Năm nay, thời tiết ở Mỹ lạnh sớm hơn mọi năm. Mùa lễ hội Giáng Sinh cũng có vẻ trầm lắng hơn, ít mua sắm và chuẩn bị hơn mọi khi. Một phần vì kinh tế khó khăn, phần khác vì tâm trạng bất an len lỏi trong đời sống nhiều người, nhất là những cộng đồng di trú, kể cả những người có quy chế hợp pháp. Nhưng dẫu thế nào, đêm Giáng Sinh vẫn là đêm của những cõi lòng rộng mở, đêm của thương yêu và chia sẻ, nơi con người tìm về với gia đình, bạn bè, và những ấm áp bình dị. Nhiều gia đình đã dựng cây Noel từ sau lễ Tạ Ơn, để tận hưởng hương vị lễ hội suốt mùa đông, đến tận giữa tháng Giêng mới gỡ xuống.
Nhân có một số bạn bè hỏi thăm về nguồn gốc của ngày 25/12, mình xin tóm lược đôi chút. (Xin lỗi mình vốn không phải là người Ki tô giáo, nên nếu có nhẫm lẫn gì thì các bạn ý kiến chỉnh sửa dùm nhé). Từ lâu, phần đông quen nghĩ rằng Giáng Sinh (25/12) là ngày Chúa Jesus được sinh ra. Nhưng theo đa số học giả và sử gia Kinh Thánh, Chúa Hài Đồng không sinh vào ngày ấy, thậm chí cũng không sinh vào năm ấy. Tuy nhiên, điều đó không ảnh hưởng gì đến ý nghĩa tôn giáo của lễ Giáng Sinh, bởi nhân loại đã chọn một ngày để mừng “ánh sáng đến với thế gian”, một biểu tượng của niềm hy vọng cứu rỗi, và niềm vui được chia sẻ giữa con người với nhau.
Dựa vào nhiều dữ kiện lịch sử, các nhà nghiên cứu cho rằng Chúa Jesus có thể đã sinh vào mùa Xuân hoặc mùa Thu, khoảng năm thứ 4 đến thứ 6 trước Công Nguyên. Vua Herod chết vào năm 4 BCE, mà Jesus thì sinh trước khi Herod mất (vì Herod chính là người ra lệnh truy sát Hài Nhi). Thêm vào đó, đoạn Kinh Luca nói về các mục đồng canh giữ đàn chiên ban đêm, điều vốn chỉ xảy ra vào mùa Xuân hoặc mùa Thu, khi thời tiết ấm, thuận lợi cho đàn cừu. Các cuộc kiểm tra dân số La Mã thời đó cũng diễn ra vào cuối mùa thu, khi nông dân rảnh rỗi sau mùa gặt.
Vậy, vì sao Đế quốc La Mã chọn ngày 25/12 làm lễ Giáng Sinh?
Ngày 25/12 vốn là ngày lễ ngoại giáo lớn của La Mã cổ, lễ Sol Invictus, tôn vinh "Thần Mặt Trời Bất Khả Chiến Bại". Ngày lễ này cũng mang ý nghĩa mặt trời "hồi sinh" sau ngày Đông chí, và là một lễ hội cực kỳ quan trọng của dân La Mã. Cuối tháng 12 còn có lễ Saturnalia (17–24/12), mùa hội hè, tặng quà, đèn đuốc và tiệc tùng. Khi Kitô giáo trở thành quốc giáo La Mã, Giáo hội chọn ngày 25/12 để giúp dân ngoại dễ tiếp nhận lễ mới, hòa nhập vào các truyền thống quen thuộc. Năm 354, Giáo hoàng Liberius chính thức ghi ngày 25/12 là “Dies Natalis Christi” – Ngày Sinh của Đức Kitô. Từ đó, chúng ta có đêm Giáng Sinh 24/12 và ngày 25/12 như ngày nay.
Lịch sử của ông già Santa Claus và cây Noel cũng là câu chuyện giao thoa văn hóa thú vị. Hình ảnh ông già Noel (Santa Claus) ngày nay là sự kết hợp của ba nguồn gốc lớn. Thứ nhất là ông thánh Nicholas của Ki tô giáo, nổi tiếng vì giàu lòng bác ái, cứu giúp trẻ em và người nghèo. Kế đến là ông thần Odin của các nước Bắc Âu, ông thần có giai thoại thường cưỡi ngựa bay (Sleipnir) trên bầu trời vào mùa đông để ban thưởng cho trẻ em. Còn nguồn gốc thứ 3 thì hơi thực dụng chút, là do mấy ông Mỹ vẽ vời ra. Những nguời Hà Lan ngày xưa gọi ông Thánh Nicholas là "Sinterklaas". Khi di cư sang Mỹ, họ mang theo truyền thống này. Mấy ông Mỹ đọc nhại riết, rồi từ chữ "Sinterklaas" trở thành "Santa Claus", kiểu như mấy ông Tây ông Mỹ học tiếng Việt, đọc riết chữ "đảm đang" thành "dâm đãng" :-). Nhưng phải nói công trạng lớn nhất của người Mỹ là đã “hoàn thiện” được ông già Noel như ngày hôm nay. Một ông già Santa cưỡi xe tuần lộc, vào nhà bằng ống khói, có một thân hình mập mạp, râu ria và vui tính. Riêng chuyện ông già Noel luôn mặc áo đỏ viền trắng, thì công trạng thuộc về .... ông Trump. Giỡn chút thôi, chứ công cán thuộc về hãng nước ngọt Coca Cola :-). Vào thập niên 30+, ông họa sĩ Haddon Sundblom đã vẽ ông già Noel trong chiến dịch quảng cáo Coca Cola, mặc áo đỏ, râu trắng, bụng phệ, hiền hòa, vui vẻ ... và từ đó hình ảnh ông Santa đỏ trắng bắt đầu phổ biến toàn cầu cho đến nay. Không biết sau này có ai đó lại sáng kiến một hình mẫu ông già Noel mới, hoặc đổi tên lại cho giống ông xoài, ổi, nào nữa không, thì chưa biết :-).
Tương tự, lịch sử cây Noel cũng có nguồn gốc từ tục thờ cây xanh trong mùa đông của châu Âu cổ đại. Rồi nước Đức là nơi biến nó thành cây Giáng Sinh thật sự, và Anh và Mỹ đưa nó thành biểu tượng lễ hội Giáng Sinh toàn cầu. Cây Noel tượng trưng cho sự sống trong mùa đông, hy vọng, ánh sáng thắng bóng tối, và sự đoàn tụ gia đình. Những ý nghĩa này theo các nhà nghiên cứu đã được tồn tại rất lâu từ trước thời Chúa Jesus ra đời.
Xưa nay vẫn vậy, đằng sau mỗi biểu tượng hoặc tục lệ bao giờ cũng bắt đầu bằng những điển tích hoặc câu chuyện văn hoá địa phương thú vị, rồi lan toả và ảnh hưởng nhiều nơi. Xét cho cùng, mọi biểu tượng đều vô thường, được xây dựng và tái tạo theo tâm thức con người qua từng thời đại.
Mấy hôm trước, đi shopping mua quà Noel với con, thấy một nhóm biểu tình ngay trước trung tâm thương mại, giăng biểu ngữ kêu gọi nhân viên ICE rời khỏi thành phố. Bốn mươi năm sống trên đất nước này, mình chưa từng thấy cảnh tượng như vậy, nhất là vào những ngày vốn rất an bình của mùa lễ hội Giáng sinh. Trong lòng chợt dấy lên một nỗi xót xa khó tả !
Lâu nay ai cũng biết đất nước HK được xây dựng từ đôi tay và khối óc của những người di dân. Từ buổi lập quốc đến nay, Mỹ vẫn là miền đất hứa, nơi cưu mang nhiều thế hệ di trú và tị nạn nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào. Những hàng dài trước các lãnh sự quán Mỹ trên khắp thế giới cho thấy rằng, dù đất nước có những thăng trầm hoặc có những thời kỳ chưa hoàn thiện lắm, nước Mỹ vẫn là biểu tượng của hy vọng, của cơ hội, của những giấc mơ được bắt đầu nuôi dưỡng.
Người tị nạn đến đây theo nhiều con đường khác nhau, tị nạn chính trị, tị nạn kinh tế, tị nạn giáo dục, tị nạn dân chủ…v.v. Người di trú cũng vậy, có nhiều lý do khác nhau để ra đi. Nhưng đằng sau tất cả những danh xưng hình thức đó, họ đều có một lý do chung. Đó là rời bỏ quê hương để tìm một nơi tốt đẹp hơn cho bản thân và cho thế hệ mai sau. Tất nhiên đại đa số nếu không vì hoàn cảnh bắt buộc họ sẽ không chọn lựa rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Nói đến đây, mình chợt nghĩ đến một trong những gia đình tị nạn đầu tiên trong lịch sử, đó là gia đình của Chúa Jesus - Mary, Joseph và Hài Nhi Jesus. Họ phải bỏ xứ ra đi, chạy trốn sự bạo tàn của vua Herod, một kẻ lo sợ mất quyền lực đến mức ra lệnh tàn sát trẻ sơ sinh ở Bê-lem (Bethlehem). Joseph bồng vợ con chạy sang Ai Cập, một đất nước xa lạ về ngôn ngữ, văn hóa và niềm tin. Họ ra đi mang theo không gì khác hơn ngoài nỗi lo sợ và một tia hy vọng mong manh. Về bản chất, đó chính là những người tị nạn, và cũng là câu chuyện mở đầu của lễ Giáng Sinh.
Nhiều người từng hỏi, vậy Mary và Joseph có phải là tị nạn chính trị không? Kinh Thánh chép rằng sau khi Jesus sinh ra, vua Herod nghe tin "một Vị Vua mới" xuất hiện nên ra lệnh giết tất cả trẻ em trai dưới hai tuổi ở Bê-lem (sự kiện này gọi là The Massacre of the Innocents - Cuộc tàn sát các hài nhi vô tội). Được thiên sứ báo mộng, Joseph phải đem Mary và Chúa Hài đồng Jesus trốn sang Ai Cập. Họ chạy trốn vì bị truy sát bởi một chế độ độc tài, đó chính là tị nạn chính trị. Họ sống ở Ai Cập cho đến khi Herod chết mới trở về Nazareth. Vì thế, Mary, Joseph và Jesus được xem là những người tị nạn chính trị đầu tiên trong lịch sử Ki tô giáo. Cũng vì lẽ đó mà trong thần học hiện đại, việc giúp đỡ người tị nạn được xem như một nghĩa vụ đạo đức thiêng liêng.
Bởi vậy, nếu nhìn dưới ánh sáng lịch sử, Giáng Sinh không bắt đầu bằng ánh đèn lung linh, mà bằng nỗi bất an và hành trình chạy trốn của một gia đình nghèo. Nhiều người tị nạn ngày nay cũng vậy, họ rời quê hương với một phần ký ức đứt gãy và một tương lai chưa định hình rõ rệt. Trong số chúng ta, nhiều người có bản thân, cha mẹ, ông bà, tổ tiên, từng là người tị nạn. Họ mang trong mình hai quê hương, một quê nhà ở phía sau, một quê người trước mặt, và trong lòng là một khoảng trống khó đặt tên. Họ sống âm thầm giữa đất khách, đi qua những góc khuất mà hiếm khi được lịch sử nhắc đến.
Trong mỗi người tị nạn đều có một “Bê-lem” riêng, nơi họ bắt đầu, nơi họ rời bỏ, nơi họ vẫn mãi không thể quên. Nhưng họ vẫn phải bước tiếp, cũng như Joseph và Mary, bởi cuộc đời không có một con đường quay lại trọn vẹn. Vì thế Giáng Sinh không chỉ nói về việc Chúa Hài đồng được sinh ra, mà còn là câu chuyện về hành trình của những con người bé nhỏ trước quyền lực lớn, về sự hy sinh thầm lặng của các bậc cha mẹ, và về sức mạnh âm thầm của niềm hy vọng.
Giáng Sinh cũng nhắc chúng ta rằng trước khi là câu chuyện thiêng liêng của đấng Cứu thế, đó còn là câu chuyện của con người - Một đứa trẻ sinh ra trong máng cỏ, một gia đình lầm lũi chạy trốn, và những bước ngoặc đầu đời của một hy vọng mong manh. Nhưng đáng tiếc là đến ngày hôm nay, câu chuyện "rời bỏ quê hưong đi tìm đất sống" ấy vẫn đang tiếp tục tái diễn ở nhiều nơi, khắp các biên giới, các trại tị nạn ... Vẫn còn đó, những phận người nhỏ bé vô danh, trốn chạy tìm nơi nương náu, ngay cả trên nước Mỹ, nơi từng là biểu tượng hy vọng của bao con người bất hạnh từ những vùng đất xa xôi. Hy vọng trần gian vẫn luôn nhớ rằng lễ Giáng Sinh bắt đầu từ nỗi khổ của một gia đình tị nạn, và sự sống đã được nuôi dưỡng và lớn lên nhờ lòng nhân ái của những người đã dang tay đón nhận họ.
Mở ngoặc chút nói thêm về câu chuyện an ninh, di dân di trú, thời buổi ngày nay. Dĩ nhiên, cho dù là xuất xứ từ đâu, nguồn gốc dân tộc nào, ở đâu cũng vậy, người dân nào cũng mong đất nước mình sinh sống được an ninh, bình yên, không đầy rẫy kẻ xấu, tội phạm, hoặc những người cư trú bất hợp pháp. Ai cũng muốn con cái có một môi trường phát triển tốt, gia đình an yên, sống tuân thủ đầy đủ các bổn phận công dân, trách nhiệm dân sự. Nhưng bên cạnh đó, con người cũng mong được đối xử bằng sự tử tế và bình đẳng. Không ai muốn chứng kiến cảnh chính trị hóa đời sống, hay vũ khí hoá các vấn đề xã hội, lợi dụng danh nghĩa “hợp pháp” để cậy mạnh hiếp yếu, chà đạp nhân phẩm người khác. Bởi dù khác màu da, khác tiếng nói, khác hoàn cảnh, nhưng phẩm giá con người vẫn luôn là điều đáng được tôn trọng trước tiên.
Nhân mùa Giáng Sinh và năm mới 2026 sắp đến, kính chúc quý anh chị em, bằng hữu và gia đình một đêm Giáng Sinh an lành, và một năm mới nhiều sức khỏe, bình an, may mắn.
Nói đến lý thuyết “nhị nguyên” thì đối với nhiều người không còn xa lạ gì nữa. Từ thuở bập bẹ, tóc chỏm đuôi gà, khi mà tâm trí chưa đủ khả năng phân tích hay nhận định vấn đề, thì cuộc sống, gia đình, nhà trường, xã hội ... đã bắt đầu định hình chúng ta bằng những "cặp phạm trù" hay khái niệm nhị nguyên dựa trên các quy ước vùng miền với ngôn ngữ văn hoá nhất định nào đó. Những khái niệm ấy, theo thời gian, trở thành những “mặc định nhận thức” đi cùng năm tháng và lớn lên cùng với chúng ta. Từ đó, phần lớn quan niệm về chánh-tà, đúng-sai, thương-ghét, tốt-xấu ... của mỗi cá nhân được xây dựng trên nền tảng của tư duy nhị nguyên này.
Nói một cách đơn giản hơn, từ nhỏ, đọc truyện xem phim đã "biết" bên nào là thiện, bên nào là ác. Chơi với bạn bè thì học phân biệt “thương-ghét”, “quân tử-tiểu nhân”. Lớn lên chút, tiếp xúc nhiều hơn với sách vở và xã hội, có thêm chút đỉnh kiến thức, lại củng cố những phân định như đúng-sai, thành công-thất bại, sang-hèn, giỏi-dở, thông minh-ngu dốt... Đến khi đất nước bước vào chiến tranh, sự phân đôi càng rõ, địch-ta, quốc gia-cộng sản, bên này-bên kia, thương mến-hận thù.... Khi chiến tranh kết thúc, những đối lập mới lại xuất hiện như lý lịch tốt-xấu, miền Nam-miền Bắc, quân ta-quân “ngụy”... Một người lỡ nói điều trái tai hay bày tỏ quan điểm phản biện, dù chẳng động dao động thớt gì, cũng dễ bị gán nhãn mác là “phản động", hoặc thành phần nọ kia .v.v.. Vô tình hay cố ý, tất cả đều là những biến dạng của tư duy nhị nguyên, cứ không phải “ta” thì mặc nhiên trở thành “địch” !
Rồi ngay cả khi có nhiều người may mắn được ra nước ngoài sinh sống, học hành, thì những mô thức nhị nguyên này vẫn được tiếp tục mang theo. Có khác chăng là thay vì dùng từ “phản động”, người ta chuyển sang thủ sẵn vài chiếc “nón cối” trong đầu. Hễ ai nghịch ý mình, hoặc “yêu nước” theo cách không giống mình, thì lập tức ban phát cho vài chiếc nón cối, rồi tranh chấp địch-ta cho đến hết phần đời còn lại.
Nhưng đó mới chỉ là câu chuyện quê nhà. Vậy dân bên Tây bên Tàu có khá hơn không?
Tất nhiên là có khác, khác văn hoá, khác hình tướng, khác thể chế... Nhưng xét về tư duy nhị nguyên, thì cũng chẳng khác bao nhiêu. Đặc biệt là công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, thông tin càng đa dạng, thì những thiên kiến nhận thức và tư duy đối lập ngày càng nhiều. Ví dụ như chuyện chính trị chính em tại Mỹ, trong những năm gần đây xuất hiện nhiều hiện tượng phân hoá, tư duy đối lập rất khôi hài, thậm chí ngô nghê. Không rõ khởi đầu từ đâu, mà từ đen cho đến trắng, từ ướt cho đến ráo, từ cơm cho đến đậu, từ ông dân cho đến ông quan, từ người chỉ đọc báo mạng, cho đến kẻ chỉ nghe đài FB, YouTube, Tiktok… đa số mặc định như thế giới này chỉ còn hai phe CH và DC. Ai không thích cánh tả thì bị xếp vào cánh hữu; ai phê phán CH thì lập tức bị gán là DC. Ai không ưa Biden thì chắc chắn là khoái Trump...v.v... Lối suy nghĩ này na ná chuyện tiếu lâm bên nhà, hễ chán cơm thì phải tìm phở; hễ vợ là “địch” thì bồ bịch là “ta". Và cũng chính vì thế, tư tưởng nhị nguyên có đất dụng võ, có đầy đủ lý do chính đáng để tiếp tục xoay vòng, lẩn quẩn luân hồi, bám riết lấy con người đời này sang đời khác :-). (Dĩ nhiên, không phải ai cũng suy nghĩ như vậy. Vẫn có nhiều người rất tỉnh táo, sáng suốt, phân biệt rạch ròi, không vướng vào tư duy "nhị nguyên", nên không hề bị lôi cuốn vào những câu chuyện lẩm cẩm ấy).
Nhân nhắc đến “nhị nguyên”, mình cũng muốn tản mạn đôi chút về đề tài này. Nhưng đây là một lý thuyết vô cùng quan trọng trong PG, mình không dám nhận là hiểu biết thấu đáo, lại càng không có ý giảng thuyết hay tranh luận đúng sai, chỉ xin chia sẻ đôi cảm nghĩ cá nhân, nên ai thích thì tìm đọc thêm nghen. Trong triết học Ấn Độ, Advaita Vedānta (Bất Nhị), cũng như triết học phương Tây của Immanuel Kant, đều bàn đến những hiện tượng rất gần với cái gọi là “nhị nguyên”, nếu ai muốn tìm hiểu sâu hơn. Dĩ nhiên, nói đến những lý thuyết sâu sắc này là phải đụng đến vài thuật ngữ trong kinh điển PG, đôi khi hơi khó hiểu. Có nhiều tác giả viết cả cuốn sách vẫn chưa nói hết ý của tư tưởng Nhị Nguyên. Cho nên với phạm vi ngắn ngủi của bài viết này, chủ yếu là đọc cho vui thôi. Mình vốn không thích sự giới hạn của ngôn ngữ, nhưng nếu không dùng ngôn ngữ thì lại chẳng diễn đạt được gì. Đây quả nhiên là một nghịch lý, mong thông cảm vậy :-) .
Trong triết học phương Tây, “nhị nguyên” thường mang nghĩa dualism, là hai thực thể độc lập như thân-tâm, hay vật chất-tinh thần. Kant thì cho rằng tâm luôn đóng vai trò trung gian, vì vậy tri giác của con người mang tính cấu trúc chủ quan. Nhưng trong Phật giáo, “nhị nguyên” không phải là cấu trúc của thế giới, mà là cách "tâm" phân chia, và đối lập hóa thực tại. Chính cái nhìn phân chia này mới là nguồn gốc của vô minh, và là chướng ngại của sự giác ngộ, giải thoát.
Phật giáo gọi đây là "nhị nguyên phân biệt" (tiếng Phạn là Dvaya), nghĩa là con người luôn bị vướng vào hai cực đối lập như có-không, còn-mất, đúng-sai, sạch-dơ, thiện-ác… Nhị nguyên chỉ xuất hiện khi con người đặt tên, đóng khung, phân chia, hoặc phán xét thế giới chung quanh bằng các khái niệm đối lập, nhưng những đối lập này không tồn tại độc lập, chúng sinh ra từ sự vận hành của Tưởng và Thức trong Ngũ Uẩn. Cho nên Phật giáo cho rằng Nhị Nguyên không phải là bản chất của vạn vật hoặc vạn pháp (theo từ ngữ của PG), mà chỉ là cách tâm phân loại. Nhị nguyên chỉ là một ảo tưởng của nhận thức, không phải thực tại khách quan. Nhị nguyên cũng là biểu hiện của chấp thủ, nguyên nhân chính là do tâm không thấy được duyên khởi và tính Không của vạn vật .
Sự giác ngộ, dưới cái nhìn của PG không phải là tích lũy tri thức, hay đạt đến cảnh giới nọ kia hoặc chức danh nào đó, mà là thấy được thực tại như nó đang là (tiếng Phạn là yathābhūta), tức thấy bằng trí tuệ vô phân biệt (nirvikalpa-jñāna). Nhưng chính tư tưởng nhị nguyên đã che lấp trí tuệ này bằng nhiều cách khác nhau.
Một trong những tác động đầu tiên của nhị nguyên là sinh ra chấp thủ. Khi có hai bên đối lập, tâm sẽ chọn một bên và loại trừ bên kia. Ví dụ như ghét phe này thì phải chọn phe kia, không ưa điều này thì lập tức ôm lấy điều ngược lại. Từ đó nảy sinh yêu-ghét, bảo vệ-chống đối, và vô số phản ứng kéo theo. Nhưng cho dù bám vào bất kỳ bên nào thì cũng dẫn đến khổ đau. Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy rằng “do chấp thủ mà khổ sinh”. Quả nhiên là vậy, bởi chấp thủ nên tâm con người khó giữ được trung đạo. Và vì thế họ không thể thảnh thơi, luôn dính mắc, không thể có được tự do thực sự .
Một luận điểm quan trọng nữa là "nhị nguyên" che lấp tính Không (emptiness). PG quan niệm vạn pháp đều vô tự tính, vô thường, và do duyên khởi. Nhưng khi tâm con người chia thế giới thành hai bên, họ gán cho sự vật những bản chất cố định. Điều này trái ngược hoàn toàn với cái thấy của trí tuệ Bát Nhã “Sắc tức thị Không”. Thực tế thì không có sự thành tựu nào tồn tại độc lập, cũng không có cái đẹp nào độc lập, mà cũng chẳng có cái xấu nào độc lập. Không có “ta”, mà cũng chẳng có “người”, theo nghĩa tuyệt đối, nhưng "nhị nguyên" khiến cho con người không thể thấy được tầng sâu sắc này.
Đồng thời, nhị nguyên cũng nuôi dưỡng bản ngã. Trong đời sống hằng ngày, cặp nhị nguyên lớn nhất chính là “Ta” và “Không phải ta”. Khi tâm đặt cái tôi “tự ngã” ở một phía, và thế giới còn lại ở phía bên kia, thì mọi phát sinh kiêu mạn, ganh ghét, sợ hãi, cố chấp ... theo đó hình thành. Mà chính những thứ đó là những chướng ngại lớn nhất của con đường giác ngộ.
Không chỉ vậy, nhị nguyên khiến "tâm" con người luôn phân biệt không ngừng. Khi tâm vận hành theo nhị nguyên, nó liên tục so sánh, đánh giá, dựng lập ý niệm, khái niệm... Vì thế, con người không thể an trú trong hiện tại và không thể thấy vạn pháp “như thị” (như nó đang là). Trong kinh Kim Cang có câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.” Nhị nguyên chính là cái “sở trụ” ấy. Khi tâm còn bám vào một cực, một quan điểm, một mô hình, hay một giáo điều nào đó, thì trí tuệ không thể sinh khởi. Câu chuyện về Ngài Huệ Năng gặp hai vị tăng tranh luận về lá cờ đang bay là minh họa rõ nhất. Một vị nói cờ động, vị kia nói gió động. Huệ Năng bảo: “Không phải gió động, không phải cờ động, mà là tâm các ông động.” Ngài chỉ ra rằng nhị nguyên không nằm trong sự vật, mà trong dao động của tâm.
Theo cách hiểu của mình, thì cái "thấy" và cái "biết" của những bậc giác ngộ vượt ra khỏi nhị nguyên. Họ không xóa bỏ nhị nguyên về mặt ngôn ngữ, mà chỉ không còn bị nhị nguyên trói buộc. Họ thấy đẹp mà không bị đẹp ràng buộc, thấy xấu mà không sinh ghét bỏ, nghe khen mà không kiêu ngạo, nghe chê mà không giận hờn, thấy “ta” mà không chấp ngã, thấy “người” mà vẫn khởi lòng từ bi. Đó là vô phân biệt trí, là nhất như, bất nhị (non-dual awareness).
Tóm lại, nhị nguyên chỉ là thói quen của tâm, không phải bản chất của vạn pháp. PG không phủ nhận nhị nguyên, nhưng xem nó như một phương tiện ngôn ngữ, không phải chân lý tối hậu. Thực tại vốn không hai, vì tất cả đều duyên khởi, vô ngã và vô thường. "Nhị nguyên" chỉ là cái bóng của ý niệm, và "Giác ngộ" là sự tan biến của cái bóng ấy !
Ngày nay, nhất là trong thời đại trí tuệ nhân tạo (AI), thiên kiến nhận thức (cognitive bias) là một trong những vấn đề trung tâm của triết học tâm thức và khoa học nhận thức hiện đại. Con người, do giới hạn của tri giác và sự hoạt động có tính mô hình hóa của tâm, thường vội vàng kết luận dựa trên những thông tin không đầy đủ, đặc biệt là các yếu tố hình tướng bên ngoài. Trong văn hóa Đông phương, hiện tượng này đã được phân tích sâu sắc trong hệ thống tư tưởng PG và Đạo gia, vốn xem sự bám chấp vào hình tướng (sắc tướng) là nguồn gốc của vô minh và phân biệt.
Nói thêm chút, theo PG, thế giới con người được cấu thành bởi Ngũ Uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó, sắc uẩn là yếu tố vật chất, hiện tượng có thể quan sát. Tuy nhiên, sắc chỉ là lớp biểu hiện đầu tiên, không hàm chứa bản chất (svabhāva) của vạn vật. Kinh Kim Cang có ghi “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng" (tạm dịch là: Hễ cái gì có hình tướng đều là hư vọng). Điều này hàm ý rằng việc dựa vào sắc để kết luận bản chất là một sai lầm nhận thức, bởi sắc chỉ biểu hiện tạm thời, chịu chi phối bởi vô thường và duyên khởi. Trong tâm lý học, điều này tương ứng với bias of appearance-based judgment, nơi con người phán đoán phẩm chất thực dựa trên dấu hiệu bề ngoài. Và dĩ nhiên nhiên chính sự thiên lệch này là nền tảng của hiện tượng “vơ đũa cả nắm,” khi cá nhân con người sử dụng một mẫu hình nhỏ nhoi để đại diện cho một tập thể rộng lớn.
Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy rằng những gì mắt thấy chỉ là cảnh, tức biểu tượng được tâm tái tạo, không phải thực tánh của sự vật. Phân biệt giữa “cảnh” và “tướng” cho thấy mức độ can thiệp của nhận thức chủ quan. Điều này gần với mô hình “constructivism” của triết học hiện đại: nhận thức là sự kiến tạo, không phải sự phản ánh đơn giản. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, tư tưởng “Sắc bất dị Không” tiếp tục khẳng định rằng mọi biểu hiện đều không có tự tính cố định. Bám vào "sắc" để phán xét, là đồng nhất cái tạm thời với cái bản chất, một sai lầm logic căn bản.
Tư tưởng Lão-Trang cũng có nhiều điểm tương đồng. Lão Tử dạy: “Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh”. Hình tướng và tên gọi chỉ là ký hiệu, không thể gói trọn bản chất. Trang Tử thì dùng các câu chuyện nghịch lý để phá vỡ nhị nguyên, cho thấy ta không thấy sự vật như nó là, mà chỉ thấy sự vật qua tâm mình. Điều này rất gần với khái niệm “projective bias” ngày nay .
Trở lại quan sát đời sống hiện tại, mỗi ngày chung quanh ta có vô số nạn nhân của cái nhìn thiên kiến và lối suy nghĩ vơ đũa cả nắm. Nhiều người chạy theo tin tức phiếm diện, fake news, những video nguỵ tạo, cắt xén, câu view, câu like, để đánh giá hoặc phân tích vấn đề. Con người dễ dàng dùng một dấu hiệu bề ngoài để phán xét bản chất, hoặc lấy một trải nghiệm nhỏ để khái quát thành quy luật. PG cảnh báo rằng không có pháp nào cố định để ta dựa vào mà suy rộng tuyệt đối. Lão-Trang cũng nhắc rằng các đối lập như đúng-sai, thiện-ác, đẹp-xấu đều chỉ là quy ước, không phải bản chất của đạo.
Bài học rút ra là muốn thấy đúng sự thật, con người phải vượt ra khỏi sắc tướng và những khuôn mẫu tâm lý vốn dễ dẫn đến thiên kiến. Chỉ khi ấy, ta mới nhận thức bằng trí tuệ thay vì thói quen phán xét. Nhận thức đúng, không chỉ là tri giác chính xác, mà còn là sự giải phóng bản thân ra khỏi những khuôn mẫu do tâm tự dựng lên. Nhiều vị cao tăng cho rằng để tu tập vượt ra khỏi sắc tướng cần phải thực hành chánh niệm và thiền định, thường xuyên quan sát tâm mình.
Tất nhiên khi đã nói đến chuyện học hỏi tu tập thì còn lệ thuộc vào nhiều điều kiện và yếu tố khác nữa, tuỳ duyên mà tạo tác. Nên chuyện to tác thì chưa dám nói đến, nhưng theo thiển ý của mình, trong đời sống hàng ngày nếu thực hành được một vài việc đơn giản cũng là ngon lành rồi. Ví dụ như cố gắng tránh chuyện vơ đũa cả nắm; thông tin thì cố gắng tìm hiểu từ nhiều nguồn khác nhau để hạn chế lệch lạc, vì thực ra báo đài nào lại chẳng có lúc lệch lạc, chỉ là nhiều hay ít. Cũng không dễ dàng hoặc mù quáng tin theo người khác cho dù họ là tỉ phú, triệu phú, quan quyền, chùa to chức lớn, hay bằng này cấp nọ gì đó, mà nên thực chứng bằng kinh nghiệm của bản thân để tránh những thiệt hại không cần thiết và ảnh hưởng lâu dài đến cái "thấy biết" (tức là sự tỉnh thức giác ngộ) của bản thân. Chỉ mong là được như vậy !
Cho nên mình vẫn thường nói đùa rằng nếu “tu” hoài, đi chùa, làm phước, đọc kinh, tế lễ thường xuyên, mà vẫn còn phân biệt, vẫn còn bám chấp vào hình tướng bên ngoài, dựa vào "fake" news, ta địch, bên này bên kia, bằng này cấp nọ, hoặc danh xưng vô bổ để phán xét hay phân biệt, thì có lẽ vẫn còn… y nguyên :-) .
Lan man chút vậy thôi. Thân chúc tất cả anh chị em và bằng hữu một cuối tuần an vui, bình an giữa mùa lễ hội.
Hằng năm, khi tháng 11 khép lại, những con đường trên khắp nước Mỹ lại khoác lên mình ánh đèn ấm áp. Hàng xóm bắt đầu trang hoàng sân vườn rực rỡ để chuẩn bị cho mùa lễ hội. Lễ Tạ Ơn, rồi Giáng Sinh đến như một lời nhắc nhở dịu dàng rằng sau một năm dài nhiều biến động, con người vẫn có thể ngồi lại bên nhau, ăn chung một bữa “gà tây”, chia sẻ nhau những vui buồn và lòng biết ơn cùng sự tha thứ.
Trong nhiều nền văn hoá, Lễ Tạ Ơn và Giáng Sinh tượng trưng cho khoan dung và đoàn tụ. Thế nhưng, trong không ít năm gần đây, những ngày lẽ ra phải thanh bình ấy lại thường bị phủ bóng bởi nỗi lo âu. Tin tức chiến tranh, bạo lực, khủng bố, hay những vụ tấn công vô nghĩa vào dịp lễ đông người… tất cả như những vệt mực vô tình rơi xuống trang giấy vốn được viết bằng hy vọng. Người ta sợ nơi đông người, sợ bước ra đường, sợ rằng ngay cả ngày thiêng liêng nhất cũng không tránh khỏi sự tàn nhẫn của con người.
Ở Mỹ năm nay, từ nhiều tháng trước, các cuộc truy bắt người di dân bất hợp pháp diễn ra khắp nơi. Như bất kỳ hoạt động quy mô lớn nào, không tránh khỏi có những sai sót, bắt lầm người, hoặc hành vi bạo lực. Điều ấy làm dấy lên tâm lý bất ổn và hoang mang, không chỉ trong cộng đồng di dân bất hợp pháp, mà cả những người có tư cách pháp lý đầy đủ. Nhiều đứa trẻ thuộc các gia đình gốc Nam Mỹ đi học với ánh mắt lo âu đáng thương. Ở tiểu bang nơi mình đang sống, các thành phố lớn, mấy hôm nay nhiều người nhập cư hợp pháp thế hệ đầu tiên cũng ngại đi làm, ngại đưa con đến trường. Sự bất an vốn thường trực trong đời sống nay lại bị khuếch đại vào đúng thời điểm lẽ ra là mùa bình yên. Những hiện tượng này thật sự hiếm hoi, xưa nay chưa từng thấy ở nước Mỹ.
Câu hỏi đặt ra là liệu những hành động như vậy có tạo ra giá trị thật sự hay không, khi được triển khai đúng vào mùa lễ, thời điểm con người cần sự yên ổn, đoàn viên, cõi lòng rộng mở?
Mục đích lớn nhất của một quốc gia là gì? Tạo dựng môi trường an bình để người dân yên tâm làm ăn, dân giàu nước mạnh? Hay tạo ra nỗi bất an tập thể?
Dĩ nhiên, bàn đến những vấn đề này sẽ khó tránh tranh cãi, đụng chạm quan điểm, đảng phái. Nhưng mình thì không có hứng thú phân định thắng thua, chỉ muốn chiêm nghiệm một vài điều nho nhỏ trong đời sống hiện tại, cũng như từ lịch sử loài người.
Xưa nay, bạo lực, khủng bố hay những hành vi phi nhân đạo trong dịp lễ hội đều có chung một gốc rễ, đó là những trái tim bị che khuất bởi giận dữ và thành kiến. Chúng không thể bị đánh bại bằng sự căm ghét, mà chỉ bằng một sức mạnh bền bỉ hơn, là khả năng tha thứ và nhìn thấy nhau như những đồng loại cùng mong cầu hạnh phúc, những con người cùng khát vọng tự do.
Khi một con người biết tha thứ, họ không làm nhỏ đi nỗi đau của mình, mà họ mở lòng để hiểu nỗi đau của người khác. Khi một cộng đồng còn giữ được lòng trắc ẩn, chiến tranh và sợ hãi trở nên lạc lõng. Và khi nhân loại vẫn có thể ngồi lại bên bàn ăn, chia nhau một miếng bánh mì hay một lời chúc bình an, thì dù ngoài kia thế giới rung chuyển đến đâu, ý nghĩa thật sự của mùa lễ vẫn không mất đi.
Trong tư tưởng Kitô giáo, tha thứ mang tính cứu rỗi, con người có lỗi lầm nhưng có thể tái sinh qua tình thương. Trong PG Đại thừa, tha thứ là hệ quả của trí tuệ thấy rằng mọi hành vi đều bị điều kiện hoá bởi vô minh và nghiệp lực. Do vậy, bản chất của oán hận thực ra không có một nền tảng bền vững.
Bởi thế, khi bạo lực xảy ra đúng vào dịp lễ, thời khắc được mặc định cho bình an, thì đó là dấu hiệu của sự đứt gãy trong năng lực tha thứ của xã hội. Bạo lực trong ngày lễ không chỉ là biến cố chính trị, mà còn là dấu hiệu cho thấy xã hội đang đánh mất khả năng “sản sinh tình người”. Ngược lại, tha thứ là một phương cách chữa lành cộng đồng. Nếu bạo lực phá vỡ trật tự, thì tha thứ chính là hành vi tái lập trật tự một cách có ý thức. Trong bối cảnh các ngày lễ, điều này lại càng đúng. Sự tha thứ làm hồi sinh ý nghĩa nhân bản của mùa đoàn tụ, khẳng định rằng người với người vẫn là nơi trú ẩn cuối cùng.
Có một nghịch lý thật trớ trêu, là nước Mỹ được dựng nên bởi những thế hệ di dân nối tiếp nhau, vậy mà trong thực tế, không ít người “đến trước” lại phân biệt những người “đến sau”. Khi đã hội nhập, đã đứng vững trong đời sống mới, nhiều người dường như quên mất cha ông mình cũng từng bước xuống tàu, đi qua đại dương với cùng một nỗi sợ hãi, mong cầu và bất định như những người di dân hôm nay.
Trong những giờ phút đối diện với sống chết, bất kỳ chiếc phao nào cũng trở nên quý giá. Khi cuộc sống lênh đênh, điều duy nhất mà con người mong mỏi là một nơi trú ẩn an toàn, một vùng đất có thể mở ra cơ hội mới. Lúc ấy, không ai phân biệt người cứu mình, hay ông tổng thống nhận mình là thuộc đảng nào, tin vào điều gì, hay đến từ đâu. Nhưng khi đã đứng được trên mảnh đất an toàn ấy, khi đời sống bớt chòng chành, người ta lại dễ dàng chia rẽ nhau theo nhãn mác, người này "thuộc DC”, người kia “thân CH”..v.v.. như thể sự an toàn tự thân cho phép họ quay lưng với những ai đang sống lại chính câu chuyện của cha ông họ ngày xưa, hoặc thậm chí là những trải nghiệm của chính bản thân họ.
Tâm trạng của nhiều di dân hôm nay, sự lo lắng, bất trắc, nỗi sợ bị xua đuổi, thực chất cũng là tâm trạng từng in hằn trên khuôn mặt của bao thế hệ công dân đang chỉ trích họ. Những cảm xúc ấy không phải mới, chúng chỉ là vòng tròn lẩn quẩn của lịch sử con người.
Triết gia Levinas nói rằng “Thông cảm là nhìn thấy ở người kia khuôn mặt của con người”. Tức là nhận ra nhân vị phía sau những khái niệm, định kiến, hay ranh giới do lịch sử tạo ra. Nhưng thực tế lại phức tạp hơn nhiều. Con người có xu hướng quên rất nhanh, quên mình đã từng yếu đuối, từng mong cầu, từng được cứu, từng là “kẻ mới đến”.
Và vì thế, lịch sử sẽ cứ tiếp tục là chuỗi những câu chuyện… về sự "hay quên". Không phải quên thành tựu, mà là quên chính nguồn cội của lòng nhân ái, của tình người, điều duy nhất có thể nối kết những thế hệ di dân trong hành trình không ngừng tìm kiếm một nơi để được sống như con người.
Không phải ngẫu nhiên mà tinh thần Lễ Tạ Ơn và Giáng Sinh luôn gắn liền với hình ảnh tha thứ. Đó là thời điểm con người dễ nhận thức về sự mong manh của kiếp sống, là khoảnh khắc họ tạm dừng cuộc đua thường ngày, để nhìn lại chính mình. Giữa ánh đèn và những bữa ăn ấm cúng, tha thứ trở thành một hiện diện cần thiết, không phải chỉ là bỏ qua lỗi lầm, mà là chọn lựa đứng về phía ánh sáng trong một thế giới vô cảm, đầy bất trắc.
Do đó, những hành động truy đuổi, săn bắt khiến cộng đồng bất an trong mùa lễ lộc, dù có lý lẽ riêng, nhưng vẫn khó tránh cảm giác rằng đó là điều không nên làm, bởi chúng gây xáo trộn, gieo rắc nỗi sợ hãi, mà không mang lại sự chuyển hoá bền vững.
Giữa tiếng chuông lễ hội, tha thứ nhắc chúng ta rằng con người không bị quyết định bởi bản năng gây hấn cho người khác, mà bởi khả năng chọn con đường đúng đắn cho bản thân, dù con đường ấy đòi hỏi phải có dũng khí hơn, hoặc gian nan hơn. Một xã hội biết tha thứ không phải là xã hội quên đi tội ác, mà là xã hội không để tội ác quyết định tương lai của mình. (Viết tới đây, mới nhớ đến mấy ngày nay đọc tin tức xả lũ kinh hoàng ở VN. Nhưng có lẽ đợi dịp khác viết về vấn đề này !)
Trên thực tế trong mọi cuộc xung đột, bạo lực luôn xuất hiện trước tiên với âm thanh ầm ỹ, và vẻ mạnh mẽ đầy hăm doạ. Nó khiến người ta tưởng rằng quyền lực nằm ở nòng súng và sự khuất phục của kẻ khác. Nhưng khi tiếng ồn tan đi, khi khói bụi lắng xuống, thứ còn lại không bao giờ là sự thống trị, mà chỉ là những vết thương. Bạo lực chỉ tạo ra im lặng tức thời và sự chịu đựng, nhưng không thể tạo ra tương lai.
Ngược lại, tình người, tưởng như yếu mềm, lại bền bỉ hơn mọi thứ vũ khí. Một cử chỉ bao dung, một lời tha thứ, hay một bàn tay chìa ra giữa đổ nát có thể vực dậy cả một cộng đồng, hàn gắn những gì đạn bom không thể chạm tới. Lịch sử thuộc về những ai giữ được lòng nhân khi nhiều người khác đánh mất nó. Và chiến thắng cuối cùng, khi mọi tranh giành đã phai mờ, luôn thuộc về những ai dám yêu thương trong thời điểm dễ căm ghét nhất.
Nhớ đến thời vua Quang Trung, mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789), sau trận Ngọc Hồi – Đống Đa, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Trong lịch sử, đây thường là lúc đạo quân chiến thắng dễ rơi vào nạn kiêu binh, trả thù, hoặc cướp bóc. Nhưng vua Quang Trung đã ra lệnh không được cướp bóc của dân, không được trả thù phe Trịnh Lê, không được đụng đến phụ nữ và trẻ em, và tuyên bố nghiêm trị bất cứ ai vi phạm. Bên cạnh đó, mới lên ngôi, lẽ ra có thể thanh trừng, nhưng ông lại mời các sĩ phu Bắc Hà ra hợp tác, như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Phan Huy Thực. Hành động này mang tính hoà giải dân tộc hiếm thấy, đối xử nhân đạo cả với dân của “bên thua cuộc”. Vua Trần Nhân tông cũng vậy, khoan dung độ lượng, tha cho tướng giặc Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp. Khi quân Nguyên bị đánh bại, nhiều đại tướng bị bắt sống. Thay vì giết để trả thù tàn khốc (vì quân Nguyên từng nhiều lần tàn sát dân Việt), vua Trần Nhân Tông đã xử lý theo hướng nhân đạo - không tra tấn, không giết hại gia đình họ, đối xử đúng lễ nghi với tù binh. Ông Ngô Thì Sĩ (cha ông Ngô Thời Nhiệm) sau này gọi đó là "đại lượng của bậc thánh quân", thắng bằng võ lực nhưng kết thúc bằng đức độ.
Còn chuyện bên Tây thì cũng không hiếm, như Alexander Đại đế sau khi đánh bại vua Ba Tư Darius III, bắt được mẹ, vợ và con của kẻ thù. Thay vì bắt làm nô lệ hoặc hành hạ (tập quán phổ biến thời đó), ông bảo vệ danh dự và an toàn cho họ, đối đãi như người hoàng tộc, và không chiếm đoạt bất cứ phụ nữ nào. Mẫu hậu của vua Darius đã khóc và quỳ lạy Alexander, gọi ông là “vị vua thật sự của nhân loại”. Đây là câu chuyện thường được trích dẫn trong các tác phẩm chính trị quân sự phương Tây như một ví dụ về “tinh thần hiệp sĩ cổ đại”.
Gần đây hơn, thì nước Mỹ có tổng thống Abraham Lincoln và tinh thần “malice toward none, charity for all” (tạm dịch: Hận thù chẳng dành cho ai, lòng nhân ái dành cho tất cả). Thời nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ, ngay trước khi chiến tranh kết thúc, Lincoln tuyên bố: “Hận thù chẳng dành cho ai, lòng nhân ái dành cho tất cả".Ông chủ trương: Không trả thù miền Nam, mà tái thiết đất nước bằng khoan dung. Không xử tử hàng loạt tướng lãnh miền Nam, không tịch thu đất đai, và không truy quét tận diệt các gia đình miền Nam. Cho nên dù ông bị ám sát, chính sách của ông trở thành biểu tượng của hòa giải lịch sử. Và ông được đánh giá là vị tổng thống xuất sắc nhất của nước Mỹ. Lịch sử cả Đông lẫn Tây đều chứng minh rằng đức độ làm nên hoà bình bền vững hơn bất kỳ cuộc chinh phục nào.
Dĩ nhiên, ở đâu có ánh sáng, ở đó cũng có bóng tối. Lịch sử cũng ghi lại không ít những cuộc tấn công vào dịp lễ, từ Pearl Harbor ngay sau tuần Lễ Tạ Ơn (1941), đến trận Ardennes cuối năm 1944, khi quân Đức hy vọng xoay chuyển cục diện trước Giáng Sinh. Thậm chí câu trả lời “NUTS!” của tướng McAuliffe ở Bastogne còn trở thành giai thoại quân sự thú vị. Thế giới luôn là sự đan xen giữa thiện và ác, lòng nhân và bạo lực.
Thôi xin tạm dừng tại đây, chỉ mạn phép lan man đôi điều về tâm trạng bất ổn của cộng đồng di trú, những người phải rời bỏ quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của họ vì những lý do khác nhau. Cầu mong mọi điều tốt đẹp nhất đến với mọi người. Hy vọng rằng dù thời cuộc ra sao, tình người vẫn còn chỗ để nương náu !
Hôm qua là ngày thế giới dành cho người nghèo. Ngày 17/10 hằng năm được chọn là "International Day for the Eradication of Poverty" (tạm dịch: Ngày Quốc tế xoá nghèo). Không phải để kể lể về nỗi khổ, cũng không phải để làm giàu thêm lòng thương hại nhất thời, mà để nhắc nhở nhân loại rằng không ai thật sự đứng một mình trên thế gian này.
Ngày nay, những hiện tượng phân hoá xã hội và phân biệt kỳ thị đẳng cấp giàu nghèo, không còn lạ lẫm gì với thế giới nữa. Thế nhưng những câu chuyện về lòng trắc ẩn, thương cảm trước những hiện tượng xã hội đó lại là một vấn đề khác. Kết quả của những nổ lực hổ trợ nhân đạo, xoá đói giảm nghèo toàn cầu hoàn toàn tuỳ thuộc vào tư duy nhận thức của con người, văn hoá vùng miền từng địa phương, và sự trợ giúp từ chính phủ, chính quyền sở tại, cũng như nhiều nguồn hổ trợ khác nhau trên thế giới. Ngay cả ở VN hôm nay, bước ra đường cũng thấy rõ hai thế giới song song. Một bên là những tòa nhà hoành tráng, tiệc tùng, xe sang, hàng hiệu... Một bên là những em nhỏ bán vé số, những bà cụ nhặt ve chai, những người lao động tối mặt mà vẫn không đủ ăn... Điều đáng trân quý là những năm gần đây, VN có nhiều tổ chức dân sự và đoàn thể đã tham gia một cách hiệu quả các công việc từ thiện địa phương, hổ trợ xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ nhiều học sinh và gia đình hoàn cảnh khó khăn mà không cần đến những tung hô mang hình thức phô diễn.
Và mặc dù là thiểu số, nhưng điều đau xót hơn, là không ít sự giàu sang trong xã hội đã được tạo dựng trên bất công, phi pháp, còn cái nghèo thì lại rơi xuống đúng những người lương thiện. Vì vậy, nói đến người nghèo không chỉ là nói về “số phận”, mà còn nói về công bằng, đạo đức, và lương tâm xã hội. Khoảng cách giàu nghèo không chỉ là chuyện tiền bạc, mà còn là khoảng cách của lòng chia sẻ và trách nhiệm với đồng loại.
Trong đạo Phật, Đức Phật dạy từ bi đơn giản rằng "Have compassion for all beings, rich and poor alike; each has their suffering. Some suffer too much, others too little". (Tạm dịch Hãy khởi lòng từ với tất cả chúng sinh, giàu hay nghèo cũng vậy; ai cũng có nỗi khổ của riêng mình. Có người chịu khổ quá nhiều, có người chịu khổ quá ít.).
Bởi vậy từ bi không hỏi “anh là ai”, mà hỏi “anh đang khổ ở chỗ nào”. Từ bi không đứng ngoài quan sát, mà bước tới và san sẻ trong khả năng có thể. Thực ra, ai cũng có thể trở thành người nghèo ở một giai đoạn nào đó của đời mình, nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tình thương, nghèo hy vọng... Cho nên nhiều người quan niệm rằng - Giúp người không phải là một lòng tốt tùy hứng, cũng không phải mong được phước báu hay công đức gì, mà là một nghĩa vụ nhân tính căn bản. Một ổ bánh chia đôi không làm ai chết đói, nhưng có thể cứu được chỗ lương thiện cuối cùng trong một con người. Một bàn tay đưa ra đúng lúc có khi quan trọng hơn cả vạn lời thuyết giảng. Tất nhiên, thế giới này không nghèo đi vì chia sẻ, mà chỉ nghèo đi vì thờ ơ. Ngày nay có rất nhiều tổ chức thiện nguyện phi chính phủ, tập thể, cá nhân, đã không quản ngại khó khăn, hy sinh đi khắp nơi trên thế giới, vùng sâu vùng xa của nhiều châu lục, để tham gia hổ trợ các chương trình xoá đói giảm nghèo và xoa dịu những nỗi khổ của đồng loại. Thật đáng kính trọng !
Gần đây, chính quyền Mỹ đã yêu cầu Quốc hội giữ lại nhiều tỷ USD ngân sách viện trợ nước ngoài và huỷ bỏ hoặc đóng băng nhiều khoản đã duyệt trước. Có báo cáo rằng khoảng 83% các chương trình của USAID (khoảng 5.200/6.200 dự án) đã bị hủy sau một đợt “thanh lọc” trong 6 tuần đầu năm 2025. Các nghiên cứu cho rằng nếu tình trạng cắt giảm tiếp diễn, có thể dẫn tới hơn 14 triệu ca tử vong thêm trên toàn cầu đến năm 2030, trong đó hơn 4,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi. Các quỹ cứu trợ y tế, về dinh dưỡng, nước sạch và vệ sinh đã bị cắt rất mạnh. Ví dụ chương trình chống lao bị cắt 56%, chương trình nước và vệ sinh bị cắt tới 86% trong một số phân tích. Ngoài ra còn nhiều ảnh hưởng khác đến các quỹ nhân đạo & phát triển xoá đói giảm nghèo khác.
Hệ thống y tế HIV/AIDS ở các nước như Lesotho bị bứt gãy, hơn 8,000 nhân viên y tế mất việc, nhiều phòng khám đóng cửa sau các khoản viện trợ bị rút. Các chương trình cứu trợ thực phẩm khẩn cấp qua tổ chức như World Food Programme (WFP) báo cáo tình trạng khẩn cấp do thiếu quỹ, có thể ảnh hưởng tới 14 triệu người ở nhiều quốc gia vì cắt viện trợ từ các nước, trong đó Mỹ là một đóng góp lớn. Các chương trình phát triển nông nghiệp, chống biến đổi khí hậu và hỗ trợ người dân nghèo giáp ranh có nguy cơ bị thu hẹp mạnh. Câu hỏi là - USAID bắt đầu từ năm 1961, gần 70 năm qua, vì sao hôm nay có chuyện này ?
Ngắn gọn là do chính sách “America First” (nước Mỹ trước) dẫn tới yêu cầu tái xem xét viện trợ nước ngoài, cho rằng một số chương trình không còn phù hợp với lợi ích quốc gia Mỹ hoặc bị lãng phí. Có sự chuyển giao quyền điều hành viện trợ sang bộ phận khác hoặc sát nhập cơ quan. Có tin cho rằng USAID sẽ bị sáp nhập hoặc chức năng chủ yếu được chuyển cho Bộ Ngoại Giao Mỹ. Ngân sách bị căng thẳng, phải cắt giảm trong bối cảnh thâm hụt lớn, lạm phát và chính sách tài khóa. Mặt khác, khi tranh luận về hiệu quả của viện trợ nước ngoài, một số nhà cố vấn phê bình cho rằng quá nhiều chương trình không đạt hiệu quả, quản lý kém...
Hoặc có thể có vài lý do chủ quan khác nữa, nhưng cho dù là lý do gì, với sự cắt giảm đó của chính phủ Mỹ, sẽ có nhiều tác động đáng lo, có thể làm thụt lùi nhiều thành quả phát triển, đặc biệt ở các nước nghèo như dịch bệnh tái phát, dinh dưỡng trẻ em đi xuống, nghèo đói tăng...v.v. Hệ thống cứu trợ khẩn cấp bị suy yếu, khi thiên tai, xung đột xảy ra, khả năng phản ứng bị hạn chế hơn. Ảnh hưởng không chỉ tới các nước nhận viện trợ, mà dài hạn tới cả an ninh toàn cầu: vấn đề dịch bệnh, biến đổi khí hậu, di cư, xung đột, đều liên quan.
Riêng đối với VN, nếu các chương trình quốc tế bị thu hẹp, thì sự hỗ trợ từ bên ngoài, vốn vẫn đóng vai trò bổ sung trong một số lĩnh vực sẽ khó khăn hơn. Mặc dù Việt Nam trong những năm gần đây đã có tốc độ phát triển nhanh và lộ trình giảm phụ thuộc viện trợ nước ngoài, nhưng vẫn có những phân khúc như vùng sâu vùng xa, điều kiện y tế, hỗ trợ nghề cho người nghèo, nơi viện trợ quốc tế đóng vai trò hổ trợ. Việc cắt giảm viện trợ toàn cầu có thể dẫn đến những hạn chế trong việc lựa chọn nguồn hỗ trợ bên ngoài cho các chương trình nhân đạo, phát triển nhỏ. Do đó, trong bối cảnh ấy, việc tăng cường nguồn lực nội địa, hợp tác giữa các tổ chức công & tư, các đoàn thể, để phát huy nội lực địa phương càng trở nên quan trọng. Thực tế các chương trình xoá đói giảm nghèo không phải chỉ dừng lại ở mức độ từng bữa ăn mà là một kế hoạch lâu dài, trồng cây gì nuôi con gì, giáo dục đào tạo, y tế cộng đồng ...v.v. Cho nên bên cạnh yếu tố con người và các chương trình trợ giúp, thì vai trò của chính quyền địa phương là vô cùng quan trọng.
Và cũng chính vì những thay đổi đột ngột như thế nên gần đây có nhiều người than vãn, trách móc, cho rằng tại sao thế giới lại có nhiều biến động như vậy. Và liệu những đổi thay đó có làm đời sống người dân nước Mỹ nói riêng, và thế giới nói chung, tốt đẹp và hạnh phúc hơn chăng? Cái này thì tuỳ vào khả năng nhận thức và phân tích của mỗi cá nhân dựa vào thực tế đang xảy ra. Bởi rất khó để có thể thuyết phục con người thay đổi tư duy thiên kiến lệch lạc của họ, hoặc buông bỏ những thứ mà họ tin tưởng hoặc tôn thờ !
Còn nói đến sự đổi thay. Đó là chuyện tất nhiên, xưa nay vạn vật luôn thay đổi. Quy luật vô thường của vũ trụ là vậy. Sự tiến bộ của khoa học ngày nay cũng đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên, có sự thay đổi làm cho tốt hơn, thì cũng có sự thay đối làm cho tồi tệ hơn. Mở ngoặc chút, đạo Phật có nói đến 3 đặc điểm căn bản nhất (The three marks of existence) trong thế giới chúng ta, đó là: Vô Thường (tiếng Phạn là Anicca hay Anitya, tiếng Anh là Impermanence), Vô Ngã (tiếng Phạn là Anatta hay Anatman; tiếng Anh là Non-self), và Khổ (tiếng Phạn là Dukkha hay Duhkha; tiếng Anh là Suffering/Unsatisfactoriness). Cho nên nếu có ông nào giảng giải tràng giang đại hải hoặc lý thuyết cao siêu về đạo Phật, mà không đề cập hoặc tán đồng với 3 đặc điểm cơ bản đó thì coi chừng họ đang nói về đạo khác ? Và tất nhiên, những vị đã "chứng ngộ" được chân lý vô thường, vô ngã, thì họ không còn Khổ (Dukkha) nữa. Còn phe ta, những kẻ phàm phu đầy lý thuyết, đầy lý luận, đầy chức danh, đầy kinh điển, thích chứng tỏ, thích cãi nhau, thích hơn thua, thích tiếng tăm, thích xưng tụng..v.v.. thì cứ mãi còn đeo lon thượng sĩ 3 gạch... Còn khổ dài dài :-) !
Nhân đây mình cũng muốn nhắc lại một câu chuyện, mà chắc chắc có nhiều anh chị em đã từng đọc qua. Đó là một trong những giai thoại nổi tiếng xoay quanh danh họa Leonardo da Vinci và kiệt tác “The Last Supper”. Tuy nhiên, cần nhắc lại là câu chuyện Leonardo tìm gương mặt để vẽ Chúa Jesus (Giêsu) và Judas (Giuđa) chỉ là một huyền thoại dân gian, không có chứng cứ lịch sử xác thực, nhưng mang giá trị biểu tượng và triết lý rất sâu sắc về bản chất thiện ác trong con người.
Theo truyền thuyết, khi danh hoạ Leonardo da Vinci được giao vẽ bức “The Last Supper” (1495–1498) cho tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, ông đã quyết định tìm người thật để làm mẫu cho các gương mặt của Chúa Giêsu và 12 tông đồ. Ông muốn mỗi khuôn mặt phải thể hiện một trạng thái tâm hồn đặc trưng, đặc biệt là Chúa Jesus (biểu tượng của tình thương và tha thứ) và Judas Iscariot (biểu tượng của phản bội và tham lam).
Leonardo mất nhiều tháng trời để tìm được người có gương mặt thể hiện sự thanh khiết, nhân từ của Chúa Giêsu, và ông đã chọn một ca sĩ trong dàn hợp xướng nhà thờ có khuôn mặt sáng, đôi mắt hiền, gợi vẻ thánh thiện. Còn tìm hình mẫu của nhân vật Judas thì khó khăn hơn nhiều. Ba năm sau khi bức họa gần hoàn thành, Leonardo đi khắp hang cùng ngõ hẽm vẫn chưa tìm ra người phù hợp để vẽ Judas. Ông cần một gương mặt phản ánh sự sa ngã, tội lỗi, và dằn vặt của linh hồn. Sau nhiều ngày tìm kiếm, ông gặp một người tù bị kết án tử hình ở Rome, gương mặt đầy u tối, ánh mắt cay độc và tuyệt vọng. Leonardo xin phép cho người này làm mẫu để hoàn thiện gương mặt Judas trong bức tranh.
Sau khi bức họa hoàn tất, Leonardo nói lời cảm ơn người tù. Khi đó, người tù bật khóc và nói: “Ngài không nhận ra con sao? Con chính là người đã từng làm mẫu cho ngài vẽ Chúa Jesus ba năm trước đây.”
Leonardo lặng người. Câu chuyện khép lại trong im lặng, như một ẩn dụ về hai mặt của con người. Thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, có thể tồn tại trong cùng một linh hồn. Dù không có bằng chứng lịch sử xác nhận, nhưng câu chuyện này được xem là một ẩn dụ tuyệt vời về con đường tâm linh và đạo đức của con người. Con người không sinh ra là Judas hay Jesus, mà chính sự lựa chọn và những trải nghiệm trong cuộc đời khiến họ trở thành ai.
Thiện và ác không ở ngoài, mà cùng tồn tại trong mỗi người, giống như ánh sáng và bóng tối trong cùng một bức tranh. Leonardo, dù là họa sĩ, đã trở thành triết nhân qua chính cách ông khiến người ta suy ngẫm: “Trong cùng một con người có thể ẩn chứa cả thánh thiện và tội lỗi. Điều khác biệt nằm ở ánh sáng mà họ hướng về”. Thật là trùng hợp, đây cũng chính là điều mà đạo Phật nói đến, thiện ác do tâm tạo ra !
Tuy nhiên sau này, các nhà nghiên cứu nghệ thuật (như Giorgio Vasari, Kenneth Clark, hay các tài liệu của Bảo tàng Leonardo da Vinci) cho rằng Leonardo không hề dùng tù nhân hay người thật làm mẫu cho riêng Judas, mà ông thường quan sát, phác họa nhiều gương mặt ngoài đời rồi tổng hợp thành những biểu cảm tượng trưng. Câu chuyện trên xuất hiện từ thế kỷ XIX trong các tuyển tập giai thoại đạo đức Kitô giáo, chứ không có trong các ghi chép gốc về Leonardo. Tuy vậy, người ta vẫn thích kể lại câu chuyện ấy như một “ngụ ngôn về con người”, sâu sắc và cảm động, vượt xa giá trị nghệ thuật. Đó là, thiện ác, sáng tối, đều khởi đầu từ trong chính trái tim con người.
Hy vọng sau khi nước Mỹ hạn chế các chương trình viện trợ nhân đạo xoá đói giảm nghèo đối với những đất nước nghèo khó trên thế giới, thì sẽ có những cá nhân, tố chức, hoặc quốc gia khác đứng lên điền vào chỗ trống. Suy cho cùng, hơn thua không đến từ vị kỷ, và giá trị không đến từ hư danh. Mọi chuyện đều sẽ đổi thay, kể cả sự hoang tưởng!
Mới đó đã mùa Thu. Ngoài đường đã bày bán bí đỏ bí ngô, hoa cúc, đủ loại, đủ màu đủ sắc. Tuần rồi, có vợ chồng đứa em quen ở VN qua FL, ghé thăm. Thấy mấy chậu cúc "mâm xôi" ở nhà mình, hỏi thăm chưa tới Tết sao cúc đã trổ hết rồi ? Bên này cúc nở vào mùa Thu, chứ không phải mùa Xuân như ở VN. Mỗi nơi xuân về sẽ có những loài hoa trái khác nhau. Cho nên nếu hồi đó 3 ông Trịnh, Lâm, Ngân, mà ở Tây ở Mỹ thì bây giờ không có câu ca bất hủ " Mẹ ơi, hoa cúc hoa mai nở rồi". Tuỳ duyên là vậy :-).
Tán gẫu chuyện thời sự bên Mỹ cũng vậy, ông tổng thống hiện tại lên ngôi cũng được chục tháng rồi, chưa kể là trước đây ông cũng từng làm qua 4 năm tt nữa. Nên ít nhiều thì người ta cũng được nhìn thấy người thật việc thật, cảm nhận, hiểu biết thêm về tài năng lãnh đạo, và đạo đức tư cách của con người ông. Mình không muốn bàn đến chuyện tốt xấu, đúng sai ở đây, bởi mỗi người đều có tư duy, hiểu biết, và cái nhìn riêng biệt để suy luận. Ai cũng có quyền diễn đạt tư tưởng cá nhân, ai cũng có quyền chọn lựa đức tin cho riêng mình, và ai cũng cần có trách nhiệm với bản thân về sự chọn lựa của họ. Có điều mình tưởng rằng trong cuộc sống hàng ngày, một khi thiên hạ thấy biết một điều gì đó rõ ràng hơn, thì họ sẽ ít tranh cãi hơn. Giống như đã được thấy con voi rồi, thì không cần tranh cãi với nhau bộ phận nào to nhất nữa. Thế nhưng thực tế không phải vậy, nhìn lại cuộc sống chung quanh, những cuộc tranh cãi vẫn còn cứ tiếp diễn, sôi nổi và nóng bỏng. Tin thật tin giả, chính thống, nổi trôi, nửa gà nửa vịt, vẫn cứ đầy rẫy khắp nơi, trên mạng, quán cafe, quán nhậu, vũ trường, và ... quốc hội :-) .
Đôi khi mình cũng thắc mắc, cuối cùng thì con người thực sự tìm kiếm điều gì, và tìm ở đâu ?
Có một nghịch lý tồn tại trong đời sống nhận thức của con người, đó là ai cũng nói rằng mình yêu chân lý, nhưng khi sự thật hiện ra, không phải ai cũng đủ can đảm để đối diện với nó. Bởi lẽ, con người thường không tìm kiếm sự thật, mà chỉ tìm kiếm điều gì khiến họ cảm thấy dễ chịu, an toàn, hoặc phù hợp với niềm tin sẵn có của mình.
Trong sâu thẳm tâm lý, mỗi người đều có một “bản đồ” về thế giới, một hệ thống niềm tin, định kiến, và kinh nghiệm được tích lũy qua thời gian. Khi đứng trước một thông tin hay hiện tượng mới, người ta thường vô thức so sánh nó với "bản đồ" ấy. Nếu nó khớp, ta dễ dàng chấp nhận; nếu nó trái ngược, ta lập tức phản bác, thậm chí né tránh. Chính điều đó tạo nên hiện tượng mà các nhà tâm lý học gọi là “thiên kiến xác nhận”. Con người có xu hướng chỉ tin những gì củng cố cho quan điểm của mình, thay vì thử thách nó bằng sự thật.
Nhìn quanh đời sống xã hội, ta thấy điều này diễn ra ở khắp nơi. Trong các cuộc tranh luận, người ta không lắng nghe để hiểu, mà lắng nghe để phản biện. Trong việc học hỏi, nhiều người chỉ chọn đọc những gì mình đã tin, và gạt bỏ những gì khiến mình phải suy nghĩ lại. Thậm chí trong tôn giáo, khoa học hay chính trị, sự thật đôi khi không phải là điều được tôn vinh cao nhất, mà là một "phiên bản của sự thật" phù hợp với số đông, với quyền lực, với "dao to búa lớn", hoặc với cảm xúc của con người.
Thế nhưng, sự thật thì không cần ai tin để trở thành sự thật. Nó tồn tại độc lập với niềm tin của chúng ta. Sự trưởng thành trong nhận thức bắt đầu khi con người dám đặt câu hỏi cho chính mình như : Điều ta đang tin có thật là đúng không ? hay ta chỉ tin vì nó khiến ta thấy dễ chịu? hay ta tin vì bạn bè ta tin như vậy ? hay ta tin vì ông giáo sư tiến sĩ kia nói vậy ? hay ta tin vì ông sếp ta cũng tin như vậy? hay ta tin chỉ vì quyền lợi? hay ta tin chỉ vì muốn chứng tỏ ..v.v..và ..v.v.
Thông thường người trí tuệ không tìm sự dễ chịu, mà tìm sự thật, dù đôi khi nó cay đắng, cô độc, hoặc khiến họ phải từ bỏ những điều đã từng nâng đỡ hoặc đem lại quyền lợi cho họ trước đây. Đức Phật cũng từng dạy rằng: “Đừng tin vì nghe truyền lại, vì thấy hợp lý, hay vì người đáng kính nói ra. Hãy tự mình quán chiếu để thấy đó là sự thật.” Câu nói ấy không chỉ là lời khuyên cho người tu hành, mà cho mọi ai muốn sống thật với chính mình. Bởi chỉ khi ta dám nhìn thẳng, vượt qua cái tôi và định kiến, ta mới có thể chạm đến điều chân thật trong thế giới, và trong chính lòng mình.
Carl Jung, một nhà tâm lý học nổi tiếng của thế giới, cho rằng sự thật không nằm ở một hệ thống tri thức tuyệt đối bên ngoài, mà ở sự đối diện trung thực với chính vô thức của con người. Ông nói con người không thật sự “tìm kiếm sự thật”, mà chỉ đi tìm những hình ảnh giúp họ duy trì cảm giác an toàn trong tâm hồn. Phần lớn chúng ta sống trong thế giới của ảo tưởng bản ngã (ego), tự cho rằng mình hiểu biết, trong khi những động lực sâu xa của hành vi lại nằm trong vô thức tập thể (collective unconscious), nơi chứa các biểu tượng, nguyên mẫu và bản năng nguyên thủy.
Với Jung, “sự thật” không chỉ là điều được lý trí công nhận, mà là sự hòa hợp giữa ý thức và vô thức, giữa cái mà ta tin và cái mà ta sợ. Con người chỉ thực sự chạm đến chân lý khi dám đối diện với “bóng tối” của mình, tức phần tâm lý bị che giấu, bị chối bỏ, và dung hòa nó vào cái toàn thể. Ông từng nói: “Con người không được soi sáng bằng cách tưởng tượng ra ánh sáng, mà bằng cách làm cho bóng tối trở nên có ý thức.” Vì thế, với Jung, sự thật không phải là điều ta tìm thấy bằng tri thức, mà là điều ta trở thành khi dám nhìn sâu vào chính mình.
Từ xa xưa đến nay, trong cuộc sống hàng ngày luôn có những dị biệt, từ chuyện to đến chuyện nhỏ, từ thế giới quan cho đến nguyên tắc sống. Nguyên nhân không phải chỉ dừng lại ở sự khác biệt về trình độ, kiến thức, tôn giáo, hoàn cảnh ..... Mà thực chất là ở cái nhìn phiếm diện và cách hiểu chủ quan của từng người. Ví dụ như những năm gần đây, quan sát hiện tượng phân hoá và xung đột mâu thuẩn chính trị ở những nước dân chủ văn minh như Mỹ khiến người ta ngao ngán và thất vọng. Có lúc băn khoăn không biết ai nói đúng ai nói sai, hay là cả các bên đều nói dối, hay mạnh ai nấy hiểu, hiểu sai sự thật từ một vấn đề chung. Rồi dẫn đến bên nói gà, bên nói vịt, ai cũng cho mình tài, mình đúng :-) ? Thực ra cái căn bệnh "ta luôn đúng" này, thì vô cùng khó trị. Đó là căn bịnh ung thư đã di căn của nhân loại, không chừa một ai !
Theo thiển ý của mình, sự thật không bao giờ thuộc về kẻ cố bảo vệ quan điểm, mà thuộc về người đủ khiêm nhường để lắng nghe, đủ can đảm để thay đổi. Cho nên một số người thực hành sống tỉnh thức (mindfulness) thường cho rằng - chân lý không nằm trong sự khẳng định, mà nằm trong sự thức tỉnh !
Viết tới đây, bỗng nhớ đến một người, đó là Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (xin lưu ý, cái danh Thượng Sĩ này hình như là do vua Trần Thánh Tông kính trọng gọi Ngài, chứ không phải giống danh xưng "vô thượng sư" nghen :-). Nôm na, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (TTTS) là anh ruột của Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Ngài cũng vừa là bác họ, vừa là cậu, vừa là Thầy của Phật hoàng Trần Nhân Tông (người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm của VN sau này).
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia, từng là một danh tướng, không xuống tóc quy y, không sống theo thân phận hoàng tộc, mà chọn con đường hòa mình vào đời sống bình dị, gần gũi với dân gian, nhất là với những người dân chài ven biển. Ở giữa đời thường, Ngài vẫn sống một cách tự tại, thong dong, dùng trí tuệ và tâm từ để chỉ dạy cho người đời. Chính vì vậy, nhiều người xem Ngài là một bậc giác ngộ giữa cõi nhân gian, người đã chứng đạo mà vẫn không rời thế tục.
Vua Trần Thánh Tông, vốn am hiểu sâu sắc giáo lý Phật giáo và hết sức cẩn trọng trong việc giáo dục con cái, rất kính trọng Tuệ Trung Thượng Sĩ. Chính nhà vua đã giao phó việc chỉ dạy thái tử Trần Nhân Tông cho Ngài, vị thầy vừa là người thân trong hoàng tộc, vừa là bậc đắc đạo giác ngộ, không màng danh lợi. Nhờ được dẫn dắt từ thuở nhỏ trong tinh thần ấy, sau này Trần Nhân Tông mới có thể vừa là một minh quân, vừa là một thiền sư khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo và đời.
Đến ngày nay, nhiều bậc thiền sư hiện đại như Thích Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ... vẫn thường trích giảng các bài pháp kệ trong “Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục”, xem đó là những viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng Thiền học Việt Nam. Không chỉ là những lời dạy về đạo, mà trong đó còn phản chiếu tinh thần nhân văn, trí tuệ và lòng từ bi của người Việt thời Trần, thời đại mà Phật pháp, văn hóa, và lòng yêu nước hòa quyện làm một.
Thời kỳ ấy không chỉ có những pháp thoại và thiền kệ sâu xa, mà còn đầy ắp những câu chuyện về lòng dũng cảm, sự hy sinh, tình yêu, và khí phách ngút trời của một dân tộc nhỏ bé ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông, đế quốc hùng mạnh từng chinh phục cả Á – Âu.
Điều đáng tiếc là cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một tác phẩm văn chương hay điện ảnh thật xứng tầm để tái hiện trọn vẹn vẻ đẹp tinh thần của thời đại huy hoàng ấy, thời của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Hưng Đạo, và Trần Nhân Tông... Trong khi đó, trên các kênh truyền hình đại chúng, phim dã sử và anh hùng giả tưởng của Trung Quốc, Hàn Quốc lại tràn ngập, khiến khán thính giả VN càng thêm khát khao được nhìn thấy hào khí Đông A của chính dân tộc mình được sống dậy trên màn ảnh.
Trở lại chuyện hành trình đi tìm "sự thật", Tuệ Trung Thượng Sĩ từng dạy:
“Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.”
(Tạm dịch: Hãy soi lại chính mình, đó là việc lớn lao nhất đời người, đừng mong ai khác chỉ cho mình thấy sự thật.)
Sự thật vốn không xa. Nó nằm ngay trong từng hơi thở, từng ý nghĩ, từng hành động. Nhưng bởi con người ưa tìm kiếm ở ngoài, nên càng tìm càng xa. Ta đọc sách, nghe giảng, chất chứa tri thức… mà ít khi dừng lại để lắng nghe sự thật trong chính tâm mình. Cái "biết" càng nhiều, thì cái "thấy" lại càng bị che lấp. Càng cố chứng minh rằng mình đúng, ta càng đánh mất khả năng nhìn thấy điều đang là !
Có nhiều người cho rằng những bậc trí tuệ không sợ sự thật, vì họ hiểu rằng sự thật không đến để làm tổn thương, mà để giải thoát. Còn những kẻ chấp ngã thì sợ, vì sợ mất đi cái khung hiểu biết quen thuộc, sợ rằng nếu một ngày nhận ra mình sai, thì mình là ai? Nhưng chính khoảnh khắc ta chịu buông cái sai ấy, cũng là lúc chân tâm bừng sáng, như mây tan để mặt trời hiển lộ. Ngài TTTS cũng từng dạy cho vua Trần Nhân Tông “Phật là tâm ông, ngoài tâm không có Phật. Tìm sự thật cũng vậy, ngoài tâm không có sự thật. Nếu tâm ta bị khuấy động bởi ưa ghét, thương giận, thì sự thật liền bị nhuộm màu theo cảm xúc ấy. Khi tâm lặng, sự thật tự hiển. Không cần tìm, cũng chẳng cần hiểu, chỉ cần thấy."
Nhớ ngày xưa, mình đã từng đọc những phần này. Đọc tới đọc lui, rồi nghi ngờ tự hỏi: Chân lý cao siêu lại có thể đơn giản đến thế sao?
Giờ thì đã lang bạt tha phương mấy chục năm, lăn lộn với cơm áo gạo tiền, tiêu nhiều hơn muối (mà cũng có lúc muối nhiều hơn tiêu 😊). Quay trở lại, cũng đọc những chuyện ngày xưa ấy, lại thấy… không còn gì để nghi ngờ nữa.
Thế nhưng, lâu lâu mở YouTube, xem TV, nghe tin vịt, thấy người ta cãi lộn lung tung, vu khống, chụp mũ bên nọ bên kia trên mạng … thì tâm vẫn chưa thể "lặng" được. Rồi tự nhủ - Có lẽ con người thường đi tìm điều mình muốn nghe, chứ không tìm điều mình cần thấy. Mà chân lý sự thật thì vốn không sinh ra để làm vừa ý ai. Nó chỉ chờ một tâm hồn đủ tĩnh lặng để lắng nghe, đủ can đảm để buông bỏ cái biết cũ, và đủ khiêm nhường để nói là ... tôi chưa biết :-).
Thực tế thì đến một lúc nào đó, trí óc ai cũng trở nên già nua. Quy luật sinh, lão, bệnh, tử của vạn vật, chẳng ai tránh khỏi. Mình cũng vậy, có những lúc nhớ được một điều gì đó rất hay, nhưng lại không nhớ là đã từng đọc ở đâu, hay nghe ai giảng dạy. Ráng lục lọi ký ức mãi, không hình dung được, rồi lại bật cười: “Nhớ chi cho mệt. Ai nói thì cũng vậy thôi. Ông Phật, ông Chúa, ông xe ôm, ông vô gia cư, ông sư thầy, bà tiến sĩ giáo sư, hay một kẻ nghèo hèn khốn khổ nói, thì có gì khác nhau đâu ? Thực tế thì ai cũng có thể dạy mình !"
Quả nhiên là vậy, bằng cấp, vật chất, hay địa vị xã hội không bảo đảm được một trí tuệ (wisdom) thực sự, nhất là trong hành trình kiếm tìm sự thật của bản thân. Nhớ mang máng có ai đó đã từng dạy rằng: “Tìm kiếm sự thật không phải là gom nhặt thêm hiểu biết, mà là gột bỏ những lớp hiểu biết sai. Tu không phải là chạy ra ngoài tìm Phật, mà là trở về soi sáng tự tâm. Tu cũng không phải để trở thành, mà là để trở về. Một người có thể học cả ngàn kinh điển, mà vẫn chưa bước được một bước trên đường giác ngộ. Nhưng khi tâm đã an nhiên, lời và ý đều rơi rụng, thấy vạn vật như nó đang là, thì chỉ còn lại sự sáng biết (tánh biết) lặng lẽ. Lúc ấy, sự thật không còn là điều phải tìm, mà chính là ta đang sống trong nó, như con cá bơi trong nước, đâu cần hỏi nước ở đâu.”
Và mỗi lúc nhớ đến những lời dạy đó, mình thường nghĩ rằng - Đấy, chuyện chỉ đơn giản như vậy thôi, mà cả mấy ngàn năm qua, bao nhiêu kinh sách, bao nhiêu tông phái, bao nhiêu ông này bà nọ ...vẫn loay hoay đi tìm sự thật chưa ra, huống chi là kẻ phàm phu tục tử như mình :-). Mà quả nhiên là sự thật chưa từng ở đâu xa, chỉ vì ta không chịu nhìn vào chính mình, mà chỉ mải mê tìm kiếm hoặc chờ đợi từ nơi khác !
Và cũng biết đâu, trong câu chuyện Nỏ Thần của An Dương Vương – Triệu Đà ngày xưa, khi cụ Rùa Vàng (Thần Kim Quy) nói “Kẻ thù đang ở ngay sau lưng nhà ngươi", đó không chỉ là lời cảnh báo cho một vị vua, mà còn là thông điệp gửi lại cho hậu thế.
Bởi kẻ thù thật sự của con người không phải lúc nào cũng mang gươm giáo hay mưu mô, mà chính là những ảo giác, vọng tưởng và chấp niệm ta mang theo trong chiếc ba lô của hành trình cuộc đời mình. Chứ cũng chẳng phải lúc nào cũng có Trọng Thủy hay Mỵ Châu nào đó đâu. Chỉ có ta, với chính những bóng hình trong tâm tưởng mình. Tự biên tự diễn, vừa là người lữ hành, vừa là kẻ tự giăng bẫy rãi đinh trên đường đi 😊.
Thôi, lan man chút cho vui. Giờ đến lúc dọn vườn quét lá rồi. Chúc quý bằng hữu một cuối tuần an vui, hạnh phúc và tĩnh tại .
Tháng trước, mình mới về quê thăm Má và bạn bè anh em vài tuần. Thời gian ngắn ngủi, đi lại nhiều nơi, quên cả ngày tháng, thoáng chốc đã đến ngày lên máy bay trở lại Mỹ. Ông anh đồng hương ra SG ăn tối tiễn đưa, dúi cho mình quyển sách để lên máy bay đọc, và tặng thêm chiếc áo in hình buổi lễ khai giảng 70 năm trước của ngôi trường trung học mà mình từng theo học. (Tất nhiên, ngày khai giảng ấy mình còn chưa ra đời. Mãi đến bao nhiêu năm sau đó, mình mới tập tễnh bước vào lớp Đệ thất cuối cùng). Bởi vậy "kiến thức" về ngôi trường ngày xưa phần lớn đến từ những câu chuyện được nghe đi kể lại của các thế hệ đi trước. Nôm na là những giai thoại về một ngôi trường trung học tỉnh lỵ, có hàng cây long não đầy ắp kỷ niệm và “truyền thống học giỏi”.
Mấy hôm nay, liên lục nhận được tin nhắn và hình ảnh từ các ông anh và bạn bè ở quê nhà, ngày hội lớn 70 năm thành lập trường. Tâm trạng rộn ràng, lấy cái áo ra mặc, nhưng cỡ lớn quá, chắc ông anh đưa nhầm size. Không sao, ngồi nhìn lại hình ảnh cái cổng trường in trên áo mà lan man nghĩ về thời gian và những ngày tháng cũ ....
Mới đó mà mình xa quê hương đã hơn 45 năm rồi. Thỉnh thoảng cũng có về quê ghé thăm trường cũ. Hàng long não trong sân trường năm nào, giờ mỗi lúc già đi, nhưng âu đó cũng là quy luật thường tình. Thực ra thì bao nhiêu năm qua, bên cạnh những vị trí thường trực trên các phương tiện truyền thông của tỉnh nhà như núi Ấn, sông Trà, con cá bống, tô don (không vịt lộn) .v.v.. hàng long não cũng luôn đồng hành có mặt trên thi đàn của các thi sĩ nhạc sĩ "cây nhà lá vườn". Mới đây, mình thử nhờ AI viết một bài hát về ngôi trường TQT, và thật thú vị nó cũng “rinh” nguyên hàng cây long não ấy vào trong ca từ :-).
Còn nói đến “truyền thống học giỏi”, mình cho rằng đó chỉ là những cảm nhận mang tính chủ quan. Giỏi với người này chưa chắc đã giỏi với người khác. Đi dọc miền Trung, tỉnh nào cũng có những ngôi trường nổi tiếng “truyền thống học giỏi”, na ná giống nhau, như Quốc Học Huế, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Trần Quốc Tuấn, Nữ Trung Học, Quốc Học Quy Nhơn, Quang Trung, Cường Để, Yersin, Võ Tánh…v.v. Quan điểm giáo dục cũng vậy, có những điểm chung và có những nét riêng, tùy theo từng giai đoạn lịch sử và bối cảnh xã hội. Từ những nguyên tắc giáo dục “nhân bản, dân tộc, khai phóng” ngày xưa cho đến nền “giáo dục XHCN” ngày nay là cả một chặng đường dài, gắn liền với những đổi thay của đất nước và con người. Và tất nhiên là ở đất nước nào cũng vậy, tương lai của quốc gia dân tộc luôn được dựa trên nền tảng và giá trị của giáo dục học đường.
Trong sứ mệnh giáo dục ấy, những ngôi trường nhỏ bé vẫn âm thầm đóng góp giá trị bền vững nhất cho xã hội. Giá trị thực sự của một ngôi trường không nằm ở những thành tích được ghi trên giấy, mà ở khả năng nuôi dưỡng nhân tài qua từng thế hệ, góp phần thiết thực vào sự phát triển phồn thịnh của quê hương và hữu ích cho xã hội. Lịch sử thế giới xưa nay luôn khẳng định rằng "Nền móng vững chắc dựng nên ngôi nhà bền vững; hào khí dân tộc bồi đắp nên một quốc gia hưng thịnh hùng cường !"
Tuy nhiên, thời gian trôi qua cùng với những biến động của đất nước, các ngôi trường tỉnh lỵ cũng phải trải qua bao biến đổi thăng trầm. Có những bài hành khúc hào hùng một thời, hay những ca khúc đậm tình dân tộc, theo năm tháng dần bị quên lãng hoặc không còn phù hợp với bối cảnh mới. Nhiều giá trị “truyền thống”, “định nghĩa”, hay “nguyên tắc” có thể đã bị thời gian hoặc những yếu tố khách quan vô tình làm phai mờ, thậm chí ảnh hưởng đến mục đích chung ban đầu. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, ai cũng mong muốn những vướng mắc và ràng buộc không cần thiết sẽ được nhìn nhận lại và gỡ bỏ, để mang đến những luồng sinh khí mới cho thế hệ học sinh – sinh viên Việt Nam, nhất là trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn vươn mình, phát triển mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng với thế giới.
Thực ra, ai cũng mong muốn ngôi trường xưa và quê hương của họ ngày càng thay đổi tốt đẹp hơn. Thế nhưng, mỗi lần về quê họp trường, họp lớp, thì “ngôi trường” thật sự còn lại trong lòng mỗi người vẫn chỉ là một hình ảnh cũ kỹ thuở nào, nằm sâu trong ký ức, và gắn liền với những cảm nhận riêng biệt. Có phải đó mới chính là giá trị bền lâu nhất chăng ? Có lẽ vậy. Nhưng cũng chính những “giá trị bền lâu" ấy, những ký ức khó phai ấy, lại trở thành những dính mắc gắn bó trong cuộc sống của họ, nhiều hay ít. Mở ngoặc chút, theo quan điểm PG, nguồn gốc của mọi khổ đau (bất toại nguyện) đều bắt nguồn từ ham muốn (desire) và dính mắc (attachment). Vậy nên lỡ có dính mắc, thì dính .... vừa vừa thôi, cho đỡ nặng lòng 🙂
Cũng nhân nhắc đến chuyện thời gian, mình nhớ đến Einstein và thuyết tương đối. Ông ta cho rằng thời gian không trôi đều đặn như chiếc đồng hồ treo tường, mà co giãn tùy vào vận tốc và trường hấp dẫn. Nôm na là nếu bạn di chuyển rất nhanh, hoặc ở gần một vật thể có khối lượng lớn (như một hành tinh nặng), thời gian với bạn sẽ trôi chậm hơn so với người ở trạng thái tĩnh hoặc ở xa nguồn hấp dẫn. Đây gọi là "time dilation" (giãn nở thời gian). Hai người ở hai hoàn cảnh khác nhau sẽ có dòng thời gian khác nhau, một phi hành gia ngoài quỹ đạo sẽ già chậm hơn một người đứng trên mặt đất.
Còn dưới lăng kính của PG, thời gian cũng theo quy luật của vô thường. Mọi sự vật đều biến đổi, không có gì tồn tại mãi ở một trạng thái. Không chỉ vật chất, mà cả cảm xúc, ký ức, và chính nhận thức của ta về thời gian cũng thay đổi.
Điểm gặp nhau giữa hai quan niệm tưởng như khác biệt này là: thời gian không cố định, và cảm nhận về nó phụ thuộc vào nơi ta “đứng”, cho dù đó là hệ quy chiếu vật lý hay tâm thức con người. Với Einstein, thời gian thay đổi theo vận tốc và trọng lực. Với đạo Phật, thời gian thay đổi theo sự nhận biết và mức độ bám chấp của con người.
Bởi thế, khi trở về mái trường cũ, có thể nhiều người cũng cảm nhận được sự giao thoa này. Đại khái là thời gian vật lý dù đã trôi qua mấy chục năm rồi, nhưng thời gian của ký ức thì vẫn đứng yên, như chỉ mới hôm qua. Đạo lý "vô thường" nhắc nhở ta rằng mọi thứ sẽ đổi thay, nhưng thuyết tương đối lại cho ta lý do để tin rằng, trong một hệ quy chiếu đặc biệt của tâm trí, những khoảnh khắc đẹp vẫn có thể ở lại mãi mãi :-). Einstein cũng từng dùng một ví dụ dí dỏm để nói về tính tương đối của thời gian - “Khi bạn ngồi nói chuyện với một cô gái dễ thương trong một giờ, bạn cảm giác chỉ như một phút. Nhưng nếu bạn ngồi trên một cái bếp nóng trong một phút, bạn sẽ cảm giác lâu hơn cả một giờ. Đó là tính tương đối của thời gian". Và ông cũng từng thừa nhận rằng sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai “chỉ là một ảo tưởng, dù nó rất dai dẳng”. Nên thời gian không chỉ được đo bằng đồng hồ, mà còn bằng trải nghiệm và cảm nhận cá nhân. Một mùa hè thời thơ ấu, chăn trâu thả diều, tắm sông bắt cá, có thể dài bất tận. Trong khi đó, mấy năm trưởng thành lại trôi qua như một cái chớp mắt. Đi đây đi đó bao năm, về quê bước vào cổng trường cũ, ký ức lại ùa về nguyên vẹn như mới hôm qua. Ngôi trường hiện tại đã khác xưa nhiều, nhưng “ngôi trường” trong tâm trí thì vẫn ở đó, bất chấp mọi đổi thay của vật lý và đời sống. Nhưng hình như không phải chỉ có trường xưa, mà ... người xưa cũng vậy. Mình có quen biết nhiều ông anh Việt kiều, bao năm xa cách quê hương, luôn mơ ước, lặn lội về họp trường họp lớp để gặp lại người xưa. Rồi không biết có gặp được chưa, mà mấy năm nay ít khi nghe nhắc đến chuyện đó nữa :-) .
Tản mạn chút cho vui, chứ theo quan niệm của nhiều người thì thời gian đơn giản chỉ là những con số, một quy ước số học được đặt tên. Quả nhiên là vậy, tuy cùng một con số nhưng ý nghĩa thời gian luôn khác xa tùy theo cách sống của mỗi người. Năm tháng của một người trải nghiệm, dấn thân và cống hiến, khác hẳn với năm tháng của một người tự sướng, tự vỗ về để tồn tại. Thời gian của một người sống với mớ kiến thức vay mượn, lý thuyết "cao siêu", khác một trời một vực với thời gian của người sống trong tỉnh thức và thực chứng. Thời gian của những năm tháng tự do khác xa với thời gian của những năm tháng nhẫn nhục cam chịu. Thời gian của một người thèm khát danh vọng khác xa thời gian của một người sống tự tại buông xả ...v.v. Bởi vậy có những kiếp sống ngắn ngủi nhưng trọn vẹn, để lại cho hậu thế bao giá trị đóng góp. Ngược lại, có những đời sống kéo dài trăm năm, nhưng khi ra đi cũng chẳng có gì để nhớ đến. Cho dù là ông này bà kia, chùa to chùa lớn, chức nọ chức kia, bằng này cấp nọ, mồ to mả đẹp… khi gặp “ông thần thời gian”, ai cũng phải ngả nón chào :-)
Tất nhiên, ở đây đang nói về cuộc sống đời thường, phàm phu, đầy rẫy ham muốn & dính mắc giống như mình. Chứ còn đối với các bậc trí tuệ, giác ngộ, hiểu rõ vô ngã, vô thường, thì mọi thứ chỉ là những điều kiện duyên khởi, đến rồi đi, chẳng có cái tôi cố định nào đứng đằng sau, nên chẳng có gì để dính mắc, mà cũng chẳng có ai để chứng minh, chứng đắc, hoặc ham muốn trở thành đấng nọ đấng kia.
À, bỗng nhớ đến một chuyện thú vị. Mình có anh bạn khá thân, từng dạy đại học ở nước ngoài nhiều năm, rồi về SG giảng dạy hơn chục năm trước, giờ an nhàn hưu trí ở Nha Trang. Cũng lâu lắm rồi, cách đây vài tuần mình mới gặp lại anh. Hai anh em ra vỉa hè, lai rai vài chai la-de, ngắm biển ngắm mây, nói đủ thứ chuyện rồi lan man sang Hermann Hesse: “Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này” (Und allem Weh zum Trotze bleib ich verliebt in die verrückte Welt). Vừa uống vừa cười nhớ lại một thời ngây ngô & đam mê... nhịn đói, suy tư & chờ đợi. (Siddhartha)
Và cũng rất tình cờ, hôm qua đang coi chương trình "Giấc mơ quê nhà" thì nhận được tin nhắn của anh từ Nha trang: "Rằm trên biển: Em về mấy thế kỷ sau. Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?”. Tuyệt !
Mình vốn biết mấy câu thơ này của Bùi Giáng từ trước, nhưng bây giờ nghe lại thì cảm thấy rất hay. Với anh ấy, chắc còn gì tuyệt vời bằng một đêm rằm trên biển, ngửa mặt nhìn trăng mà nghĩ đến "Mai sau em về". Còn mình, vừa mơ màng nhìn cái cổng trường cũ, vừa thắc mắc không biết đến lúc kỷ niệm 80 năm thành lập trường lần tới, có còn giống như hôm nay không? Đang miên man suy nghĩ bỗng nhận được 2 câu thơ của BG, giật mình tỉnh rụi. Câu thơ hay, hợp thời điểm, nhưng “rằng thưa khen nữa là thừa”. Có lẽ trong đời sống, ai cũng từng có những khoảnh khắc tâm trạng như vậy, đó là lúc những thứ đơn giản nhất bỗng quay quắt trở thành điều ám ảnh:
Em về mấy thế kỷ sau Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không? (Bùi Giáng)
“Màu ấy” là màu gì? Là màu nguyên thủy của trăng, hay là sắc màu của một khoảnh khắc cụ thể ? Và “màu ấy” của người này có giống “màu ấy” của người kia không ? Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ có câu trả lời giống nhau. (Trước hết, mình cũng chẳng dám áp đặt ý nghĩ của mình lên câu hỏi của Bùi Giáng, bởi biết đâu ông ta chỉ hỏi kiểu Sài Gòn Lục Tỉnh cho vui :-). Nhưng đời sống vốn đa dạng, từ quan điểm đúng sai, phải quấy, nhận định vấn đề, quan niệm học hành giáo dục, cho đến những chuyện nhỏ như họp trường họp lớp, tổ chức sự kiện, chương trình hát hò văn nghệ, ..v.v.. mỗi người đều có lý lẽ và cảm nhận riêng. Ai cũng có một cái “tôi” nhất định, mặc dù nhiều người chưa từng thực sự làm chủ cái “tôi” đó của mình. Nhưng dù "bản ngã" lớn hay nhỏ, nó vẫn luôn là “nhà độc tài” âm thầm quyết định mọi ý thức và hành vi của mỗi người. Bởi vậy, khi luận bàn một vấn đề gì mang tính công cọng hoặc lợi ích chung, mong đợi sự đồng thuận tuyệt đối quả là điều không dễ dàng chút nào.
Trở lại chuyện màu trăng, ai cũng biết trăng trong thế giới tự nhiên thì luôn đổi thay, chẳng bao giờ giống nhau, dù chỉ cách nhau một giờ, một phút, huống chi là vài thế kỷ. Nên để trả lời “Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?” là những câu chuyện dài. Có người thấy trăng hôm nay vẫn y như xưa, nhưng có người lại thấy khác. Có người mong trăng sáng hơn tròn hơn, nhưng có người chỉ muốn trăng mãi giữ nguyên dáng vẻ thuở nào. Có người than rằng trăng nay không còn đẹp như thời hẹn hò mới lớn; lại có người quả quyết rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ. Có người bảo trăng của Bùi Giáng khác với trăng của Hàn Mặc Tử; lại có người bảo trăng dưới ao của Lý Bạch khác với trăng “khuyết nguyệt” của Tô Đông Pha...v.v
Rồi cũng có người cả đời mải ngắm ngón tay chỉ trăng, mà chưa từng thấy trăng màu gì. Và cũng có người cả đời chỉ biết đến vẻ đẹp của trăng qua chú Cuội, chị Hằng, hoặc qua thơ văn sách vở. Hoặc cũng có người chỉ nghe thấy trăng đẹp qua lời giảng giải của một ông giáo sư, tiến sĩ, một vị “cao tăng", hay "đại sư” nổi tiếng nào đó, mà chưa từng tự mình ngắm trăng một lần !
Đời sống là vậy, nhưng cũng biết đâu, chỉ một câu hỏi bâng quơ như vậy lại khiến ai đó đang nặng nề chữ nghĩa bỗng trở nên buông xả nhẹ nhàng, hoặc ít ra thôi không còn cuồng tín nữa. Hoặc biết đâu, từ câu hỏi “Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?” mà ngộ ra chân lý “nhìn sự vật như nó đang là”, để rồi phân biệt được cái nào thực, cái nào ảo, và không còn bám víu vào những “tin vịt tin gà” nữa. Âu cũng là chuyện hay :-).
Bởi thế, không ai có thể đoán được một hạt mầm ý niệm vô tình sẽ nảy sinh ra sao trong tâm mỗi người. Và xưa nay, những điều kỳ diệu trong cuộc sống thường bắt đầu từ những điều giản dị nhất.
Thôi, lan man chút cho vui buổi sáng cuối tuần. Chúc mọi người an nhiên, hạnh phúc.
Khi nói đến “lối mòn tư duy”, hay những thói quen suy nghĩ và sự chấp trước của con người, có lẽ ít ai xác định được nó bắt đầu từ đâu. Có thể nó đã đồng hành với con người từ thuở sơ khai, hàng ngàn năm về trước. Với nhiều người, đó không còn là một phát hiện mới mẻ, mà gần như là một đặc tính cố hữu của con người, và chắc chắn, nó vẫn sẽ tiếp tục tồn tại cùng chúng ta trong nhiều thế hệ tới.
Tuy nhiên, gần đây, những chủ đề về thói quen suy nghĩ và khả năng phân tích vấn đề của con người được nhắc đến nhiều hơn. Song song với đó là sự xuất hiện nhiều tranh luận hoài nghi về năng lực “nhận thức” của con người, đặc biệt khi nói đến hiệu ứng đám đông và khả năng phân biệt "đúng, sai" của họ trong đời sống xã hội thường nhật. Có lẽ một phần nguyên nhân xuất phát từ việc thế giới trải qua quá nhiều biến động, xã hội bất ổn, công nghệ thay đổi chóng mặt, thông tin lan truyền nhanh chóng, thật giả lẫn lộn… Tất cả khiến lòng người trở nên hoang mang và mất phương hướng. Trong hoàn cảnh ấy, con người thường có xu hướng tìm kiếm một điểm tựa tinh thần, một nơi để đặt niềm tin, cho dù chỉ là tạm thời.
Thế nhưng mỗi người lại có một xuất phát điểm, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau. Vậy dựa vào đâu mới là đúng? Làm sao để phân biệt được "đúng, sai" giữa muôn vàn quan điểm trái chiều và mâu thuẫn, bội thực thông tin ? Chính trong những lúc như vậy, “lối mòn tư duy” lại âm thầm phát huy sức mạnh, bởi nó mang lại cảm giác quen thuộc, an toàn, không cần phải đặt lại câu hỏi hay thay đổi góc nhìn của bản thân. 😊
Thật ra, đây là một đề tài vừa sâu sắc, vừa đầy thách thức. Từ xưa đến nay, ai cũng biết lịch sử văn hóa và môi trường sống luôn ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành vi của con người. Trong những năm gần đây, khi công nghệ AI phát triển mạnh mẽ, các lĩnh vực nghiên cứu về tư duy và hành vi con người lại càng được chú trọng hơn, như một nỗ lực để hiểu rõ hơn về chính bản thân chúng ta trong một thế giới đang thay đổi từng ngày.
Nhìn lại bản thân, ngay từ khi còn nhỏ mình đã từng được “nghe”, được “biết” đến những điều mà chưa bao giờ tự mình kiểm chứng. Ví dụ như nghe dân tộc này thông minh, dân tộc kia anh hùng; người vùng này hào phóng, người vùng kia keo kiệt; miền này học giỏi, miền kia ham chơi; xứ này hay cãi, xứ kia hay co... Lớn lên một chút, lại tiếp tục bị nhồi nhét vào đầu những định nghĩa cứng nhắc cái này là đúng, cái kia là sai; làm như thế này mới là “yêu nước”, làm như thế kia mới là “anh hùng”; học giỏi như ông A, ông B thì mới được trọng vọng; trở thành bà nọ bà kia thì mới được xem là thành công; tu hành theo cách này mới là chánh pháp, theo cách kia là tà đạo..v.v.&.v.v...Và cứ thế, vô số hình tượng, khái niệm, nhận thức (dù đúng hay sai), cùng với những tập tục, thói quen, phương pháp suy luận được nạp vào đầu óc non trẻ từ rất sớm như những định đề tự nhiên, những khuôn mẫu xã hội hay quy ước vùng miền, trước cả khi mình có đủ trải nghiệm và khả năng tư duy độc lập để tự nhận thức, tự kiểm chứng xem điều gì là đúng, điều gì là sai.
Nhưng đó không phải là trường hợp cá biệt của riêng mình, mà là một thực trạng phổ biến hầu như ai cũng từng trải qua. Có người cho rằng sự khác biệt trong tư duy bắt nguồn từ việc gia đình này giáo dục tốt hơn gia đình kia, trường này có chất lượng hơn trường nọ, quốc gia này văn minh hơn quốc gia khác, hoặc thậm chí là do người này thừa hưởng “gen trội” hơn người kia..v.v. Mỗi người có thể tin vào những nguyên nhân khác nhau, nhưng xét cho cùng, phần lớn chúng ta đều được hình thành từ thuở ấu thơ bởi một “mớ” kiến thức được tích lũy từ gia đình, địa phương, nhà trường và môi trường sống xung quanh, những điều mà ta vẫn lầm tưởng là “trí tuệ” của chính mình.
Thực ra, chính ở giai đoạn tuổi thơ và thời tiểu học, trung học (bậc giáo dục phổ thông) mới là thời điểm quan trọng, bởi khi đó cái “tôi”, cái “riêng”, tức là hạ tầng tư duy, quan niệm và nhận thức, bắt đầu được định hình. Nó giống như một hệ điều hành âm thầm được cài đặt vào bộ máy tư duy của mỗi con người. Và phần lớn chúng ta lớn lên, mang theo hệ điều hành ấy như một điều hiển nhiên, ít ai nghi ngờ hay đặt lại câu hỏi. Tất nhiên, khi càng trưởng thành, càng học rộng hiểu nhiều, càng gặt hái nhiều thành tựu, càng trải nghiệm nhiều với những được mất trong đời, thì vị trí của cái “tôi” trong mỗi con người càng được củng cố và bảo vệ. Đó là điều hết sức bình thường trong quá trình phát triển cá nhân. Tuy vậy, cũng không thiếu những trường hợp ngược lại, chính vì cái “tôi” quá lớn, quá cố chấp mà dẫn đến thất bại, mất mát, thậm chí là cuộc sống bất an, hoài nghi, đầy oán trách, và dằn vặt. Khi cái tôi không được nhìn lại, không được đặt đúng chỗ, nó có thể trở thành rào cản ngăn con người sống nhẹ nhàng, rộng mở và cảm thông với chính mình lẫn người khác. Một số ít khi bị thất bại hoặc trở ngại trong cuộc sống, đôi lúc quá bận rộn tìm cách đổ thừa hoặc oán trách người khác, mà đã quên nhìn lại cái "tôi" hoặc lối mòn tư duy của mình, nên mất đi cơ hội hiểu thêm về bản thân, quả là đáng tiếc. Bên cạnh đó, cũng tồn tại sự nhầm lẫn giữa tự ái và tự trọng gây ra nhiều phiền phức. Trên thế giới có những dân tộc lòng tự trọng rất cao, nhưng cũng có những đất nước giàu lòng "tự ái", nên dẫn đến những văn hoá ứng xử khác nhau. Và đó cũng là những chuyện thường gặp trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Mở ngoặc chút, trong Duy Thức học, có giải thích “cái tôi vĩ đại” của con người có liên quan trực tiếp đến Mạt Na thức (thức thứ 7), bạn nào muốn nghiên cứu thêm về lãnh vực này thì nên đọc, rất hay. Còn đối với một số người tu học chân chính theo PG, họ thường thực hành theo những phương thức khác nhau như thiền tuệ, buông xả, sống tỉnh thức, chánh niệm v.v.. Cốt lõi không phải để đạt được điều gì to tát hứa hẹn, hoặc để chứng đắc quả gì, hoặc thần thông hay công đức gì, mà chỉ đơn giản là để tự nhận ra sự thật từ bản thân - vốn không có một cái tôi cố định nào đứng đằng sau những thực thể và cảm xúc "cá nhân" của họ, mà đó chỉ là những “điều kiện” đến rồi đi. Không có ai để đạt được điều gì, mà cũng không có ai cần để chứng minh hay thể hiện điều gì. Khi thấy ra nhận ra được điều đó lần hồi những dính mắc và tham ái cũng không còn chỗ để bám víu nữa. Vậy thôi. Và đó cũng là phần quan trọng của khái niệm "vô ngã", mấu chốt nhất trong giáo lý PG).
Trở lại chuyện đời thường. Khi quan sát và hiểu thấu bản thân nhiều hơn, không ít người nhận ra rằng chính những tri thức được xây dựng trên nền tảng tư duy mặc định mang tính lý thuyết, vốn được tiếp nhận một cách vô thức từ môi trường sống, đã đưa con người ngày càng tiến gần hơn đến quan điểm “nhị nguyên” với những cặp phạm trù đối lập như đúng sai, thắng thua, đẹp xấu, được mất, thành bại, hạnh phúc khổ đau..v.v... Những cặp phạm trù tưởng chừng như tự nhiên ấy dần dà trở thành khuôn mẫu chi phối cảm xúc, hành vi, và cách nhìn đời. Và cũng từ đó, bao nhiêu tham, giận, sân, si âm thầm sinh khởi, len lỏi và vận hành trong suốt hành trình cuộc sống, hiện diện khắp nơi, đôi khi rất mạnh mẽ, mà ta lại hoàn toàn không hay biết.
Từng ngày, từng giờ, cuộc sống quanh ta vẫn đầy rẫy những nhận thức và suy nghĩ xuất phát từ những “lối mòn tư duy” nào đó, vốn được xây dựng từ nền tảng cái tôi cá nhân và hệ điều hành tinh thần mà ta vô thức thừa hưởng. Bạn bè, người thân, gia đình, và cả chính bản thân mình, không ai thật sự thoát khỏi sự chi phối của những khuôn mẫu tư tưởng ấy.
Từ những chuyện tưởng chừng rất đời thường như con cái học ngành gì, cưới hỏi ra sao, nhà xây mấy tấm, tiệc đãi mấy bàn… cho đến những câu chuyện xa xôi hơn, đi mây về gió bên Tây, bên Mỹ, xứ người. Nhiều người cả đời đã phải gồng mình chịu áp lực từ công việc mưu sinh, tha phương cầu thực, nhưng trong lòng vẫn cánh cánh một gánh nặng mang tên "quê nhà", nơi mà sĩ diện, hơn thua, và những nhu cầu “liền chị liền em” đã trở thành những chuẩn mực vô hình. Bởi vậy, dù mỗi người có hoàn cảnh và cách nghĩ khác nhau, nhưng tựu trung, tất cả đều ít nhiều mang theo dấu vết của những lối mòn tư duy cũ kỹ , như đã ăn sâu vào tiềm thức từ rất lâu. Những chuẩn mực ấy không chỉ tạo ra áp lực tâm lý nặng nề, mà còn tiếp tục đè nặng lên thế hệ sau bằng cách định hình một lối mòn suy nghĩ và hành xử, y như cái khuôn mà thế hệ trước từng bị đóng vào. Trong dòng chảy đó, không ít người đánh mất chính mình, sống theo ánh nhìn và sự khen chê của người khác, chạy theo kỳ vọng của đám đông mà không còn nghe thấy tiếng nói từ nội tâm. Họ lầm tưởng rằng mình đang gìn giữ “giá trị truyền thống”, nhưng thực chất, nhiều người chỉ đang vô thức trở thành nô lệ của những “di sản” tư duy lối mòn, một thứ ràng buộc vô hình. Những xiềng xích ấy lẽ ra cần được tháo gỡ, nếu ta thật sự mong muốn tìm lại sự tự do đích thực trong tâm hồn.
Nguy hiểm hơn, lối mòn tư duy không dừng lại ở những lựa chọn cá nhân nhỏ nhặt. Nó còn ngấm ngầm điều phối cả những vấn đề lớn lao hơn trong đời sống. Từ cách ta nhìn nhận người khác, đến cách ta phán xét, quy chụp, lập luận, thậm chí dẫn dắt dư luận đi đến những kết luận sai lầm. Đáng lo ngại là nhiều người phát ngôn hoặc lan truyền những suy nghĩ lệch lạc hoặc tin tức sai trái, lại không hề nhận ra sự sai lệch trong tư duy của chính mình. Khi tư duy bị đóng khung mà không được phản tỉnh, nó không chỉ giới hạn cá nhân, mà còn có thể trở thành rào cản cho cả sự phát triển của một cộng đồng.
Hãy thử quan sát kỹ một hiện tượng cuồng tín trong xã hội, một cuộc bầu cử ở một quốc gia dân chủ, hay một cuộc tranh luận về vấn đề “hòa hợp hòa giải dân tộc”… thậm chí chỉ là những bất đồng trong buổi họp lớp, họp đồng hương, hay thậm chí một cuộc họp mặt gia đình. Ở đâu cũng thấp thoáng bóng dáng của những lối mòn tư duy. Có thể cùng hướng hoặc trái chiều, nhưng đều xuất phát từ những khuôn khổ nhận thức đã được định hình bởi địa phương, văn hóa, hay hoàn cảnh sống mà chúng ta ít khi ngoái đầu nhìn lại.
Tất nhiên, Đông hay Tây, đã là con người thì khó tránh khỏi những rào cản tâm lý này. Ngoại trừ một số ít những bậc giác ngộ, còn lại từ bậc trí giả đến kẻ phàm phu, từ người quyền quý đến người nghèo khổ, thật ra cũng không ai giỏi giang gì hơn ai về mặt “thoát khỏi khuôn mẫu”. Mỗi người chúng ta đều có một hoặc nhiều "lối mòn tư duy" khác nhau, không ai hơn ai, chỉ là người nào khác ta, thì ta cho rằng họ sai ta đúng mà thôi :-). Thậm chí, người "học rộng hiểu nhiều" có khi lại càng bị trói buộc trong lối mòn tư duy sâu thẳm so với người bình dân. Lắm khi, càng đạt được những “thành tựu” theo chuẩn mực của đời thường, thì cái tôi lại càng phình to ra, lối mòn tư duy càng trở nên trơn tru, khó lòng nhận diện.
Mình nhớ có một ông chú quen đồng hương, học vị khá cao, tên tuổi nhiều người biết đến. Mỗi khi hỏi chuyện về ai đó ở quê nhà, chú thường hỏi: “Nó là con ai, cháu ai?” Mình thấy lạ vì ở nước ngoài it gặp chuyện như vậy. Có lần mình thắc mắc: “Vậy con ai, cháu ai thì có liên quan gì đến giá trị mà người đó đóng góp cho xã hội? Chẳng lẽ gen di truyền, tài sản ông bà, hay chức vụ cha mẹ lại quyết định hết thảy giá trị một con người?” Với trình độ và hiểu biết như chú, chắc chắn chú cũng biết rằng rất nhiều nhân vật kiệt xuất trên thế giới từng có xuất thân hết sức bình thường. Và ngược lại, ngay chính trên quê hương của chú, chắc cũng không thiếu những người có lý lịch "tốt đẹp" nhưng lại chẳng làm nên điều gì đáng nói ? Tuy nhiên hỏi là hỏi vậy, chứ thực ra cả hai đều đã nhanh chóng nhận ra nguyên nhân vấn đề "thích truy tìm nguồn gốc" của chú. Âu đó cũng là một lối mòn tư duy :-).
Thực tế, ở phương Tây hoặc tại một số quốc gia châu Á phát triển, người ta thường chú trọng đến năng lực và tư cách đạo đức của con người ở thời điểm hiện tại hơn là xuất thân hay quá khứ. Họ có xu hướng quan tâm đến những sự việc và sự kiện cụ thể đang diễn ra trước mắt, thay vì tin vào tin đồn, suy diễn, hoặc những lời truyền miệng thiếu kiểm chứng. Trong khi đó, tại VN, đặc biệt là ở một số vùng miền nhất định, tư duy "nghe ngóng", "đoán già đoán non", thậm chí là khả năng “nghe một đoán mười” lại được xem là biểu hiện của sự lanh lợi, khôn ngoan. Nhưng ít ai đặt câu hỏi liệu đó có thực sự là sự nhạy bén, hay chỉ là biểu hiện của một kiểu tư duy lệch lạc, cảm tính và đầy định kiến chủ quan.
Còn chuyện điều tra “lý lịch ba đời” thì vẫn tồn tại như một thói quen, thuộc tính cố hữu của một số vùng miền. Dù lý lịch ấy không nói lên được điều gì cụ thể về năng lực hay đạo đức, nó vẫn được xem như một chuẩn mực mặc định để đánh giá con người. Điều đáng nói là ngay cả khi đã sống ở nước ngoài nhiều năm, không ít người vẫn mang theo lối tư duy đó như một "hành trang" vô hình, một lối mòn tư duy chưa từng được nhìn lại.
Thôi dài quá rồi, mình xin dừng lại nơi đây. Nôm na, buổi sáng hôm nay bắt đầu thật nhẹ nhàng, dự định uống cà phê, ngắm hoa, nghe chim hót, rồi cắt mớ rau muống vô nấu canh bún riêu cua. Thế mà tình huống dẫn dắt thế nào, câu chuyện lại lan man sang buổi chiều với những suy ngẫm về “đường xưa lối cũ”.
Thực ra, lâu nay mình cũng ít khi theo dõi tin tức chính trị thời sự bên Mỹ. Thế nhưng mấy hôm nay, quý ông bạn già của mình ở đây, rôm rả nhắn tin, gọi điện, bàn tán hào hứng về vụ ông tỷ phú Musk chia tay "ly dị" với ông tt Trump. Có người độc đảng (chỉ thích cơm hoặc phở), có người lưỡng đảng (khoái cả 2 bên), có người "vô đảng" (không theo phe nào), có người “du đảng” (lúc theo bên này, lúc thích bên kia), và có cả ông “lãng đãng” (lúc nhớ lúc quên), cho nên những câu chuyện trở nên màu mỡ, lối mòn dẫm chéo lên nhau, tô vẻ đầy màu sắc !
Nhưng đã gọi là “lối mòn tư duy” thì đâu thể chỉ dừng lại ở “chuyện hai đứa chúng mình của ông Trump và Musk”. Câu chuyện của các anh, các chú, thường phải đi một vòng từ xóm thượng xuống xóm hạ, từ cánh phải sang cánh trái, có đầu có đuôi, kỳ nhông ông kỳ đà, kỳ đà cha cắc ké, cắc ké mẹ kỳ nhông… Nói chung là từ thời tiền MAGA năm trước, cho đến hậu MAGA hôm nay, không thiếu một chỗ nào. May là mấy hôm nay trời mưa, mình không phải tưới rau, ngồi nghe :-).
Riêng mình, lâu nay vẫn tin vào thuyết duyên khởi, đạo lý nhân quả & vô thường. Nên mọi chuyện xảy ra trên đời, theo mình đều là kết quả của những điều kiện hội đủ, đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan, không có gì ngoại lệ.
Vậy nên mình ngày càng ít quan tâm đến mấy chuyện chính trị chính em, đặc biệt là kiểu chính trị chửi bới, đâm chọt, dựng chuyện, gieo rắc thù hằn và chia rẽ lẫn nhau. Dù bên nào thắng hay thua, ma da hay ma cà rồng, thì với mình, điều đó chưa hẳn phản ánh trí tuệ hay đạo đức thực sự của họ. Theo quan niệm của mình, chê bai người khác là “xấu” không đồng nghĩa với việc mình là “tốt”. Lại càng không thể dựa vào những câu chuyện ngớ ngẩn vô căn cứ trên mạng, hay lối tư duy thiển cận để nhục mạ, bôi nhọ người khác rồi xem đó như một minh chứng cho sự hiểu biết của bản thân. Vì thực ra, hành vi đó thường chỉ nói lên điều ngược lại, rằng người cố tình phát ngôn phát tán tin tức lệch lạc đang thiếu đi chính điều mà họ cố tỏ ra mình sở hữu.
Chính vì thế, không nhất thiết phải lao vào những cuộc tranh luận một chiều. Thay vào đó, nên lùi lại quan sát, lắng nghe và nhận biết vấn đề một cách khách quan. Bởi sau cùng, kết quả thực tế mới là câu trả lời rõ ràng nhất. Mình chỉ mong rằng ai thắng cũng lo được việc cho đất nước, làm điều tốt, đừng gây thêm khổ lụy cho người dân đen dễ tin, dễ biểu, và thấp cổ bé họng.
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân, Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. (Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo) Nguyễn Trãi
Nhìn lại cái đạo lý trị nước an dân của các tiền nhân ngày xưa như cụ Nguyễn Trãi quê ta, hoặc cách thức an dân kiến quốc của những vị tổng thống tài ba của đất nước HK ngày trước, rồi nhìn thực tế hôm nay quả nhiên là xa lạ. Tuy nhiên cũng có một thứ hơn hẳn ngày xưa, đó là bất kỳ lúc nào, những kênh truyền thông chính thống trên thế giới và các kênh YouTube tạp nham đều có những tin tức hoặc đề tài giựt gân, giựt tít, để đăng tải và câu viu :-).
Tản mạn chút cho vui, nhưng tất nhiên hy vọng lớn nhất vẫn là sẽ có lúc nào đó, mỗi người chúng ta chịu dừng lại để lắng nghe, để quan sát, để thấu hiểu bản thân nhiều hơn, để soi lại những lối mòn tư duy đã in hằn trong tâm trí lâu nay. Để cuộc sống cân bằng hơn, bớt đi định kiến, bớt đi lệch lạc, và mỗi sớm mai thức dậy có thể uống ly cà phê với tâm hồn nhẹ nhõm, tỉnh táo, và an nhiên hơn.
Chúc mọi người một cuối tuần an vui và đầy nắng ấm.