xá lị, dừa, ổi rừng, trái trâm, trái sim, trái ư, chùm chày mủ dẻ ...cho đến bồ lời, long não ... ống thụt. Tuổi thơ của ngày ấy không có iphone, ipad, phim ảnh, game giếc ... gì cả. Nhờ vậy mà giờ lâu lâu còn chuyện để nhớ để nhắc :-)

Chúc mọi người cuối tuần vui vẻ !

PN

Friday, May 21, 2021

Lá cờ son

Mùa Hè năm Bính Tuất (1406)... Sáng nắng gắt, chiều mưa tầm, thời tiết khắc nghiệt hơn mọi năm. Những cơn gió Lào thổi về Chiêm Động hầm hập khô khốc, nhưng vẫn không làm giảm đi cái sĩ khí hừng hực của doanh trại tiền quân nhà Hồ trên đường Nam tiến. Trước sân của An Phủ Sứ lộ Thăng Hoa Nguyễn Cảnh Chân, năm đạo hồng kỳ tung bay phần phật trong gió. Ngoài trướng là soái kỳ của đạo tiên phuông dọc ngang bốn trượng, thiêu chữ Đại Ngu đỏ như màu máu, trên nền trời xanh ngắt. Dưới chân cột cờ, viên đội trưởng quản kỳ đứng nghiêm như bất động. Tuổi chưa quá đôi mươi, nhưng gương mặt rắn rỏi và đôi mắt sáng ngời làm cho người lính trẻ càng dày dạn vẻ phong sương. 

Anh đang nhớ nhà. Nhà anh ở tận làng Bùi Xá thuộc Thừa tuyên Nghệ an. Làng của anh nằm cạnh giòng sông Lam quanh năm uốn lượn, ôm núi Hồng Lĩnh vào lòng, nổi tiếng về nghề nhuộm vải và đan tre. Quê anh nghèo nhưng rất đẹp, êm ả những cánh đồng bát ngát với đàn cò trắng phau phau. Mùa lúa Chiêm chín vàng óng ả, thanh bình, rộn tiếng hát ca. Những miền đất mà anh đã đi qua ở đàng trong, cũng có nơi đẹp như thế. Đó là vùng đất Cổ Lũy động (thuộc Châu Tư và Châu Nghĩa), nơi mà anh và những đồng đội đã từng chiến đấu dài ngày với quân Chiêm thành. Cổ lũy có thành Châu Sa nằm cạnh núi Ấn, quanh năm soi mình xuống giòng sông Trà, lững lờ uốn cong xuôi về Cửa Đại.

Từ ngày quân của vua Chiêm, Ba Đích Lại, thua trận, tướng Bồ Điền xin cống hàng, trong quân ngũ đã đồn rộ lên rằng vua Đại Ngu Hán Thương sẽ cho quân lính cùng gia đình ở đàng ngoài vào lập nghiệp ở Cổ Lũy động. Dân tình của thừa tuyên Diễn Châu và Nghệ An vốn dĩ nghèo lắm, nên ai nghe tin này cũng đều vui mừng. Họ tộc Bùi của anh ở phủ Tân Minh nhiều đời làm ăn siêng năng cần mẫn. Tuy cũng có chút thành đạt, nhưng giá như có cơ hội để xuôi Nam khai hoang lập nghiệp muôn đời, chắc là cha mẹ ông bà anh vui lắm.

Sinh ra từ một gia đình nổi tiếng nghề nhuộm ở làng Bùi Xá, anh được tuyển vào lộ quân với nhiều thanh niên cùng làng, để chăm lo việc quân kỳ. Có những đêm thức trọn để thiêu nhuộm cờ, canh ba nghe tiếng chim tu hú kêu, lòng anh nhớ nhà da diết, muốn về thăm lại quê hương. Nhưng rồi mỗi lúc ngắm nhìn những đạo quân kỳ của Đại Ngu ngạo nghễ trên bầu trời bao la, như mang cả hồn thiêng dân tộc, anh lại quên đi, cảm thấy an ủi và tự hào về quê hương nhỏ bé của mình. Hàng đêm anh vẫn nguyện cầu ngày hòa bình, để trở lại quê hương cấy lúa nhuộm vải, cưới vợ sinh con, nối dõi gia tộc và phụng dưỡng cha mẹ già. Một ước mơ đơn giản !

Thế nhưng, chiến tranh thì bao giờ cũng dai dẳng. Những người yêu nước chân chính thì vẫn hy sinh anh dũng, và đám gian thần thì vẫn thừa cơ hưởng lợi. Sáng nay, trướng quân được lệnh ngày mai lên đường trở về Tây Đô. Các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, sẽ có quan An Phủ Sứ mới Hoàng Hối Khanh về đảm nhiệm. Trong quân truyền tai nhau rằng đám gian thần Trần Thiêm Bình sang lạy lục nhà Minh xin thâu tóm Đại Việt. Nhà Minh sai tướng Trương Phụ, Mộc Thạnh đem đại quân sang xâm chiếm nước ta. Các đạo trung quân khác được điều về Tây Đô để cùng nhau kháng giặc. Anh đâu đã biết rằng đây là những năm cuối cùng của nhà Hồ, trước khi nước Việt rơi vào tay giặc Minh....

** ** ** **

Mùa Thu năm Đinh Mùi (1427).....Cuộc kháng chiến chống giặc Minh của dân ta đã đến hồi quyết liệt. Đêm ấy, Chi Lăng trăng sáng vằn vặt. Đêm đã sang canh, trại lính đã hạ đèn, những toán tuần binh vừa mới sang phiên. Ánh đèn từ trướng nguyên soái vẫn còn thắp sáng. Dường như cả đêm, tướng quân Lê Sát và Đinh Liệt bàn chuyện không ngủ. Quan binh trong doanh trại, ai cũng đoán được, chắc chắn sẽ có một sự kiện trọng đại xảy ra. Trước cửa trướng, một viên tướng tuổi trung niên đứng gát, râu quai nón, tay kiếm sắt tuốt trần, cặp mắt sáng ngời như xuyên suốt màn đêm. Đó là vị đội trưởng quản kỳ họ Bùi năm xưa, nay đã là một viên cận quan của Tiên phuông tướng quân Lê Sát.

Đêm ấy anh không ngủ, bởi vì có thể là đêm cuối cùng anh còn được thức. Mới hôm rằm tháng trước, anh nhận thư của gia đình báo tin đã liên lạc được với bà con ở đàng trong. Gia đình và họ tộc anh muốn xuôi Nam để khai hoang lập nghiệp, phát triển ngành nhuộm vải. Anh vốn biết tính sĩ diện gia tộc giòng dõi của họ hàng mình rất to tác. Nên quyết định rời xa quê hương là một vấn đề trọng đại nhằm hy sinh cho tương lai con cháu sau này.

Anh hiểu và thương yêu cha mẹ mình hơn ai hết. Họ cũng như anh, thiết tha từng ngọn cỏ bờ rau ao cá quê nhà. Lòng chiu chắt những bước chân lùa trâu ra ruộng, những đêm tát nước trăng soi cùng những câu hò chân chất... Cho nên dù rời quê chinh chiến đã lâu, anh vẫn nhớ mồn một từng niềm vui nỗi buồn của ngày tháng cũ, nhớ từng nỗi rạo rực của ngày hội thôn, nhớ cả những năm tháng mất mùa đói rét ở quê nhà.

Quê hương anh nghèo lắm. Đất đai chật hẹp thời tiết khắc nghiệt, nên nguyện vọng chén cơm manh áo vẫn là điều mơ ước. Vì nghèo khó nên người dân quê anh thường tự hào về những điều rất nhỏ. Lắm lúc, người ta hơn thua nhau qua từng lời ăn tiếng nói, so đo từng chút tài sản ruộng vườn nhỏ nhoi, và ngay cả những chuyện sinh con sinh cái nối dõi tông đường. Bởi vậy cũng không hiếm những người đã phải ngậm ngùi bỏ xứ ra đi. Chính anh đã từng nhiều lần mong muốn đưa cha mẹ bà con vào tận vùng phủ Chương Nghĩa để lập nghiệp sinh sống.

Thế rồi anh gia nhập quân binh, đánh Chiêm Thành, đánh giặc Minh bảo vệ quê nhà. Đã gần 30 năm chinh chiến, anh vẫn chưa hoàn thành ước nguyện nối dõi tông đường của mẹ cha. Dẫu biết gia đình buồn lắm, nhưng anh vẫn nghĩ không có nước làm sao có nhà. Chuyện tủn mủn hơn thua ở bạn bè lối xóm làng quê, sao sánh bằng nỗi nhục mất nước lầm than.

Làng quê anh nổi tiếng về nghề nhuộm vải bao đời, nên vốn có nhiều truyền thuyết. Người ta vẫn kháo nhau rằng phải có địa linh mới sinh nhân kiệt. Địa linh thì phải có núi thiêng sông rộng, uốn khúc như rồng chầu nhả ngọc. Tương truyền rằng, ông Tổ ngành nhuộm dạy cho con cháu chỉ được lập nghiệp ở những vùng địa linh nhân kiệt, để nhuộm cờ cho các đấng minh quân. Trong các loại nhuộm thì nhuộm cờ là khó nhất. Muốn nhuộm cờ đúng cách, thì lòng phải không được tà tâm gian trá. Trước khi vào nghề, phải chọn đêm trừ tịch, lên một ngọn núi thiêng hướng về giòng sông, mà thành tâm khấn vái lạy Tổ. Sau đó chích huyết ngón tay xin thề, rồi in dấu tay vào một tấm vải trắng. Dấu máu màu son, thì lòng người trong sáng, sẽ được ông Tổ chấp thuận. Loại người gian trá, tâm địa bất chánh thì vệt máu đen sì, mùi tanh, có hành nghề cũng không thành tựu được.

Ngày trước khi cha anh dẫn anh lên núi cúng Tổ, có nói rằng vết máu của anh là màu son nhất mà ông đã từng được thấy. Cũng có lẽ vì thế, mà bao năm nay, anh vẫn là quan Quản kỳ được tín dụng nhất trong hàng quân ngũ. Lá quân lệnh kỳ của ngài Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện Nguyễn Trãi, cũng chính tay anh đích thân kết nhuộm.

Xuất thân từ một người thợ nhuộm nên anh rất nhạy cảm với màu sắc. Anh thiết tha từng màu sắc của quê hương mình. Màu của trời, màu của đất. Anh yêu màu của giòng sông, màu của núi rừng, màu của cánh đồng, màu của luống rau xanh, màu của đôi mắt người thân, và cả màu của tà áo những cô thôn nữ cùng quê.... Nhưng đẹp nhất, với anh vẫn mãi mãi là màu đỏ của quốc kỳ. Đó là màu của hồn dân tộc và màu của trái tim anh. Màu đỏ ấy đã tạo lên từ những hy sinh của bạn bè, của người thân, của những chiến sĩ vô danh, của bao tiền nhân đã ngã xuống cho đất nước này được đứng lên. Từ bao năm qua, chính đôi tay anh đã nhuộm bao lá quốc kỳ cho đất nước. Mỗi lá cờ đều được gởi gắm trọn tấm lòng, lý tưởng, và nhiệt huyết của một người con hướng về quê hương.

Thế nhưng ngày mai đang đến, sẽ là ngày trọng đại nhất của dân tộc và cuộc đời của anh. Anh được tướng quân Lê Sát giao cho nhiệm vụ giữ lá hiệu kỳ trảm tướng Liễu Thăng tại Chi Lăng. Nếu Liễu Thăng chết, đoàn quân tiếp viện của quân Minh sẽ tan rã, công cuộc kháng Minh sẽ thành công, đất nước sẽ thanh bình. Lá hiệu kỳ của anh tuyệt đối phải được giưong cao để các tướng lãnh Trần Lựu, Đinh Liệt, và Lê Sát cùng nhau phối hợp công địch. Có thể ngày mai anh sẽ chết, nhưng lá hiệu kỳ phải sống, quê hương anh phải sống, và đất nước anh phải sạch bóng giặc thù. 

Đêm gần sáng, gà gáy canh năm, tiếng tu hú văng vẳng từ xa. Anh thấy lòng mình thật nhẹ nhàng, không muốn suy nghĩ gì thêm nữa. Những suy nghĩ miên man về nối dõi tông đường, danh lợi phú quý, khai hoang lập nghiệp.... rồi dường như cũng đã dần xa theo bóng đêm tan. Trời đã hừng sáng. Anh đã nhìn thấy màu đỏ rực ở cuối chân trời, và nghe tiếng gió reo ngạo nghễ của những đạo quân kỳ phất phới.

Và cuối cùng giờ phút thiêng liêng đã đến....

Nắng lên cao quá đỉnh ngọn cờ. Quân Minh ào ạt tiến từ Pha Lũy về tới Chi Lăng, hò hét đuổi theo đạo quân của tướng Trần Lựu. Tam quân chờ đợi, ngọn cờ đào của anh phất lên, thế trận biến đổi, tiếng hò la hỗn loạn. Quân binh ba hướng nhập một, giặc Minh kêu thét kinh hoàng, xác chết ngỗn ngang, máu đỏ thấm đất. Cả cánh quân giặc Minh liều mạng xông lên chiếm lấy hiệu kỳ. Một vết chém sau lưng, máu phun thành vòng, anh ngã xuống, lá hiệu kỳ rơi xuống, lấm đất. Anh trườn lên mạnh mẽ như con rồng của giòng sông quê anh. Hai tay nâng lấy hiệu kỳ một cách trân trọng. Máu anh thấm ướt chiến bào, anh lấy tay thấm máu nhuộm vào chỗ lấm. Lá hiệu kỳ càng đỏ thắm hơn xưa. Anh gượng đứng lên, giưong cao ngọn cờ, hét vang... " Thề không mất nước !"....

Tiếng hét anh vang vọng giữa một rừng người hỗn loạn, đám giặc Minh giật mình lùi xuống. Những người nghĩa quân đồng đội của anh đồng hét theo, xông lên dũng mãnh, tả xung hữu đột bảo vệ hiệu kỳ. Máu anh đẫm ướt lồng ngực, anh ngã xuống. Đôi tay đầy máu vẫn ghì chặt lá cờ, đôi mắt mở lớn. Anh nhìn thấy bầu trời xanh, anh nhìn thấy Mẹ với đãy hạt chàm xanh miệng luôn khấn nguyện. Anh nhìn thấy Cha giữa đám nương chàm xanh tốt, vai trần bóng lưỡng, quẹt trán nhìn về phương Nam. Anh nhìn thấy những đứa em bàn tay thoăn thoắt giặt xả từng cuộn vải thô. Anh đã thấy màu xanh của quê hương anh như đám lúa non đầu vụ. Anh thấy màu vàng của đám cúc dại mùa thu và vẳng vẳng câu ca dao trên môi người yêu dạo nọ... Rồi anh bỗng nghe tiếng reo hò vang dội của những người đồng đội hân hoan mừng chiến thắng, mắt anh từ từ khép lại...

Trận đó quân ta đại thắng, chém chết Liễu Thăng và hàng vạn quân Minh. Sau khi nghe tin thất bại, Mộc Thanh tháo chạy. Vương Thông xin rút quân về nước theo cam kết hội thề Đông Quan. Đất nước ta thanh bình và phục hưng trở lại, bắt đầu một kỷ nguyên mới của nhà Hậu Lê. Riêng anh, anh đã nằm xuống vĩnh viễn trong trận chiến đó. Không tìm được xác, nhưng những người đồng đội đã đem về cho gia đình chút hành trang còn lại của anh. Trong đó, người ta chỉ tìm thấy một lá thư báo tin từ họ tộc, và một tấm vải trắng còn in vệt máu đỏ như son.

Bà con gia đình anh cũng không còn ở làng Bùi Xá nữa, nghe đồn rằng đã lập nghiệp ở tận phủ Chương Nghĩa xã Ba La. Khi vào đàng trong, họ có mang theo đãy hạt chàm xanh, tiếp tục cần cù làm ăn, sinh sôi nảy nở con đàn cháu đống. Ngày nay, họ Bùi phát triển thành rất nhiều chi phái ở Quảng Ngãi, Sài gòn, Cần thơ... Hàng năm, vào tiết Thanh minh họ Bùi ở Ba La có hội cúng Xuân với nhiều con cháu các nơi tụ về.

Chắc hẳn trên mảnh đất quê hương này đã có bao nhiêu người nằm xuống như anh. Có thể trong bao nhiêu cuốn gia phả tộc hệ, sẽ không còn nhắc đến tên của những người anh hùng chân chính như thế. Họ sẽ không còn chi phái để truyền tụng đời sau. Đơn giản, họ đã hy sinh cho đất nước này được sống. Hồn thiêng của họ đã, đang, và sẽ ngự trị mãi mãi ở hồn dân tộc. Bởi đó là những đứa con đã dâng hiến tấm lòng son sắt cho quê hương.

Ngày nay, thỉnh thoảng vào mùa tế lễ Thanh minh hay cúng Chạp ở Ba La, người ta vẫn nhìn thấy một bóng người âm thầm thắp những nén nhang trước sân nhà thờ họ Bùi, và trên những ngôi mộ vô danh cạnh ngôi chùa làng. Người thanh niên ấy vẫn thường lặng lẽ đứng nhìn theo những làn khói tan dần theo gió bay xa, rồi cúi đầu bái lạy quay đi.....

PN