Showing posts with label Chuyện quê người. Show all posts
Showing posts with label Chuyện quê người. Show all posts

Monday, April 29, 2019

Những ngày xưa thân ái ...



Thỉnh thoảng có ai nhắc về ngày 30/4, mình lại nghĩ đến cô Cao thị Nhíp - Cô gái "giải phóng quân" dẫn đường năm nào, từng được coi như một trong những biểu tượng của ngày đất nước thống nhất, và được một đạo diễn dựng phim có cùng tên "Cô Nhíp". Thế rồi những năm gần đây, lại nghe tin cô đã trở thành công dân Mỹ và sống ở California. Mình vốn không quan tâm lắm chuyện cô trở thành công dân nước nào, nhưng sở dĩ nhớ đến cô Nhíp, là vì cô ta giống một người có liên hệ tới mình năm xưa, chị Bửng.

Trước năm 1975, Ba Má mình đi làm xa nhà, ở vùng bán an ninh, nên không dám dẫn mình theo, mà gởi cho Bà Ngoại. Lúc đó Ngoại mình ở Ba La, một làng quê rất thanh bình, nơi có những cánh đồng lúa vàng ươm, ruộng mía bát ngát, bàu sen ngào ngạt, vườn tược tươi mát ... Ngoại có 2 người giúp việc, Dũng ( lúc đó trong xóm thường gọi là Bủng) lo việc nặng nhọc đàn ông quanh nhà, và chị Bửng chỉ đặc biệt lo chăm sóc mình. Nhớ ngày nào, mình cũng ngồi chờ gói kẹo Chặt chị đem về từ chợ Mù U. Ăn xong, chị dẫn ra giếng, bắt cởi quần áo tồng ngồng, đi tắm. Cả Dũng và chị Bửng đều là người cùng làng, chân chất, đơn giản. Ngày đó, mọi người cùng ở trong nhà Ngoại, rất gần gũi, thương yêu đùm bọc nhau, coi như gia đình ruột thịt.

Rồi năm đó, chạy giặc trở về. Nhà Ngoại bị đốt, cả một ngôi nhà to lớn chỉ còn lại đống tro bụi và những cây cột cả ôm, cháy sạm trùi trũi. Ngoại khóc, rồi đi lên tỉnh ở với Ba Má mình. Dũng đi theo lên tỉnh, còn chị Bửng xin nghỉ việc ở lại quê chăm sóc ruộng vườn, rồi nhảy núi. Ít lâu sau, tới tuổi đăng lính, Dũng xin phép Ba Má và Ngoại nghỉ việc, đi Biệt Động Quân. Không lâu lắm, tin về đi nhận xác, tử trận ở La Vang, Quảng Trị. Những đồng bào cùng làng cùng quê, thật thà chất phác, từng thương yêu nhau, trở thành 2 chiến tuyến, người còn kẻ mất. Còn chị Bửng mất bặt tin tức. Chiến tranh ngày mỗi ác liệt hơn !

Sau 03/1975, nhớ là vài tuần gì đó, chị Bửng lên nhà mình trong quân phục "cô Nhíp". Nhìn chị rất giống hình ảnh của Cô Nhíp trong phim sau này. Cả nhà bàng hoàng sửng sốt. Chị có chút xa lạ ngại ngùng, im lặng gật đầu chào mọi người, đưa ánh mắt nhìn quanh, rồi chạy lại ôm Ngoại, khóc mừng. Nghe nói chị là một cán bộ chỉ huy đơn vị gì đó. Đó cũng là lần cuối gặp chị, sau không còn liên lạc với nhau nữa. Hồi đó, gia đình mình cũng như hàng triệu gia đình miền Nam khác, phải bận rộn lo toan với bao nhiêu biến động đổi thay của cuộc sống, ít có thời gian quan tâm nhau. Không biết sau này chị ra sao ?

Rồi sau đó, bắt đầu những đợt di chuyển từ Bắc vào Nam, người ngày càng đông dần. Tập kết hồi hương, bộ đội, cán bộ, đùm túm ba lô, ki cóp từng kí gạo, từng hộp lương khô TQ, từng cái chén sành, từng thước vải sô, đôi dép râu, gói thuốc lá Điện Biên, ...vào để "khai phóng" và "giúp đỡ" miền Nam đói khổ, lạc hậu, bị kìm kẹp. Người đi kẻ ở. Người vui kẻ buồn. Từ lúc đó, mình bắt đầu lờ mờ hiểu ra được ý nghĩa của chữ "giải phóng".

Sau này, thỉnh thoảng có đôi lúc nghĩ thoáng qua, không biết có khi nào chị Bửng lại như cô Nhíp năm xưa chăng ? Giờ này đang ung dung ở Huntington Beach hoặc ngồi đâu đó ở Little Saigon thưởng thức ly cafe hương vị quê nhà, mà nghĩ về câu chuyện "giải phóng" của đời mình ?






Tuesday, April 16, 2019

Bia căm thù & những được mất ?









Hôm qua có dịp ghé ngang toà nhà One World Trade Center ở New York (nơi đã từng là toà nhà tháp đôi bị khủng bố 9/11/2001). Vẫn đang còn những kiến trúc xây dựng thêm, nhưng so với vài năm trước đây thì khá nhiều hạng mục đã được hoàn thành.

WTC. Nơi đã từng bị khủng bố, một trong những biến cố tồi tệ nhất của lịch sử nhân loại, một sự kiện đã làm ảnh hưởng cả thế giới. Một trong những tang thương, đổ nát, và bi hùng nhất của lịch sử nước Mỹ. Bao nhiêu nạn nhân và anh hùng đã ngã xuống với biết bao câu chuyện chưa và sẽ không bao giờ nói hết ....

Nhưng từ nơi đó, từ những đổ nát hoang tàn, đã mọc lên những công trình hoành tráng. Không còn là tháp đôi nữa, mà là một toà nhà One World Trade Center, biểu tượng của sự đoàn kết vươn lên mạnh mẽ, không hề khuất phục. Một trạm xe lửa điện ngầm hoành tráng, mang kiến trúc tuyệt đẹp biểu tượng đôi cánh thiên thần bay lên của những anh hùng đã ngã xuống hy sinh vì người khác, vì xã hội tốt đẹp, vì đất nước an vui. Những bờ nước ngày đêm không ngừng nghĩ chảy miết, tươi mát, bên cạnh tên tuổi của những con người đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi đây .....

Thật đẹp & thật ý nghĩa. Nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, hùng tráng nhưng không bi ai. Một tư duy lạc quan và cái nhìn hướng về tương lai phía trước !

Tuyệt nhiên không hề có một tấm bia căm thù nào !

Không một hận thù nào được ghi dấu nơi đây. Một cây hoa lê (bradford pear) duy nhất còn sống sót giữa mịt mù khói lửa, vẫn được chăm sóc kỹ lưỡng như một biểu tượng tồn tại, hàng năm vẫn mãi trổ hoa vào mùa này, xinh tươi và hiền hoà. Mỗi lần đi qua đây, vẫn thích ngắm nhìn những công trình kiến trúc mới, ngày mỗi mọc lên. Mình tự hào và ngưỡng mộ những con người đã hy sinh & đóng góp để làm nên một câu chuyện lịch sử bi hùng đầy tính nhân văn.

Rồi cũng không khỏi ngậm ngùi khi nghĩ về những tấm bia căm thù ở nhiều quốc gia khác, nơi hận thù được nhắc nhở, gieo rắc qua bao nhiêu thế hệ. Những tấm bia căm thù bằng gạch đá, và những tấm bia hận thù trong lòng người. Những hận thù có thực, và những hận thù không có thực. Tuyên truyền, ảo giác, cơ hội, tát nước theo mưa.... Đã, đang, và sẽ còn tiếp tục ! Được, mất gì ở đó ?

Những điệp khúc cay đắng, đố kỵ, hận thù dai dẳng, rồi sẽ đưa thế hệ tương lai của họ về đâu ?



Wednesday, March 20, 2019

Paul Gregory: Why Socialism Fails

SATURDAY, JUNE 23, 2018

Paul Gregory: Why Socialism Fails


As the collapse of the Soviet Union approached, Francis Fukuyama proclaimed the victory of liberal democracy over planned socialism in his 1989 essay, “The End of History?” 

More than a quarter century later, the USSR has indeed disintegrated. Its former east European empire lies inside the European Union. China has a market economy, though the nation is led by a single party. And the “socialist” states of North Korea, Cuba, and Venezuela are in economic ruin. Few now advocate “back to the USSR.” At the same time, many people still consider socialism an appealing economic system. 

Consider, for example, that Bernie Sanders—an avowed supporter of a socialist United States—is America’s most popular politician—and that as many millennials favor socialism as capitalism.
The analogy of the jockey and the horse explains the continued appeal of socialism. Socialists believe that socialist regimes have chosen the wrong jockeys to ride the socialist horse to its deserved victory. Bad jockeys such as Stalin, Mao, Fidel, Pol Pot, and Hugo Chavez chose tactics and policies that led their socialist horse astray. But actually, a look at how the Soviet Union actually worked reveals that it’s the horse itself that’s the problem.

After gaining power a century ago and then holding onto it through a civil war, the Soviet communists were intent on building a socialist state that would overwhelm capitalism. State ownership and scientific planning would replace the anarchy of the market. Material benefits would accrue to the working class. An equitable economy would supplant capitalist exploitation and a new socialist man would rise, prioritizing social above private interests. A dictatorship of the proletariat would guarantee the interests of the working class. Instead of extracting surpluses from workers, the socialist state would take tribute from capitalists to finance the building of socialism.

The basics of the Soviet “horse” were in place by the early 1930s. Under this system, Stalin and his Politburo set general priorities for industrial ministries and a state planning commission. The ministers and planners worked in tandem to draw up economic plans. Managers of the hundreds of thousands of plants, factories, food stores, and even farms were obligated by law to fulfill the plans handed down by their superiors.

The Soviets launched their planned socialist economy as the capitalist world sank into depression, trade wars, and hyperinflation. Soviet authorities bragged of unprecedented rates of growth. New industrial complexes grew from scratch. Magazines featured contented workers lounging in comfortable resorts. The message: The West was failing, and the Soviet economic system was the way to the future.

As the competition between capitalism and Soviet socialism became more pronounced during the Cold War, serious scholarly study of the Soviet economy began. The overarching research agenda of Western scholars was “scientific planning”—the socialist belief that expert technocrats could manage an economy better than spontaneous market forces. After all, would not experts know better than buyers and sellers what, how, and for whom to produce?

It was the Austrian economists F. A. Hayek and Ludwig von Mises who resisted this idea most forcefully. In their landmark critique laid out in a series of papers written from the 1920s through the 1940s, they concluded that socialism must fail. In modern economies, hundreds of thousands of enterprises produce millions of products. Even with the most sophisticated computer technology, managing such large numbers would be far too complex for an administrative body trying to allocate resources. Modern economies, therefore, are too complex to plan. Without markets and prices, decision-makers will not know what is scarce and what is abundant. If property belongs to all, what rules should those who manage assets for society follow? 

The Soviets’ solution to the complexity and information problems was a national plan that spelled out production goals only for broad sectors, not for specific transactions. In other words, rather than mandate the delivery of 10 tons of steel cable by factory A to factory B, the planners set a target for the total number of tons of cable to be produced nationwide. Only a few specific goods—such as crude oil, aluminum ore, brown coal, electricity, and freight-car dispatches—could be planned as actual transactions. Everything else had to be planned in crude quantities, such as several million square meters of textile products. Product specifications, delivery plans, and payments were worked out at lower levels and often with disastrous results.

Soviet scientific planning, in fact, directed only a minuscule portion of products. In the early 1950s, central agencies drew up less than 10,000 planned indexes, while industrial products numbered more than 20 million. Central agencies drew up generalized plans for industrial ministries, which issued more detailed plans to “main administrations,” which prepared plans for enterprises. There never was a pretense that the top officials would plan the production of specific products.

To make matters even more complicated, virtually all plans were “drafts” that could be changed at any time by higher state and party officials. This constant intervention, called “petty tutelage,” was an irritant from the first to the last day of the Soviet system, but it was a key pillar of resource allocation.

Central planners prepared preliminary plans for a small percentage of the economy. These “draft plans” set off huge “battles for the plan” as ministries and enterprises scrambled to fulfill their production targets and meet their delivery quotas, all of which could be changed by party and local officials at any time.

As the commissar of heavy industry, Sergo Ordzhonokidze complained in 1930: “I guess they think we are idiots. They give us every day decree after decree, each one without foundation.” An unnamed defense contractor echoed the same complaint a half century later: “They stick their heads into every single issue. We told them they were wrong, but they would demand that things be done their way.”

The manager’s task was presumably simple: The plan was the law; the manager’s job was to fulfill the plan. But the plan kept on changing. Moreover, it consisted of multiple tasks, such as deliveries, outputs, and an assortment program. Throughout the entire history of the Soviet Union, gross output (measured in tons, meters, or freight/miles) was the most important plan indicator and the most malleable. Nail producers, whose output was judged by weight, would produce only heavy nails. Tractor manufacturers, struggling to meet their tractor quota, were caught delivering tractors without engines to their customers, who accepted them anyway for their spare parts. Shoe manufacturers, whose plans were based on quantity, produced one size and one color to the chagrin of customers. Other targets, such as cost reductions or new technologies, were ignored as counting less towards fulfillment of the plan.

Under scientific planning, supply had to roughly equal demand—and, given their distaste for the anarchy of markets, Soviet planners could not balance supply and demand by raising and lowering prices. Instead, they compiled “material balances” using primitive accounting to compare what materials were on hand with what were, in some sense, needed.

Soviet material-balance planning suffered from a number of deficiencies. For example, only a few balances could be compiled—in 1938, only 379 central balances were prepared in a market of millions of goods. And then, the balances were based on distorted information. Producers of goods in the balance lobbied for easy targets that concealed their capacity. Industrial users in the balance overstated what they needed to be sure of fulfilling their own plans.

Figuring out the proper balance was an exhausting exercise—and Soviet planners did not reinvent the wheel each year. Instead, they resorted to what came to be known as “planning from the achieved level,” which meant that each year’s plan was last year’s plus some minor adjustments.

By the early 1930s, supply agencies were distributing materials based on what they did in the previous year. A fast forward to the 1980s reveals the same practice in place: When a producer of welded materials wished to use thinner metals, the official answer was: “I don’t care about new technology. Just do it so that everything remains the same.” Material-balance planning was hostile to new products and new technologies because they required a reworking of an already fragile system of balances. American economists who were studying Soviet industrial production in the 1950s were astonished that the same machines were produced over decades without modification, something unheard of in the West.

Material-balance planning was the most fundamental weakness of the Soviet system. It froze the Soviet economy in place. Each year’s production was a replica of the previous year. A Soviet manager from 1985 would have felt quite at home in the same enterprise in 1935.
Beyond material-balance planning, soft budgets constituted another key defect. The economist Janos Kornai of Harvard University grew up in Hungary under planned socialism. His research, which draws on his first-hand experiences, focuses on the economic losses associated with soft budget constraints. As Kornai, if enterprises do not face the risk of bankruptcy, they will not seek out cost economies and other survival strategies. From day one of the Soviet system, loss-making enterprises understood they would be bailed out automatically, if not right away.

The primary cause of soft budgets was that the Soviet system was based on output plans. One enterprise’s output was another’s input. If output plans failed widely, the whole plan would fail. Taking an enterprise out of production due to insolvency was simply not an option.

In practice, loss-making enterprises paid for deliveries with IOUs. Unsettled IOUs would grow until they reached crisis proportions. Gosbank, the state bank, would then step in and make good on the unpaid bills by issuing money and creating what Soviet banking officials called a monetary overhang—more rubles chasing goods than there were goods to buy. In fact, Gosbank’s main business in the early years of the Soviet Union was organizing bailouts. When one was completed, it was time to start working on the next.

The problem with socialism isn’t a bad jockey—it’s the horse itself. The Soviet economic system suffered from pathologies that would ultimately doom it. Starting in the late 1960s, the USSR economy went into a long decline, which came to be called the “period of stagnation.” Mikhail Gorbachev was elected General Secretary of the Communist Party in 1985 on the pledge that he, as a radical reformer, would reverse the decline.

Gorbachev failed because the core of the Soviet planned system was rotten Despite his reform inclinations, he remained a believer in socialism. He was determined to save Soviet socialism by making it more like capitalism. In so doing, he created an economy that was neither planned nor a market—a chaotic free-for-all, which the Russian people regrettably associate to this day with that they came to call “wild capitalism.”

Professor Paul Gregory is a research fellow at the Hoover Institution, the Department of Economics at the University of Houston, Texas, and the German Institute for Economic Research in Berlin. This article was first published by the Hoover Institute's Defining Ideas.

Wednesday, February 20, 2019

Phiếm: Sông núi nào ở trên vai ?



Mấy hôm nay thiên hạ lại xôn xao, chê bai, chửi trách, đổ tội nhau về cái vụ ngày hội thơ chủ đề "Sông Núi trên vai" của mấy ông hội văn thi sĩ VN. Thực ra chuyện dịch thuật bậy bạ thì cũng là chuyện thường ở VN. Nhiều sách dịch xong, duyệt xong, phát hành xong, bán lấy tiền thiên hạ rồi, còn chưa biết là dịch bậy.
Còn nói về dịch thơ, không biết có ông Tây nào đọc thơ Việt Nam không, nhưng thỉnh thoảng cũng thấy một số thơ được dịch sang tiếng nước ngoài. Tại sao không ? Kiều dịch được, Chinh Phụ Ngâm dịch được, thơ Hồ Xuân Hương dịch được, thì thơ tớ cũng dịch được. Dịch cho oai. Chắc vậy. Lâu lâu mình cũng hân hạnh được gặp một vài vị hội viên hội văn học nhà nước. Nghe nói ông nào muốn vào hội viên chính thức của hội ông Hữu Thỉnh thì cũng ráng in vài tập thơ, cũng duyệt, cũng ra mắt, cũng phát hành, mới đủ chuẩn. Nhưng rồi in xong, chủ yếu là cho không biếu không làm quà, chứ còn mong bán được thì mơ mộng quá trớn. Nhiều ông còn hứng thú dịch cả ra tiếng Tây mặc dù người đọc toàn là VN. Cho nên chuyện trình độ dịch thuật "Sông Núi trên vai" mà thiên hạ rần rần mấy bữa nay, thì cũng không lạ lắm. Nhưng chuyện dịch thuật lùm xùm đó không phải là chuyện muốn nói đến ở đây.

Cái mà mình cứ thắc mắc là không hiểu tại sao nhà nước VN lại tốn nhiều tiền thuế của dân để nuôi nấng bao cấp hoài những hội nhà văn, nhà thơ như thế ? Những ai từng đi ra nước ngoài làm việc, học hỏi, hoặc các vị lãnh đạo đi nước ngoài thường xuyên, thì chắc cũng thấy, hiếm có nhà nước nào lại bao cấp đến vậy. Nếu có, thì chỉ có thể là Triều Tiên, Cuba, TQ ... gì đấy. Nhưng Cuba ngày nay chắc cũng đã giảm thiểu nhiều rồi. Đúng là ngày xưa trong kháng chiến đấu tranh, làm cách mạng, thì cần thiết xử dụng văn hoá, âm nhạc, văn học nghệ thuật, như các phương tiện hoặc công cụ để làm công tác tư tưởng, cổ vũ tuyên truyền cho những mục đích nhất định. Lúc đó vai trò thơ ca, âm nhạc có thể mang ý nghĩa phục vụ chế độ, nên ăn lương nhà nước thì còn hợp lý. Bây giờ thời bình, kinh tế thị trường, nếu thơ hay văn giỏi, thì cứ làm ra, in bán, có nhiều đọc giả, bạn đọc, rồi làm phim, làm nhạc, làm ra tiền ..v.v. Chứ bao cấp thế sao gọi là kinh tế thị trường ?

Hôm rồi nghe cụm chữ "Sông núi trên vai" thấy rất hay và cao cả, nhưng mình nghĩ hoài không hiểu trách nhiệm nào của các ngài nhà thơ lại cao cả đến thế ? Tuyên giáo ư ? Văn hoá, giáo dục, hay giải trí ? Như ở quê mình ra ngõ gặp nhà thơ, nhưng liệu lâu nay thơ văn có làm cải thiện được đời sống tinh thần của người dân, thay đổi văn hoá ứng xử của xã hội chăng ? Bây giờ mà đi nói chuyện thơ văn VN với giới trẻ, có khi còn khó hơn nhiều so với nói chuyện về phim Hàn quốc. Thế thì gánh nặng "sông núi trên vai" của các hội văn nghệ nhà thơ ở đâu ? Thử làm một cái survey (thăm dò dư luận) để biết bao nhiêu người VN đã đang đọc thơ của các ngài ? hay chỉ là gói gọn nhất định trong một nhóm, giới nào đó. Trà dư tửu hậu, tự vỗ về lẫn nhau ?

Còn nói về tự do sáng tác, thì là những câu chuyện dài. Đến nay viết lách và sáng tác vẫn còn tồn tại nhiều rào cản hạn chế. Cái gì không hiểu được, hoặc có vẻ như không quản được, thì dẹp. Một số ít vẫn còn căn bệnh nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, nên đúng sai gì cứ dẹp cho nó lành, cho an thân tại chức hết nhiệm kỳ, hoặc đùn đẩy nhau, hoặc đợi xin ý kiến chỉ đạo (sic) ....:-).
Mà phàm đã không có tự do biểu đạt thì làm sao có thể phát triển đa dạng được. Nhớ có lần mình ngồi lai rai với một nhà biên kịch làm phim cũng khá nổi tiếng ở VN. Thấy trên TV toàn là phim chưởng TQ, tình cảm Hàn Quốc hoặc hài VN nhảm nhí, hiếm hoi thấy được phim lịch sử VN, bèn hỏi anh ấy: "Sao mấy anh tài hoa thế, VN có nhiều nhà văn, biên kịch, giỏi thế, mà lại không viết ra vài bộ phim lịch sử, dã sử, hoặc những câu chuyện hài có nội dung khá hơn sao ?". Ảnh buồn xo trả lời : "Đâu phải viết là được em, chắc gì được kiểm duyệt cho qua. Mà được kiểm duyệt cho qua, làm ra, chắc gì lại có người chiếu, người coi. Thị hiếu, dân trí bây giờ cũng khác. Chủ đầu tư nào dám bỏ tiền ? ". Nghe mà xót. Đúng là nghèo tiền nghèo bạc thì còn dễ thay đổi, nghèo văn hoá quả là khó xử.
(Cũng có năm mình ra Lý Sơn, nghe bà con ngư dân kể về nỗi đau bị bọn TQ xua đuổi, đánh đập, đâm chìm tàu, mất thuyền mất lưới, chết người .... ngay trên lãnh hải của VN. Về lại TP, cứ đi tìm mấy anh ấy, hỏi nhờ làm giúp một bộ phim tư liệu, nói lên sự thật về những nỗi đau này. Ít ra cũng cho thế giới thấy được sự bắt nạt ngang ngược trên biển Đông của bọn Trung cọng. Nhưng rồi cuối cùng thì không ai muốn làm. Hoặc có thể không dám làm chăng ?)

Dĩ nhiên là đất nước nào thì cũng cần có văn có thơ, và nhiều lãnh vực văn hoá nghệ thuật khác nhau nữa. Nhưng phải biết tôn trọng sở thích và quyền tự do biểu đạt của người khác, thì thơ ca, văn nghệ mới phát triển lành mạnh được. Ai cũng biết nền văn hoá dân tộc luôn được nuôi dưỡng bởi những bức tranh, câu thơ, bài hát, câu hò, ca dao, thủ công, làng nghề, tập tục cổ truyền ....v.v. Cho nên dù là dân dã hay hàn lâm, thì văn nghệ thơ ca luôn là những món ăn tinh thần của con người, không ai phủ nhận được. Nhưng món ăn tinh thần vốn có giá trị của riêng nó, không ai có thể bắt buộc người khác phải “nuôi dưỡng”, hoặc nghe theo cái mà họ không hiểu, hoặc không thích. Nhớ năm ngoái đọc trên mạng, có ông nhà thơ hội phó hội trưởng văn nghệ gì đấy, chê thiên hạ internet không biết thưởng thức thơ ... của ông ấy. Mình nghĩ ông đã quên tự hỏi rằng tại sao thiên hạ lại biết thưởng thức một tô bún riêu hay ổ bánh mì, hoặc thậm chí chỉ là một ly trà đá !

Mình cũng là dân mê thơ văn, âm nhạc. Nhưng thích đọc ai,  thì mình đi mua sách người ấy. Văn thơ ông nào hay, báo chí ông nào viết đúng, tranh hoạ ông nào đẹp, thì tự nhiên sẽ có nhiều người tìm mua, tìm đọc. Tồn tại. Ngược lại thì không ai mua ai đọc. Thoái trào. Đơn giản thế thôi, nguyên tắc kinh tế thị trường đơn giản là thế, cung cầu tự quyết định lấy. Xưa nay mỗi con người đều có sự cảm nhận và thưởng lãm khác nhau về cái hay cái dở, cái đẹp cái xấu. Đó là quyền cá nhân của họ, không ai có thể bắt họ phải đi theo một khuôn khổ khác. Không phải cứ thơ ông Tố Hữu thì phải học, thơ ông Hữu Thỉnh thì phải hay. Cho nên thử hỏi hôm nay có bao nhiêu người dân Việt ngoài kia biết đến thơ văn của các ông hội viên văn nghệ sĩ nhà nước. Đại đa số người dân là làm ăn vất vả, lo toan, không có thời gian nghỉ ngơi lo cho con cái, huống hồ chi biết đến tên tuổi của quý ngài. Đọc thơ văn của quý ngài lại là chuyện xa vời hơn nữa. Bởi vậy có vẻ vô lý khi lấy tiền thuế của người dân để nuôi các bác thi sĩ làm thơ mà chẳng bao giờ người dân được đọc, được nghe, hoặc cũng chẳng bao giờ muốn đọc, muốn nghe những bài thơ ấy.

Thực tế thì đâu phải bài thơ nào cũng có giá trị nghệ thuật, văn chương văn hóa, với người đọc người nghe hoặc với quê hương đất nước ? Đâu phải bài thơ nào cũng có giá trị chuyển tải những thông điệp hữu dụng cho đời sống và xã hội. Đâu phải bài thơ nào cũng mang giá trị nghệ thuật đúng nghĩa. Vì đâu phải ông “nhà thơ” nào cũng làm ra thơ hay. Nhiều bài thơ, bài văn, chữ nghĩa sáo ngữ cả gánh, mà ý tứ chưa được một bụm. Nhiều ông rãnh rỗi cứ ngồi lựa từ ngữ dao to búa lớn, rồi ghép lại thành vần, đọc hoài không hiểu muốn nói cái gì. Tất nhiên là đất nước VN bao giờ cũng có những nhà văn nghệ sĩ, thi sĩ nhạc sĩ tài hoa, năng lực thực sự & chân chính. Nhưng bên cạnh đó, thì cũng không hiếm những người cơ hội, hám đanh, cốt chỉ để hơn thua, đánh bóng, ca tụng vỗ về, trục lợi. Đôi lúc cũng đọc được nhiều vụ viết bài tự sướng hoặc nịnh nọt nhau, rồi tranh cãi vô bổ, hoặc cằn cựa nhau từng chữ từng lời, cuối cùng chỉ để phục vụ cho cái "tôi" to đùng. Bởi vậy, mình nghĩ chữ "Sông Núi trên vai" các nhà thơ nên trân trọng dành cho những người dân đen đóng thuế, những người công nhân, nông dân, lao động vất vả mỗi ngày. Những người lính hy sinh ngày đêm giữ gìn biển đảo lãnh thổ quê hương. Những đôi chân trần, những đóng góp thầm lặng, những đôi vai gầy guộc đáng thương, nhưng thực sự dám gánh vác đời sống của chính họ, của gia đình họ, và của quê hương đất nước họ !

Tất nhiên là vai trò của thơ ca trong thời chiến và thời bình có phần khác nhau, điều này thì ai cũng biết. Việc xử dụng thi ca trong các lãnh vực tuyên truyền & tuyên giáo cũng thế, thiết nghĩ cũng cần phải thay đổi để phù hợp với thời cuộc. Còn giá trị văn hoá thực sự của thi ca thì dĩ nhiên thời nào, chính thể nào, cũng vẫn tồn tại, vẫn là những món ăn tinh thần cho nhân loại, không thể thiếu. Trên thế giới biết bao nhiêu nhà thơ nổi tiếng ...Shakespeare, Emily Dickinson, Yeats, Rumi, Dante Alighieri, W. Whitman, Neruda, Wallace Stevens .v.v... có thấy ông nào lãnh lương hội văn nghệ chính phủ đâu. Sách họ vẫn còn bán dài dài cho tới bây giờ và cho tới mai sau. Thơ hay vẫn có người mua, người đọc, đời này qua đời khác. Có biết bao nhiêu quốc gia trên thế giới không trả lương cho nhà thơ nhà văn của họ, mà để cho văn nghệ tự sống, tự do phát triển. Rồi thì văn hoá của đất nước họ, trình độ thi ca của đất nước họ vẫn phát triển tốt cả đấy thôi.

Tóm lại, mình nghĩ một đất nước mà công bằng với người làm và người hưởng, tuân thủ nguyên tắc cung cầu, tôn trọng quyền hạn của người dân cũng như quyền lợi người đóng thuế, thì không phải chỉ trong lãnh vực thơ ca, mà nhiều lãnh vực khác, kể cả nền kinh tế nước nhà, chắc chắn sẽ phát phiển lành mạnh và phồn thịnh hơn.

Cũng mong các vị nhà thơ hãy “trả lại” núi sông cho quê hương, để đôi vai gầy của các vị nhẹ nhàng hơn, và thân tâm an lạc hơn. Ít ra nếu mai này có thêm ngày hội thơ nữa, thì cũng không cần phải nhờ bác gục gờ (google) dịch thành "MOUNTAINS AND RIVERS ON THE SHOULDER". 
Đơn giản hơn nhiều :-) !



Wednesday, February 06, 2019

Ly cafe đầu năm



Sáng mùng một, pha ly cafe, mở đĩa nhạc xuân, ngắm cành đào vừa nở thêm vài cụm hoa mới. Mùi hương trầm của đêm Giao thừa hình như vẫn còn lãng đãng quanh đây. Hôm nay trời hãy còn lạnh nhưng nắng đẹp, cảm giác như nắng xuân ở quê nhà, hây hây hanh vàng. Một năm cũ qua đi, một năm mới lại bắt đầu. Dẫu biết xuân hạ thu đông chỉ là quy luật thường tình của tạo hoá, có khởi đầu tất có kết thúc, có cái cũ tất có cái mới. Tết nhứt cũng là một chu kỳ tuần hoàn như bao chu kỳ tuần hoàn khác, một sự vận hành tất yếu của tự nhiên. Nhưng rồi năm nào cũng thế, Xuân đến thì ai cũng thấy lòng mình xôn xao, và cứ khan khác một điều gì. Ngày Tết có cái hồn đặc trưng của nó, khởi sự trong lòng của mỗi con người !

Tối qua Giao thừa xong, đi chùa về nhà đến hơn 2g sáng, nhưng vẫn không buồn ngủ. Nhiều bạn bè nhắn tin, gởi email chúc tết, ngồi đọc và gọi điện thoại đến gần sáng. Sáng mùng một ở Mỹ, thiên hạ vẫn đi học đi làm như thường lệ. Ngồi nhâm nhi ly cafe nghe nhạc, tự nhiên nghĩ đến bài thơ "Xuân Vãn" của ông vua Trần Nhân Tông, người được cho là vị Sơ Tổ sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, cũng là dòng Thiền duy nhất của người Việt Nam.

Xuân vãn,
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản, bồ đoàn khán trụy hồng.

Nôm na là Ngài nói về sự cảm nhận đối với cái Tết vào những thời điểm khác nhau. Thuở nhỏ còn bé chưa biết gì thì mỗi dịp xuân về thấy trong lòng náo nức rộn ràng như trăm hoa đua nở. Đến khi lớn lên hiểu thấu vấn đề, khám phá cốt lõi của sự việc, thì thấy muôn sự cũng bình thường thôi. Tuy bài thơ chỉ đơn giản vậy, nhưng lâu nay biết bao nhiêu người giảng giải phân trần, dịch nghĩa dịch ý, đôi khi làm phức tạp hơn, hết thiền  :-).
Mở ngoặc chút nói về chuyện dịch thơ xưa. Hồi nhỏ giờ mình cứ thắc mắc là tại sao có nhiều nhà dịch giả, văn thi sĩ, trí thức VN, lại thích cùng tham gia dịch thuật một bài thơ nổi tiếng nào đó, mặc dù ý tứ cũng chỉ na ná giống nhau. Từ những bài thơ Tàu như Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế, Lô Sơn của Tô Đông Pha, Tạp Thi của Vương Duy .... cho đến thơ Việt của thiền sư Mãn Giác, của vua Trần Nhân Tông ...v.v.. Như bài Xuân Vãn này cũng có rất nhiều người tham gia dịch thuật, không biết là đã có bao nhiêu bản dịch lâu nay rồi. Nội cái tựa không thôi cũng được dịch ra nhiều kiểu như Xuân Muộn, Cuối Xuân, Xuân Rãi, Xuân qua, Xuân tận ... Lâu lâu cứ tới tết là mình thấy thêm bản dịch mới, chữ nghĩa thì có khác chút đỉnh nhưng vẫn là ý đó. Nhiều lúc mình nghĩ nếu Phật Hoàng Trần Nhân Tông mà biết đời sau quá bận rộn, ti tiết, sợi tóc chẻ làm tám bài thơ của ông như vậy, chắc ông đã nói :

Thuở nhỏ chưa hiểu rõ sắc không,
Tết mới trăm hoa rộn trong lòng.
Nay đã hiểu rõ tính sắc không
Làm ơn đừng dịch nữa được không ?

Giỡn chút cho vui ngày Tết, chứ thực ra cuộc sống vốn đa dạng, con người càng đa dạng hơn, làm sao nói hết được. Cái hiểu biết của con người thì vô cùng, bất tận, như cái thang hình xoắn ốc cứ bắt lên trời mà đi, không biết đến đâu là tận cùng. Có khi cùng hoành độ nhưng khác tung độ. Có khi cùng một sự việc, nhưng sự nhận thức của ngày hôm nay lại khác xa rất nhiều so với ngày hôm qua. Còn cái "ngộ" thì cũng có "thực ngộ", "giả ngộ". Người “ngộ” thực sự lại chẳng thấy mình ngộ, mà cũng chẳng bao giờ đi khoe đã ngộ, vì thực ra cũng chẳng có cái gì gọi là “ngộ” :-). Còn ông "giả ngộ" lại nghĩ rằng mình đã ngộ, và “ngộ” để làm thơ, để tranh cãi, để làm pháp sư….Nên chuyện thế gian biết đâu mà lần. Cũng khổ. Như Tô Đông Pha thấy mình đã ngộ, nên khoe "Bát phong truy bất xuất", lại được nhà sư Phật Ấn điểm nhãn bằng "Nhất thí mã quá giang" :-).
Thời buổi này thì chùa chiền ngày càng nhiều, sư sãi tăng ni cũng nhiều. Trong nước nhiều đền chùa, mà ở hải ngoại cũng không hiếm. Tín ngưỡng cũng nhiều mà mê tín cũng nhiều. Xưa nay người theo đạo Phật, rất kính trọng Tăng Ni (một trong 3 ngôi Tam bảo). Nhưng cũng nên lưu ý vì chưa hẳn cứ ông nào xuống tóc là nhất thiết ông ấy có nguyện vọng tu tập một cách đúng nghĩa. Thời buổi vàng thau lẫn lộn, thật giả chồng chất lên nhau, nên không phải ông “sư phụ “ nào cũng đúng, cũng thông thái, cũng hiểu biết thấu đáo vấn đề hướng dẫn giúp đỡ người đời tu tập đúng cách. Đặc biệt là mấy ông quốc doanh, còn kinh tế, chính trị chính em trong đó, nên người tu học phải cẩn thận và tỉnh táo tự học cách để phân biệt được đúng sai. Mà đạo nào rồi cũng sẽ gặp những khó khăn như vậy thôi, chỉ là ít hay nhiều. Cho nên nhiều người cho rằng thời này đến chùa, đến nhà thờ, mà phân biệt được đâu là cái áo cà sa, đâu là ông thầy, đâu là đạo pháp; cũng như đâu là cái thánh giá, đâu là ông cha, đâu là lời Chúa … thì là giỏi rồi :-).

Nhớ trong đạo Phật có câu chuyện vui, một cậu bé đi hỏi ông thầy tu được cho là đã "đắc đạo" :

- Hồi xưa thầy chưa đắc đạo, thầy làm gì ?
- Chặt củi, gánh nước, nấu cơm .
- Thế đắc đạo xong, thầy làm gì ?
- Chặt củi, gánh nước, nấu cơm
- Vậy thì đâu có gì khác ?
- Khác là hồi xưa lúc chặt củi, nghĩ chuyện gánh nước, lúc gánh nước nghĩ chuyện nấu cơm. Bây giờ thì làm việc gì nghĩ việc đó thôi !

Đúng vậy. Thực ra nếu đơn giản được như thế thì đã bớt khổ não phiền muộn rồi. Lâu nay biết bao nhiêu kinh sách thiền học, triết gia, tu sĩ, nói về đề tài "sống trong hiện tại". Thầy NH cũng đã chia xẻ rất nhiều về phương pháp hành thiền "Hãy an trú trong hiện tại" ở nhiều nơi trên thế giới. Nhưng cuộc sống này vốn không đơn giản vậy. Nhiều người hiểu rõ lý thuyết, đạo lý, kinh điển, nhưng rồi cả đời vẫn mãi loay hoay không thực hành được cái buông bỏ, đơn giản cho chính mình. Đời sống vốn có quá nhiều thứ phức tạp, dao to búa lớn. Từ con ngưòi đến xã hội, từ tôn giáo đến chủ thuyết, từ bằng cấp cho đến danh xưng, từ địa vị cho đến quyền bính, từ đoàn thể cho đến đảng phái, từ cá nhân cho đến chế độ, từ lý thuyết cho đến chủ nghĩa, từ lạc hậu cho đến ưu việt, từ ăn lông ở lổ cho đến công nghệ 4, 5 chấm ..v.v.  Cho nên không phải chỉ có tôn giáo, mà còn nhiều vấn đề khác trong đời sống, muốn đơn giản cũng chưa chắc được. Lòng người ngổn ngang ham muốn. Có lúc thiên hạ bắt cái đơn giản phải phức tạp theo họ, mới xứng tầm, mới đủ chất , mới thức thời, mới kịp trào lưu :-). Như mình đi cả nửa đời người rồi mà vẫn còn thấy ba lô sau lưng nặng trĩu. Tết ngồi mơ mộng chút, rồi ngày mai lại phải bận rộn theo nghiệp áo cơm !

Một nhà thông thái khác lên tận non cao để chứng minh cái bản lĩnh của mình, vì nghe ông Thầy nổi tiếng "cao tăng". Tay cầm con sâu đố ông Thầy :

- Thầy giỏi vậy, là cao tăng, vậy biết con sâu trong tay tôi là sống hay chết ?"
- Dạ, là con sâu chết !

Nhà thông thái cười ngạo nghễ, mở tay ra, chỉ con sâu còn sống mà nói :

- Vậy mà Thầy cũng đưọc gọi là cao tăng sao ? Thầy nói sai rồi, con sâu này còn sống.

Nói rồi, vứt con sâu ra bụi cây, hí hửng đi xuống núi. Vừa đi vừa dương dưong tự đắc nghĩ rằng ta tài giỏi, ta đã "thắng" được ông thầy đó. Tính ra tài cán của Thầy "cao tăng" cũng chỉ đến thế là cùng, còn bị thua mưu trí của ta.

Và cuộc sống này vốn không hiếm những người tư duy “tài ba” như nhà thông thái đó. Họ vẫn say men chiến thắng, vẫn đề cao cái ngã tối thượng của mình. Đến một lúc nào đó, nếu có duyên, nhà thông thái kia sẽ hiểu ra được tại sao nhà sư nói sai. (Trong điển tích này nhà thông thái được cha của ông chỉ điểm mới hiểu ra vấn đề). Còn nếu không gặp duyên, thì có khi cả đời ông ta vẫn nghĩ rằng mình đã mưu trí thắng được ông sư kia. Và sẽ có nhiều phiên bản (version) của câu chuyện tài giỏi “thắng cả cao tăng”  rêu rao đồn đãi trong thiên hạ. Đúng sai ai biết, mà sướng khổ ai lường ? Nhưng âu đó cũng là những duyên nghiệp bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Theo cách hiểu của nhà Phật, càng ít những chuyện hơn thua thị phi như vậy càng tốt, lòng người sẽ thanh thản hơn và cuộc sống sẽ an vui hơn. 

Ngày đầu Xuân, những người xa quê, thường nghĩ đến gia đình, anh em bạn bè, và quê hương. Nhìn lại quê mình, một đất nước có quá nhiều thiệt thòi, nội chiến, ngoại xâm, chiến tranh dai dẳng hết thời kỳ này đến thời kỳ khác. Về mặt con người, so với những quốc gia khác trong khu vực thì VN đã mất mát và đau thương quá nhiều. Những cuộc chiến huynh đệ tương tàn cứ xảy ra, mâu thuẩn triền miên, bằng mặt nhưng không bằng lòng. Nồi da xáo thịt, kéo dài hết triều đại này đến vương triều khác. Còn thắng thua chỗ nào ? Được mất ra sao? Dĩ nhiên là sự nhận thức của mỗi con người khác nhau. Cái nhìn về thời cuộc cũng luôn thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng hiểu biết của từng người. Người ngoài cuộc hiểu khác người trong cuộc, người thắng cuộc nghĩ khác người thua cuộc, đó là những chuyện thường tình. Có thể là thắng đối với góc nhìn này, nhưng lại là thua ở một góc nhìn khác. Mà cũng chưa chắc là thắng thua, hoặc chỉ là nạn nhân của những tham vọng, sai lầm, hoặc toan tính của các thế lực chính trị nào đó ? Có nhiều câu hỏi mình tin rằng sẽ lần hồi được sáng tỏ theo thời gian, nhưng cũng có những thắc mắc sẽ không bao giờ có lời giải đáp trắng đen rõ rệt. Tất nhiên là mỗi người có cách nghĩ và nhận thức riêng của mình. Câu hỏi quan trọng nhất sau mỗi cuộc chiến vẫn là “đất nước và dân tộc sẽ đi về đâu ?”. Quốc gia có được hưng thịnh hơn và người dân có được tự do hạnh phúc hơn không? 
Thực ra, cho đến thời điểm này, thì VN cũng là một trong vài nước ít ỏi còn lại trên thế giới, vẫn kiên trì đi theo chủ nghĩa Mác Lê. Đó cũng là điểm đặc biệt khác người. Bám trụ bền vững. Trong khi đó những đất nước từng là trụ cột của quốc tế CS như nước Đức của Mác, nước Nga của Lê Nin, cũng đã rời bỏ và thay đổi thể chế chính trị gần 30 năm qua.

Thôi ngừng ở đây, buổi sáng đầu năm bao giờ cũng an bình và lắng đọng. Uống ly cafe, nghĩ đến câu chuyện chặt củi, gánh nước, nấu cơm, sống trong hiện tại. Ngắm cành hoa đào, nhớ chuyện tự thắng thua của nhà thông thái và con sâu. Nghe bài nhạc Xuân nghĩ đến bài thơ cũ gần ngàn năm tuổi, mỗi dịp xuân về vẫn còn là đề tài thi thố của bao văn hào, tri thức, tài tử, thi nhân .....
Năm mới cầu chúc cho quê hương an lành, cho tất cả bằng hữu, anh em cùng gia đình thân tâm an lạc. Hy vọng mùa Xuân mới sẽ đem lại duyên lành và những niềm vui mới cho mọi người !



Friday, February 01, 2019

Tản mạn chiều cuối năm



Hôm qua, nhiều tiểu bang miền trung nước Mỹ đã phải vất vả đối chọi với một cơn lạnh kỷ lục, mấy chục độ âm. Nhiều thành phố, chính phủ và cơ quan thiện nguyện tìm cách giúp đỡ những người vô gia cư và những gia đình khốn khó có nơi tạm trú ấm áp hơn. Một người vô danh tại Chicago đã thanh toán tiền khách sạn dùm cho 70 người vô gia cư trong nhiều ngày. Không ai biết thông tin gì về con người ấy. Nhiều người thắc mắc họ là ai. Đó là những tấm lòng vàng vô danh trong cuộc sống đời thường. Và câu chuyện đấy cũng không phải là một chuyện hiếm hoi trên đất nước này, hàng ngày vẫn có nhiều đóng góp thầm lặng khác, chẳng cần phải tên tuổi hay sự hồi đáp gì cả, mà chỉ mong cho xã hội ngày mỗi tốt đẹp hơn .....

Trong khi đó, nửa vòng trái đất bên kia, trời vào xuân, không khí ngọt ngào ấm áp. VN chuẩn bị đón Tết dân tộc. Sân bay, ga tàu, phố xá tấp nập, kẹt cứng. Người vui kẻ buồn. Người mong mỏi chờ đợi, kẻ đôn đáo lo toan. Nụ cười hớn hở của người Việt Kiều bước xuống sân bay, và giọt nước mắt của người con gái co ro trong gác trọ không tiền về quê đón tết, có cái chung mà cũng có cái riêng. Đó là những mùa xuân khác nhau trong cuộc sống đời thường !

Đã qua đã tới đã về
Tết từ bao bận tết đề huề đi
Đi về đi ở đi đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về
(Bùi Giáng)

Ừ, lâu nay chuyện đi, về, tưởng chừng như rất ư là đơn giản trong thời đại này, nhưng thực ra không phải như thế. Thời sinh viên, mình đã từng ở lại ký túc xá cho đến chiều 30 cùng với những người bạn không về quê được. Cũng mới mấy năm trước đây, tối 30 Tết, mình có dịp gặp gỡ với nhiều người ở trọ khu bờ kè Kỳ Đồng, tha phương không về quê được. Hai thời điểm cách xa nhau, nhưng nỗi buồn giống nhau, cũng nhớ, cũng thương, cũng mong, cũng chếch choáng để quên đi một cái tết không vui ...

Còi khuya vọng mãi tiếng ngân
Lao đao núi thẳm cây gần tương tư
Tha phương đã réo mong chờ
Con tàu luân lạc đêm mờ còn say
Rượu ngon chở mấy toa đầy
Bánh xe muôn dặm còn ngây hương rừng
Giữa đêm cây núi chập chùng
Non sông chếnh choáng biết dừng nơi nao!
(Vũ Hoàng Chương)

Chiều cuối năm, về lại Kỳ Đồng, về lại Dòng Chúa Cứu Thế ... chỉ đơn giản là để nhớ đến một người bạn cũ đã mất. Chiều 30 cuối cùng trước khi rời VN, mình và hắn xin người chủ quán cho ngồi vỉa hè uống rượu đến tận Giao Thừa. Vẫn như cũ, hắn đọc thơ Nguyễn Bính, Quang Dũng cho mình nghe. Vẫn như cũ, hai đứa say sưa nói về Eric M. Remarque, về Chiến Hữu (Three Comrades), về Tình yêu & Vực Thẳm (Arc de Triomphe), về những ly rượu Calvados "huyền thoại", để rồi cả đêm nốc cạn từng ly đế Gò đen đợi chờ tết đến !
Ngày đó mỗi lúc lang thang, mình lại nghĩ đến Vũ Hữu Định. Thích thơ ông hơn, có lẽ tìm thấy ở đó môt sự đồng cảm. Nhớ hoài bài thơ ông viết cho bạn ngày tết:
.....
Duận ơi ! cuộc sống có bao giờ dễ nhớ
Ai có bạc chi mình cứ níu xóm làng
Tau vẫn nhớ hoài năm tháng lang thang
Mầy cứ nhắc làng quê Nam Phổ Hạ

Năm năm rồi tau giậm chân tại chỗ
Cũng thèm đi nhưng đi để mà về
Ta đã từng lang bạt
Nên hiểu hồn quê
Ôi cái hồn quê ngày tết
Nó cứ dật dờ hành mình dở chết
Ăn không ngon mà ngủ cũng không ngon
Trong thơ mầy khao khát quê hương
Hoà bình lại xa mất Huế

Thôi thì ở đâu cũng vậy
Con chim còn biết tập quen với lồng
Con cá còn tập quen với chậu
Con người cũng phải tập long đong ...
(Vũ Hữu Định)

Chạnh lòng ! Chạnh lòng mỗi khi xuân về. Chạnh lòng nghĩ đến bao nhiêu người đang có một mùa xuân khác. Thời đó có những người tự nguyện bỏ xứ ra đi để tìm đất sống, nhưng cũng có người bị bắt buộc phải rời khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Mỗi độ xuân về, đau đáu những nỗi lòng bên kia bờ đại dương mờ mịt, những ánh mắt thiết tha mong đợi từ những vùng kinh tế mới xa xăm, những ly rượu đắng nghét từ gánh hàng rong vất vả tha phương cầu thực, những cái nhìn u uẩn tuyệt vọng từ trại tù tận vùng biên giới heo hút buốt giá, những tờ thư mỏi mòn của người bộ đội biển đảo hay từ nước bạn xa xăm...v.v...đều có chung một nỗi lòng trắc ẩn. Trong đó có cả những ước mơ đơn giản nhỏ nhoi của những đứa trẻ học sinh nghèo lên thành phố học, những thanh niên mới lớn lên tận rừng thiêng nước độc "nghĩa vụ lao động", xẻ rừng đốn gỗ, xây dựng quê hương. Nhưng không phải chỉ có lời nhắn nhủ, hoặc nỗi lòng thổn thức của những đứa con "Xuân này con không về", mà còn rất nhiều giọt nước mắt của những người cha người mẹ khóc con. Những đứa con không bao giờ trở lại, những người vợ mất chồng, nhưng đứa trẻ mất cha. Có đứa vĩnh viễn nằm lại dưới đáy đại dương, có đứa mất tích trong rừng sâu thẳm, có đứa chết trong trại tù, có đứa ngã xuống ở Gạc Ma, có đứa nằm lại ở Tây Bắc, và có cả những đứa bỏ xác trên xứ người vì "nghĩa vụ quốc tế"... Có những người cha khắc khoải mong ngóng tin con, có những người vợ ngày đêm dõi mắt đợi chồng. Có những nhu cầu tưởng chừng vô cùng đơn giản như manh áo mới ngày xuân, nồi thịt kho, chén cơm không độn khoai ... lại trở thành ước mơ vời vợi. Nhưng đó cũng là mùa Xuân, những mùa Xuân khác !

Ngày mai lại tiết Xuân
Từ đầu rừng cuối biển
Qua trùng dương mấy bận
Chúng ta dù cách biệt
Cùng chung một mùa Xuân
Cùng chung một thế kỷ
Cùng đau khổ vô ngần ...
(Quang Dũng)



Và ngày đó qua rồi. Hôm nay đất nước đã đổi thay. Mùa xuân cũng khác đi, đầy đủ hơn, vui nhộn hơn, dĩ nhiên cũng ít nhọc nhằn hơn. Nhưng bao giờ cũng thế, xã hội luôn có quy luật hai mặt của nó. Mặt trái hôm nay cũng đa dạng hơn, nạn tham nhũng nhiều hơn, phạm pháp bắt bớ nhiều hơn, lạm dụng chức quyền nhiều hơn, đạo đức xã hội tha hoá hơn, con người chạy theo vật chất, vô cảm hơn. Khoảng cách tầng lớp xã hội ngày nay cũng cách xa hơn. Người giàu không hiếm, nhưng những người nghèo khốn khổ trong xã hội cũng nhiều. Người ta có cảm giác đất nước giàu có hơn, nhưng chính vì điều đó càng làm cho những người nghèo, buôn thúng bán bưng, công nhân, nông dân, phải vất vả hơn nhiều để tồn tại trong một xã hội có khoảng cách vật chất quá cách biệt.
Nhiều lần được gặp gỡ chuyện trò cùng một số người VN, du học sinh cũng có, VK cũng có, trong nước cũng có. Ai cũng nói có nghe, có đọc về những người dân khốn khổ ở quê nhà, nhưng thực ra ít có người tận mắt tiếp xúc và thấy được nỗi khổ sở lo toan của họ trong mỗi dịp xuân về !

Rồi tôi lớn đi vào đời chân bước
Cỏ mùa Xuân bị dẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu, xưa chính ở chỗ này.
(Bùi Giáng)

Hôm nay, chiều cuối năm. Lại một mùa xuân sắp đến. Nghe nói sân bay TSN năm nay đông nghẹt người về, nhiều nhất lâu nay. Kiều hối gởi về quê hương lên đến mức 16 tỉ Mỹ kim. Tự nhiên nghĩ đến những mùa Xuân khác mà mình đã trãi qua. Nhớ người bạn cũ, nhớ những câu thơ xưa đã một thời ám ảnh .....

Em trải áo trên hoa rừng man dại
Ðể hoa rừng nước cuộn biết yêu nhau
Nhưng nước cuộn xóa đời ta trên bãi
Ðể hoa rừng phong nhụy với ngàn lau.
(Tuệ Sỹ)

Không biết ngày mai trời có trong
Đường xa xa nắng có mông mênh
Đêm đêm mơ thấy làm khăn gói
Để sớm mai rồi vẫn quẩn quanh
(Quang Dũng)

Mấy hôm nay, mình được tặng mấy đòn bánh tét bánh chưng, đã ăn tết sớm rồi :-). Có người hỏi mình xuân về mong gì. Chỉ cầu mong một đất nước an lành hơn, cơ chế xã hội văn minh dân chủ hơn, con người tôn trọng nhau hơn. Những thứ cần thay đổi sẽ thay đổi, những người tham lam ít tham lam hơn, những người tham nhũng biết nghĩ cho người khác hơn, và quan trọng nhất là những người hữu trách biết nghĩ cho đại cuộc hơn. Bên cạnh đó cũng mong ước những người có mùa Xuân an vui hạnh phúc nên dành chút thời gian nghĩ về những con người ngoài kia đang có một mùa Xuân khác không may mắn, để cùng sống với nhau tử tế hơn !

Một thời mây biếc đã trôi qua ,
Nay tưởng cây vàng lại nở hoa .
Em chẳng mơ gì, tôi chẳng nói ,
Đôi hồn không biết có nhìn xa ?
(Đinh Hùng)

PN
Chiều 27 Tết 




Friday, January 11, 2019

Phiếm: Dân dã mà ngon ....



Bữa nay nói chuyện ăn uống chút. Hôm đầu năm rồi, ghé nhà bà chị đồng hương ở Florida. Ngồi ăn cơm mà cứ nghĩ như là đang ở VN, toàn món quê nhà. Nước mắm ớt tỏi thì chơi toàn tỏi Lý Sơn, tỏi một. Gà thì gà thả vườn đem vô luộc, rau thơm ra vườn hái, rau tiến vua thì đem thẳng từ VN qua. Bánh tráng thì chơi đúng hàng bánh tráng QN, do chính chủ con cá bống sông Trà mua. Còn dưa cải muối thì y chang trong cái lu, rau tự trồng. Khuyến mãi thêm dĩa gỏi thanh trà (bưởi), mấy trái vả .... :-) . Đúng là đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt !

Hồi mình ở bên châu Âu, thường về Metz (một thành phố cổ của Pháp gần Luxembourg - Lục xâm bảo) ăn cơm Việt, cháo vịt ... Có quen mấy gia đình qua đó từ 75, mà tới giờ vẫn chơi toàn món Việt thuần túy canh chua cá kho, thịt kho tàu dưa giá, cháo vịt mắm gừng thì đúng điệu con cào cào. Nhưng bên Mỹ thì còn dữ dằn hơn nữa, nhiều người VN qua đây ba bốn chục năm vẫn chưa quen món tây, cứ món quê hương mà mần, đem theo cả cái bếp Việt hồn Việt đi tận chân trời góc bể. Cái gì có thể hội nhập được, nhưng hủ mắm tô phở, canh chua cá kho thì chắc là còn lâu. Nhiều khi kho mắm kho cá thơm lừng cả xóm. Nhiều vị đi làm, đem theo mắm, dưa chua, cá kho .. vô cafeteria của hãng, bắt "đế quốc" phải chịu đựng cho biết mùi. Cũng có thể nhờ "bất khuất" vậy mà khó mất gốc, Tàu cũng không đô hộ được, ngược lại còn có thể "đánh thắng 2 đế quốc" nữa :-).

Có năm nào đó, lâu lắm rồi, thấy ông nhạc sĩ/hoạ sĩ TC viết bài "Bếp Việt trên đất Mỹ" trên báo SGTT, đa phần nói về xứ California. Ngồi uống cafe, mình thắc mắc hỏi "anh có đi Vẹc-xây New Orleans" chưa ? Ổng nói - Chưa. Thực ra thì bếp nào cũng là bếp, nhưng mỗi nơi có cái tuyệt vời khác nhau. Đã lâu rồi, mình chưa trở lại New Orleans. Thời đó trẻ trâu, thường đi lễ hội Mardi Gras dưới New Orleans. Lúc nào cũng ghé làng Vẹc xây thăm ... quê hương. Đầu làng, quán cafe thì đã có cải lương, bolero rỉ rích rồi. Dọc đường cũng có chợ chồm hổm ngoài trời, còn đồ ăn thì thôi khỏi nói, món gì chả có. Rau đay, bạc hà, mồng tơi, rau muống, khổ qua ... tươi rói. Cá thịt cũng vậy, bê thui, dồi lòng, tiết canh, phèo phổi, nghêu sò, ốc, hến.... toàn đặc sản tươi sống, đủ hết. Có mấy gia đình quen gốc từ Phước Tỉnh, Hải Sơn qua, kho cá om riềng, canh cua rau đay ... thuộc loại nhất nhì thế giới, giờ nói còn thèm. Nhậu thì thôi, mát trời ông địa, bia đa phần chỉ bán két 24 lon. Nhớ có ghé nhà thờ chơi, gặp ông cha xứ kể, nội tiền bán lon bia recycle hàng năm của giáo dân thôi cũng không phải dạng vừa. Tối thì sòng bài xóc dĩa vui chơi từng bừng, có bảo vệ đứng gác hẳn hoi. Khuya có mướn cả "nhân dân tự vệ" canh chừng làng xóm :-) . Nghe như đùa mà có thật. Nhớ có lần uống cafe nghe bolero phê quá, ngồi lâu đi ra, kính xe bị đập mất hết đồ trong xe, gọi cảnh sát vô lập biên bản. Cảnh sát nói - chuyện này gặp hoài !
Thời đó, đầu thập niên 90, người Việt còn ít, mà Vẹc xây đã hào hùng như vậy, không biết bây giờ ra sao ? Cũng có thể bây giờ lại phát triển hơn, không còn được "quê hương" như trước nữa. Định hôm nào bay xuống lại một chuyến ăn cháo lòng tiết canh, khỏi về VN cho xa. Nhưng ngoài đặc sản là làng VN chính hiệu Vẹc xây, thì ở New Orleans cũng là nơi sinh sản ra nhạc Jazz và có cafe Du Monde & bánh tiêu Pháp nổi tiếng nghen, đặc biệt nữa là Mardi Gras và Crawfish nữa. Nghe nói từ sau cơn bão kỷ lục Katrina thiệt hại nặng nề, ngành nghề đánh bắt hải sản cũng không còn thịnh như xưa, bà con VN ở Louisiana cũng dọn đi nhiều, về các vùng lân cận như Houston TX, nên có lẽ bây giờ cũng vắng.

Ngày nay thì người VN trên thế giới quá nhiều. Âu, Á, Úc, Mỹ .... gì cũng có, kể cả châu Phi. Quán ăn siêu thị cũng đầy, mắm gạo, bún phở, sơn hào hải vị, loại gì cũng có. Bên Mỹ thì mấy vùng người VN đông như Nam Cali, San Jose, Houston, Dallas, Atlanta, Arlington D.C ... đầy rẫy món quốc hồn quốc túy. Nhớ lại mấy năm đầu về thăm nhà, Má mình cứ cho ăn rau muống, ăn cua ghẹ. Hỏi sao vậy, Má mình nói có mấy người Việt kiều trong xóm về đây thích ăn cua ghẹ đồ biển, và nói bên Mỹ rau muống qúy hơn vàng. Mình không giải thích được, nên thường nói đùa "Tại họ về VN chỉ uống nước suối thôi, còn con uống rượu gạo mà". Sau này Ba Má mình qua Mỹ rồi về lại, biết, không cho mình ăn mấy món đó nữa. Nói đơn giản là nước Mỹ rộng lớn, chắc cũng tùy vùng miền thôi, chứ cũng có nơi rau muống, khổ qua, bí bầu ... nhiều quá, phải cho bớt bạn bè, nhà chùa nhà thờ, để khỏi hư. Cua ghẹ thì mua ăn từng bushel (thùng cỡ hơn 100 con). Nói chung, đồ biển bên Mỹ đa phần là rẻ hơn bên VN, lại an toàn hơn. Tuy nhiên có những món không giống, không hợp gu, không hợp khẩu vị, nên với người Việt là không đâu ngon bằng quê nhà. Đại loại là tâm lý "Nắng nơi đây cũng là nắng ấm . Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương" :-).

Nhưng phải nói cho dù trời tây có đầy đủ sơn hào hải vị gì, món ngon vật lạ gì, thì vẫn thiếu những món dân dã quê nhà. Mà mình thì thuộc hàng dân giả, ghiền món dân dã, nên mỗi lần về VN là cứ tìm món dân dã mà ăn cùng dân giả :-). Còn ra nước ngoài, lâu lâu gặp đồng hương VN rủ ăn mấy món nhà quê là nhất định không từ chối. Từ lẩu mắm, bún nước lèo, mắm lóc, cơm cháy khô cá dứa, tiến vua điên điển đông lạnh .... cho đến cá nục hấp cuốn bánh tráng, rau lang luộc bông bí chấm mắm cá cơm, cá trê nướng mắm gừng, canh cau rau đay, cà pháo mắm tôm, giả cầy, ăn hết. Mà đừng nghĩ món dân dã là lúc nào cũng dễ làm nghen. Nhiều ông VN ta cũng cầu kỳ lắm. Nhớ có ông anh quen, nhà thơ nổi tiếng, lần nào ghé chỗ mình bên SG uống rượu, cũng đòi cho được món dân dã cà pháo, rồi cắt đôi ra, tỉ mỉ lấy hết hột, rồi mới ngồi nhâm nhi với rượu vang. Đúng là đông tây trùng phùng. Còn mấy ông quê mình, dân dã món cá kè nướng thôi, cũng lựa cho được con bụng bự, mùa ruốt, nướng xong ăn cái bao tử đầy ruốt, giống như trảm mã xà bên Tàu. Miền Tây cũng vậy, nội cái bộ lòng cá lóc, chùm trứng rùa thôi.... muốn làm cho ngon là cũng phải có số má, chứ lơ tơ mơ là làm không xong đấy. Còn lên vùng Tây Bắc, nhìn họ làm heo cặp nách, dồi lòng, rựa mận giả cầy thì mới thấy công phu. Mà ăn uống thì thực ra chỉ là theo khẩu vị và thói quen vùng miền, không có gì là đúng sai, chỉ là sự quen thuộc. Một số người vùng này chê thức ăn vùng khác, cũng có thể là ít đi đây đó, chưa quen thôi. Mấy món dân dã lúc nào cũng ngon !

Cho nên về quê, mà cho mình chọn lựa thì chỉ cần một vài con cá rô đồng nướng than, dĩa rau luộc, dĩa gỏi mít gỏi măng, chén mắm ớt tỏi .... là hạnh phúc ngất trời rồi. Nhiều lần cùng bạn bè anh em, khách hàng, đối tác, đi nhà hàng xôm tụ ra về, mình lại lẳng lặng tìm chỗ làm tô bún mắm, tô don, gặm ổ bánh mì, dĩa khô mực cá thiều, dĩa gỏi vịt đầu cánh, hay con cá chuồn ướp nghệ nướng, với vài chai bia, về ngủ mới được. Cứ dân dã vậy mà ngon !


Tuesday, January 08, 2019

Tản mạn - Thân phận & tự hào dân tộc !





Hắn lớn lên giữa thời đất nước chiến tranh ly loạn. Một cuộc nội chiến đầy rẫy bi kịch và mâu thuẩn trong từng mỗi gia đình. Những ngộ nhận về ý thức hệ, và kết quả của sự lệ thuộc dẫn dắt bởi chính trường thế giới, đã gây ra bao nhiêu hệ lụy đau thương tàn khốc. Làm cho cả thế giới, qua nhiều thế hệ, không ít người phải trăn trở, ngậm ngùi về cái giá quá đắt cho thân phận của một dân tộc.

Tuy nhiên, tuổi thơ của hắn vẫn hồn nhiên và luôn ngập tràn những câu chuyện, ca dao, bài hát về tình yêu thương đất nước và dân tộc. Những bài học ở trường, gia đình, sách báo, phim ảnh, hình ảnh, xã hội, luôn giáo dục đề cao ý thức tổ quốc học đường, học để phụng sự đất nước và xã hội. Sống với lý tưởng, ước mơ, và niềm tự hào về quê hương của mình.

Từ cái huy hiệu học đường trên vai, từ bài học thuộc lòng trong sách giáo khoa, từ bài hành khúc của trường lớp, cho đến những điển tích lịch sử hào hùng, những câu chuyện công dân đức dục được nghe hàng ngày. Đâu đâu cũng thấp thoáng cái hào khí dân tộc, cái lý tưởng chính nghĩa, và niềm tự hào về đất nước & con người VN.

Trong tâm trí hắn, cho đến nay vẫn còn như in những câu chuyện trong thằng Bờm của Nguyễn Vỹ ... Triệu Quang Bình, Trần Quốc Toản, Phù Đổng Thiên Vương, Đinh Bộ Lĩnh, Yết Kiêu Dã Tượng ... Rồi những trang lịch sử kiêu hùng về Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Quang Trung, Bà Trưng Bà Triệu, Lý Bôn Lý Bí ... cho đến những câu truyện tuổi thơ đầy mộng ước của Duyên Anh, những mẫu chuyện "Tâm hồn cao thượng" của Edmond De Amicis (Hà Mai Anh dịch) ... v.v.. cứ như kim chỉ nam đi theo suốt cuộc hành trình.

Tuổi thơ và hắn lớn lên như thế. Cho dù quê hương chiến tranh tàn phá nặng nề, cho dù hoả châu đạn pháo mỗi ngày, cho dù bữa đói bữa no, cho dù xác chết ngổn ngang, nhưng những đứa trẻ vẫn lớn lên mạnh mẽ với đầy ắp niềm tự hào dân tộc của quê hương mình !

Rồi hắn cũng đã trưởng thành như bao đứa trẻ khác. Hắn cũng tận mắt được nhìn thấy đất nước thôi chinh chiến. Được nhìn thấy thế hệ cha anh ở hai miền đất nước trở về từ chiến tranh. Đựơc nhìn thấy những thay đổi của đất nước, như lời ông Võ Văn Kiệt nói “có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Nhưng bên cạnh những hân hoan, mừng vui đất nước thống nhất, cũng là những thù hận ly tán, lý lịch giai cấp, những chia rẽ thời hậu chiến, cải tạo, kinh tế mới, những tha phương cầu thực để mưu cầu chén cơm manh áo ...v.v. Có người đã cố gắng ở lại bám trụ ruộng vườn, có người đành phải bỏ xứ ra đi. Những gánh hàng rong, những chiếc xe đạp cọc cạch, những bọc đậu phụng luộc, những cái bánh tráng nướng, những tô hủ tíu gõ.... ngày đêm đã đè nặng lên thân phận con người. Và những thứ như lý tưởng quốc gia, tự hào dân tộc, dường như đã dần trở thành xa lạ. Có khi những câu chuyện cao cả, sâu sắc lại trở thành món hàng xa xí phẩm giữa một xã hội hơn thua nhau từng chiếc xe đạp, từng cái đài, cái tủ lạnh, con búp bê, từng đôi dép sa-pô, chiếc áo xẹc lào, điếu thuốc đầu lọc ... và nhiều thứ tầm thường khác, hoặc những thứ hư danh không thuộc về mình.

Hụt hẫng. Hắn hụt hẫng, và bao nhiêu người cũng đã hụt hẫng. Những cố gắng của "Em ra nông trường, em ra biên giới", "Cuộc đời vẫn đẹp sao", "Người đi xây hồ kẻ gỗ", "Đi qua vùng cỏ non" ... đã giúp quên đi những cơn đói cấu cào của một thời lý tưởng, nhưng không đủ để nuôi dưỡng những nghiệt ngã thực tế của cuộc sống mỗi ngày, những đói nghèo của Mẹ già, em thơ ở quê nhà ... Nên bạn bè hắn lại ra đi, đi tìm cho mình một lẽ sống. Phải đi, dẫu tận cùng không ai muốn rời xa nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đứa đi nghĩa vụ, đứa đi thanh niên xung phong, đứa bỏ xứ tha phương lập nghiệp, đứa đi xuất khẩu lao động, đứa trốn đi lao công phục dịch tận chân trời góc biển nào đó, đứa đi vượt biên tìm tự do, để rồi vĩnh viễn nằm lại giữa đại ngàn rừng xanh hay đại dương sâu thẳm ....

Rồi bao nhiêu năm tháng trôi qua, thế giới đổi thay nhiều. Quê hắn không còn đói nữa, ai cũng có đôi dép, cái quần cái áo lành lặn. Vui ! Hắn rất vui, rất mừng cho quê hương mình. Mỗi lần về quê, hắn đi thật chậm trên từng nẻo đường quê hương, la cà từng góc phố quán đêm ở quê nhà, để cảm nhận từng nỗi vui của bạn bè, của anh em, đã không còn đói bụng hằng đêm, nợ nần, quần rách áo vá. Nhưng rồi hắn cũng đã sớm nhận ra những sự khác biệt rất lớn của hôm nay và ngày xưa về lý tưởng sống, về khái niệm hơn thua giàu nghèo, về giá trị con người & đạo đức, đặc biệt là niềm tự hào dân tộc.

Dân tộc hắn ngày nay có mặt gần như khắp nơi trên thế giới. Tiếng thơm cũng không hiếm, mà tiếng xấu cũng không thừa. Thành công hiển hách cũng có, mà trộm cắp, đĩ điếm, buôn lậu, bắn giết, bắt cóc... cũng có. Tha phương cầu thực, đồng hương đùm bọc nhau giúp đỡ nhau để sống cũng có, mà rình rập, chụp mũ, bôi xấu, kiếm chác nhau.. cũng có. Đủ thứ. Từ người lao động, vượt biên, di trú chính thức cho đến không chính thức, làm chui ở lậu. Từ quan chức ngoại giao cho đến dân thường, du học sinh... Từ châu Phi, châu Á, Châu Mỹ, Châu Âu, châu Úc, Trung Đông, Bắc Á cho đến những nước láng giềng Lào, Thái, Sing, Mã, Hàn, Đài, Tàu ... Đi đâu cũng nghe những câu chuyện ấn tượng về đồng bào của hắn. Thậm chí, ở một số nước họ phải khuyến cáo, canh chừng tội phạm đến từ VN. Thân phận của một dân tộc lưu lạc trôi nổi, thân phận của một tờ passport từ đất nước "anh hùng thắng 2 đế quốc" & có dân số đứng hàng thứ 15 trên thế giới.

Trong khi đó, ngay chính trên quê hương của hắn, hàng ngày vẫn không hiếm những câu ca bài hát, bản tin, hình ảnh mang đậm tính "tự hào dân tộc". Một trận bóng đá khu vực chiến thắng, một cây bánh tét lớn nhất, một cái tượng đài to nhất, một sợi cáp treo dài nhất, một toà tháp cao nhất, một đất nước đáng sống, uống bia nhiều nhất, lạc quan nhất nhì ...v.v. Và sau lưng niềm tự hào đó vẫn là những đống rác đồ sộ mỗi dịp lễ hội, những con số tử vong sững sờ sau bữa ăn mừng hoặc tết nhất, những tội phạm trộm cắp chết người, những hơn thua giết người chỉ vì cái nhìn đểu hay tiếng nẹt pô, những em bé du dây đến trường, những giọt nước mắt của người dân oan, những vụ án tham nhũng lạm quyền... Bên cạnh đó vẫn còn những chui nhủi trốn chạy giữa xứ Đài, xứ Thái, trời Âu, xứ Mỹ. Những thân phận nổi trôi của hàng trăm ngàn cô gái Việt trên xứ người, những con số ung thư kỷ lục, những câm nín của người ngư dân khốn khổ với bọn tàu lạ, những chịu đựng với thách thức xâm lấn công khai biên giới lãnh hải của TQ..v.v... Cao hơn nữa là tự hào về những chiếc xe cao cấp, những chai rượu đắt tiền, những biệt phủ khổng lồ, những tiệc tùng xa hoa của giới thượng lưu, sự giàu có cách biệt của những gia tộc quyền lực với gia tài đồ sộ mà cả đời đã cực khổ hy sinh "vì nước vì dân". Xã hội dường như vô cảm hơn, và con người cũng bận rộn rượt đuổi theo những hơn thua vật chất, tham vọng cá nhân. Những đứa trẻ được nhắc nhở dạy dỗ chuyện dĩ vãng nhiều hơn là tương lai, chuyện mưu cầu danh vọng bản thân nhiều hơn là danh dự tổ quốc, quan tâm chuyện sĩ diện cá nhân nhiều hơn là sĩ diện dân tộc. Trong những buổi họp mặt hội hè đình đám, thưa dần những câu chuyện trăn trở về văn hoá suy đồi, hoặc chuyện được mất của quê hương đất nước. Thay vào đó là những câu chuyện phô trương mặt mũi, so đo về quyền lực và vật chất. Thậm chí đơn giản hơn chỉ là những tự hào hơn thua nhau về vật chất nhu cầu tối thiểu hàng ngày.

Hôm rồi, ngồi nhìn thật lâu vào chiếc giường ngủ ở Đài Loan mà người xứ hắn dùng để trốn chui trốn nhủi, hắn bỗng thấy thương cho thân phận của người dân quê hắn. Tại sao dân tộc hắn lại phải chui nhủi, tranh nhau đi làm mướn làm thuê khắp mọi nơi trên thế giới, mà ngay cả những nước nghèo đói hơn vẫn không cần phải làm như thế. Tại sao dân tộc hắn ra đến nước ngoài, cũng phải gây nên tội phạm, trộm cắp khắp nơi, mà các nước khác không làm chuyện đó ?

Tại sao chiếc giường phải có 2 ngăn, một ngăn để trốn và một ngăn để khoe? Tại sao quê hương hắn không đơn giản là một chiếc giường êm ấm, để ai cũng có những giấc ngủ thanh bình ngay trên mảnh đất mà họ sinh ra ? Để mọi người có thể có điều kiện sinh sống, làm việc, và đóng góp cho chính quê hương của họ. Để tất cả cùng nhau có chung một niềm tự hào dân tộc. Tự hào cầm chiếc passport của tổ quốc mình đi khắp nơi, ngẩng cao đầu, mà không hề canh cánh lo âu, không hề sợ thiên hạ dè bỉu dòm chừng !




Sunday, January 06, 2019

Những lời hay đáng nhớ ....

Không lạ, không mới, nhưng bài nói chuyện của Đề đốc William McRaven vẫn đựơc đánh giá là những lời khuyên cần thiết và trung thực nhất cho giới trẻ chuẩn bị vào đời... Rất đáng nghe !





Wednesday, January 02, 2019

Đầu năm & ước nguyện ....



Đêm Noel hoặc Thanksgiving, đại đa số người Mỹ chỉ quay quần ở nhà chung vui với gia đình và người thân yêu của mình. Ngược lại, đêm giao thừa, người Mỹ (châu Âu cũng vậy) lại thích đi ra ngoài, tụ tập đông người, tiệc tùng, hò hét, vui chơi xả láng, để đếm ngược thời gian, chờ đợi năm mới đến. Hàng năm cả triệu người tụ tập về quảng trường Time Square (New York) để đón chào năm mới. Nhưng thường thì vào cuối năm thời tiết ở New York lạnh rét (năm nay mưa gió), nên chỉ phù hợp với giới trẻ trung, ít bầu đoàn thê tử. Những người lớn tuổi hoặc có con cái thường thích chọn về vùng nắng ấm như Florida để đón năm mới. Nhiều người tận vùng Bắc Mỹ, Canada, cũng khăn gói quả mướp về đây. Còn muốn coi bắn pháo hoa pháo bông, thì mấy khu giải trí ở Orlando (Florida) thuộc hàng cao thủ thượng thặng rồi. Mỗi năm bắn vài trăm lần, nên rất là điêu luyện. Vào mùa lễ hội Giáng Sinh - Tết Tây, thì ở những thành phố nắng ấm miền Đông, miền Tây Hoa Kỳ, bao giờ cũng đông đảo hơn thường lệ. Như ở Florida vào mùa này, người khắp nơi trên thế giới tụ tập về đây, xe cộ kẹt đường, khu vui chơi nào cũng đông đúc.

Mấy đứa con mình thích về miệt này vào dịp lễ hội, nắng ấm, đông đảo. Có nhiều khu vui chơi đi đến 5,3 lần, vậy mà vẫn cứ thích. Mà phải nói khu vui chơi giải trí cho gia đình thì ở FL là nhiều nhất. Nào là Disney World với những công viên như Epcot, Magic Kingdom, Animal Kingdom, Hollywood Studios, Typhoon Lagoon, Blizzard Beach (muốn đi hết mấy chỗ này cũng phải cả tuần rồi). Rồi Universal Studio, Islands of Adventure, Sea World, Aquatica, LegoLand, Dinosaur World .... Còn biển thì nào là Daytona, Cocoa, West Palm, Miami, South Beach, Key Largo, Marathon, Key West, Naples, St. Petersburg, Clear Water, Tampa ..v.v..Ôi thôi tùm lum, ý là còn chưa kể đến nhiều khu giải trí, sân gôn, công viên nước, bãi biển, resorts hạng nhỏ hạng trung .... đầy rẫy ở miệt này.

Đêm giao thừa năm nay, Disney World có vẻ đông hơn mọi năm. Sáng thứ hai, kẹt xe ngay gần cổng vào, đợi gần 2 tiếng mới vào đến bãi gởi xe. Buổi tối thì thôi rồi, động nghẹt. Mấy năm trước mình cũng đi lễ giao thừa nhưng không đến nỗi đông như lần này. Nhiều người vẫn nghĩ mấy chỗ này dành cho con nít, nhưng thực ra là người lớn nhiều hơn con nít. Mình thấy nhiều người chả có con cái gì cũng chen chân vào đây  :-)

Nhưng dường như chuyện kẹt xe, sắp hàng ... linh tinh, vẫn là chuyện nhỏ. Ai cũng hân hoan, rạng rỡ, đến đây để tìm cái cảm giác, cái không khí tưng bừng của ngày cuối năm & bắt đầu một năm mới . Một giờ sáng công viên đóng cửa nhưng đến 3 giờ sáng vẫn còn đông người cho dù tàu thuỷ, tàu điện chạy hết công suất đưa người ra về. Đâu sao, một năm mới có một lần mà lị :-) ..

Mỗi khu vui chơi trong Disney đều có chủ đề show diễn khác nhau. Chủ đề pháo hoa đêm giao thừa ở Magic Kingdom là “Fantasy in the Sky” (tạm dịch: bầu trời mộng mơ ) .... Rất đẹp, nhạc rất hay ! Lúc đang sô diễn, mình nhìn quanh, thấy ai cũng im lặng say sưa theo dõi, như đang mơ ước một điều gì. Mấy đứa con mình dẫu coi lại, nhưng vẫn say sưa mơ màng, những người lớn chung quanh cũng thế. Có lẽ ai cũng ước nguyện cho riêng họ một điều gì đó tốt đẹp năm mới....

Mình hỏi con ước nguyện điều gì, nhưng tụi nó không nói, giữ bí mật. Chịu thua thôi :-).
Hết pháo hoa, mọi người đứng gần nhau, quay lại bắt tay nhau và thân thiện chúc mừng năm mới. Mình luôn biết ơn những ân điển và hạnh ngộ trong cuộc sống này. Cảm ơn "bầu trời mơ ước", và cảm ơn những tự do có được trong đời sống mỗi ngày. Chợt nghĩ đến quê nhà, nghĩ đến gia đình bạn bè anh em, và hai bầu trời của họ. Một bầu trời không gian thực hít thở ngoài đời, và một bầu trời không gian mạng mỗi ngày sống với niềm tin và kiến thức. Rất mong những luật lệ mới 2019 sẽ không làm cho 2 bầu trời của họ chật hẹp & vẩn đục hơn, mà sẽ là những bầu trời tốt đẹp tự do hơn, để họ có quyền sống với chính ước mơ của họ. Thực ra thì ở quốc gia hoặc chế độ nào cũng vậy, cuối ngày chỉ có những ước mơ lành mạnh và tư duy độc lập trong một cơ chế xã hội thực sự tự do mới có thể chắp cánh cho đất nước họ bay lên. Xưa nay, vốn không có sự khiên cưỡng, ức chế nào lại tạo ra được một môi trường phát triển tốt đẹp.

Xin chúc mừng năm mới an lành đến với tất cả các anh chị em, bạn bè đã cùng nhau chia sẻ trao đổi với mình qua diễn đàn này trong năm qua. Một, hai, ba ...dzô :-) ....


Sunday, December 16, 2018

Tản mạn: Gốc hay ngọn ?



Mấy tuần nay bận rộn chuyện công, chuyện tư, đi hoài, ít có thời gian đọc báo quê nhà. Hôm rồi, bão tuyết nằm nhà, đọc được bài báo của cụ chủ tịch VN kêu gọi đất nước "Phải xây dựng văn hóa khinh bỉ kẻ tham nhũng". Tự nhiên suy nghĩ mông lung ....

Từ lâu nay hầu hết trên thế giới, những chuyện phân biệt đúng sai, trọng thiện khinh ác, khen tốt chê xấu ... đều được xã hội dạy dỗ cho trẻ con từ thời còn mang bĩm, ị bô. Còn định nghĩa hoặc khái niệm thế nào là đúng sai, thiện ác, cũng dựa vào những nền tảng đạo đức căn bản chung. Văn hoá ứng xử công bằng (fair) cũng được phụ huynh và nhà trường dạy dỗ cho con cái rất sớm. Còn nếu phân tích cặn kẽ ra xã hội con người bắt đầu biết nhận thức đựợc đúng sai, thiện ác từ đâu hay khi nào ? chắc khó có ai giải thích chính xác.

Ngày xưa Nho, Khổng, Đạo, Lão cũng từng đưa ra những chuẩn mức đạo đức nhất định, nhưng đó chỉ là phạm vi văn hoá của Á đông, có nhiều điểm khác biệt với quan niệm Tây phương. Trong đó vai trò của tôn giáo, văn hoá, thuyết phái, giáo dục, thể chế chính trị, xã hội .v.v.. cũng đóng góp quan trọng trong việc giáo dục và định hình những ứng xử đúng sai trong cuộc sống hàng ngày. Dĩ nhiên quan niệm đạo đức xã hội của mỗi đất nước hoặc vùng miền, bên cạnh cái chung cũng có những nét đặc thù riêng, ảnh hưỏng bởi những yếu tố khác nhau.

Tuy nhiên, cho đến ngày nay thì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có quan điểm chung về những giá trị đạo đức căn bản. Bởi thế cho nên việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ trên thế giới đều được xây dựng trên những nền tảng tương đối giống nhau, cho dù có khác biệt về tôn giáo, văn hoá, và quan điểm chính trị. Chỉ có một số rất ít quốc gia có định nghĩa (hoặc khái niệm) khác hơn về đạo đức, ví dụ như đạo đức XHCN. Và họ kiên định ở mục đích giáo dục & đào tạo theo mô hình "con người mới XHCN". Còn chuyện đúng sai tốt xấu thì "tuỳ người đối diện", mỗi người nên tự khám phá theo kinh nghiệm thực chứng của chính mình. Đơn giản nhất là cứ coi chuyện ứng xử người với người trong xã hội hằng ngày rồi tự mình chiêm nghiệm ra thôi. Những ai có điều kiện hơn, đi du lịch nước ngoài, tham quan các nước XHCN anh em như TQ, Triều tiên ...và các quốc gia khác, thì cũng dễ dàng nhận ra sự khác biệt.

Thực ra, các nhà giáo dục trên thế giới cũng đã từng nhiều lần tranh luận về mô hình lý tưởng của "con người đạo đức XHCN" là như thế nào ? Có lẽ đó vẫn chỉ còn là câu hỏi. Cũng mong rằng những nước như Trung quốc, Triều tiên, và Việt Nam sẽ sớm có câu trả lời, để thế giới văn minh có dịp học hỏi theo mô hình giáo dục đạo đức XHCN.

Nhớ hồi mình còn đi làm bên Anh quốc, có ông giáo sư kia hùng hồn nói: "Tôi đã lật từng trang của Communist Manifesto và Das Kapital, mà vẫn chưa thấy chỗ nào Karl Marx nói về phương cách đào tạo đạo đức con người để xây dựng đất nước"... :-). Đúng ra thì sau năm 1849, khi Marx chuyển về London, cả bộ sậu của Communist League cũng dọn về London. Quyền điều hành thuộc về August Willich và Karl Schapper. Hai ông này tối ngày lo nghĩ và cổ vũ chuyện bạo động khởi nghĩa (uprising), nên sớm bị các chính quyền châu Âu ngăn chận. Sau một thời gian khó khăn thì nhóm của Willich/Schapper cũng rời bỏ Communist League. Sau đó Marx lại tham gia cật lực vào tổ chức "German Workers' Educational Society" của công nhân Đức, nhưng rồi nội bộ lại mâu thuẩn, phân tán. Để cuối cùng ông lại thất bại và từ chức ra khỏi German Workers' Educational Society vào năm 1850.
Ông Marx đã sống rất chật vật & nghèo đói ở London trong quãng đời còn lại với mớ lý thuyết suông của mình. May mắn có được sự giúp đỡ của ông bạn tư sản Engels. Nên sau này nhiều người vẫn còn thắc mắc là những luận thuyết xã hội của Marx có liên quan gì đến khái niệm đạo đức XHCN ngày nay chăng ? Cuối đời trước khi chết, Marx nhờ Engels ghi chép lại những tư tưởng sau cùng để trình làng. Và sau khi Marx chết, năm 1884 Engels cho xuất bản cuốn sách "The Origin of the Family, Private Property and the State" (tiếng Đức là  Der Ursprung der Familie, des Privateigenthums und des Staats). Không biết VN có dịch quyển này ra tiếng VN không ?

Hết chiến tranh VN đến nay, hơn 40 năm, một thời gian quá dài và dư đủ để xây dựng một thế hệ đạo đức XHCN hoàn toàn mới, độc lập, thuần chất. Những em bé sinh sau năm 75, hôm nay cũng đã đã trưởng thành trên 40, và là tuổi đang dấn thân cống hiến nhiều nhất cho đất nước VN. Phải chăng những hạt giống XHCN đã đến hồi đơm hoa kết trái ? Đó chẳng phải là niềm mong đợi sao ? Đúng vậy, những khuôn mẫu con người mới, đạo đức mới XHCN, đã và đang nắm giữ các cương vị trọng yếu để góp phần xây dựng đất nước. Thế nhưng hôm nay nghe cụ CT kêu gọi đất nước cần xây dựng văn hoá "phải biết khinh bỉ tham nhũng". Thấy khó hiểu !

Thiết nghĩ, đất nước nào cũng thế, thời chiến tranh khác với thời bình. Đánh nhau hy sinh khác với làm kinh tế xây dựng đất nước. Bạn bè cũng thế, lúc cơ hàn thì chia nhau nắm cơm con mắm, lúc phú quý lại sinh ra ghen ăn tức ở. Vốn cũng là chuyện thường tình !
Lúc nghèo lấy gì tham nhũng nên ai cũng là quan thanh liêm, đến lúc giàu mà không biết tại sao giàu, thì thấy gì cũng ham, tham nhũng & biến chất cũng là chuyện thường thấy. Chuyện đạo đức hình thành cũng như các lãnh vực khác thôi, có gốc có ngọn, có nguyên nhân xa có lý lẽ gần. Thiết nghĩ tỉa ngọn mà gốc vẫn còn, lại cứ mọc ra. Cái chìa khoá chính yếu vẫn là do hệ thống. Mấy ông quan ở xứ này chắc gì đạo đức tốt hơn mấy ông quan ở xứ nọ. Chẳng qua là hệ thống chính trị, kinh tế, và pháp luật ở những quốc gia dân chủ văn minh không cho họ cơ hội để thông đồng, móc nối, cậy quyền cậy thế, lợi ích nhóm, tham nhũng, lường gạt mà thôi.

Ở quê nhớ ông bà thường nói "Khoá cổng là khoá kẻ ngay, chứ sao khoá được kẻ gian". Đúng vậy, đã gian thì dẫu khoá tốt cỡ nào, cũng bẻ khoá chui vào được, rinh đi hủ mắm :-). Ý là chưa nói đến chuyện vừa rinh hủ mắm lại vừa chửi, vừa tuyên bố huyên hoang khinh bỉ bọn xấu, tung hỏa mù mờ mịt, thiệt giả khó phân !

Nói một cách công bằng, thì ít có quốc gia nào trên thế giới mà nổ lực kêu gọi, hô hào đào tạo đạo đức con người XHCN như ở VN. Đi đâu cũng thấy khẩu hiệu biểu ngữ giăng đầy. Ngân sách chi tiêu cho việc đào tạo con người & đạo đức XHCN cũng không phải là nhỏ. Dạy từ thưở còn là cháu ngoan nhi đồng, thiếu niên tiền phong, đến đoàn thanh niên, hội đoàn, tổ chức, đoàn thể, khu phố văn hoá ..v.v. Một nền giáo dục chu đáo, toàn diện và công phu bậc nhất trên thế giới. Bây giờ nhiều người được ra nước ngoài, ai cũng nhìn thấy tận mắt, so sánh được, không phải nói ngoa. Tính ra là chỉ có vài quốc gia như Triều tiên, Trung Quốc, Việt nam mới có được ngân sách đào tạo đặc biệt đến thế. Những nước khác, kể cả những nước tư bản lớn mạnh như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Úc, Canada, châu Âu, châu Mỹ  ....cũng không thấy được những biểu ngữ, khẩu hiệu, đoàn thể, phong trào đoàn đội, dạy dỗ thanh thiếu niên rầm rộ như ở VN.

Thế nhưng, tội phạm xã hội càng lúc càng nhiều. Cứ nghe đến là diễn biến phức tạp. Hàng ngày đọc báo, nhiều lúc mở ra thấy ngỡ ngàng. Từ những trộm cắp vặt vãnh, cho đến "văn hoá hơn thua" nhỏ nhặt, cũng đâm chém giết người. Từ những câu chuyện đạo đức suy đồi, biết luật phạm luật, kẻ thi hành luật đi hiếp dâm cưỡng đoạt, thầy cô lạm dụng học trò...v.v.. Cho đến quan thầy rủ nhau xộ khám vì tham nhũng, lạm quyền, bè nhóm, một tay che trời, coi thường pháp luật. Nhiều người đã không khỏi băn khoăn liệu đạo đức XHCN có thay đổi được đất nước chăng ? Chuyện bắt bớ tù đày cũng chỉ là giải quyết phần ngọn của vấn đề, còn phần gốc rễ nguyên nhân giải quyết thế nào ? Liệu nhà tù và những bản án có làm thay đổi văn hoá ứng xử, đạo đức con người, và vận mạng của đất nước được chăng ? Liệu ngân sách khủng và hệ thống hội đoàn dày đặc có làm cải thiện được đạo đức xã hội và con người hay chăng ? Vấn đề là nằm ở gốc hay ngọn ? Cái nào là bản chất, cái nào là hiện tượng ?

Bên cạnh đó, thì các phương tiện truyền thông vẫn nổ lực đưa tin những tấm gương tốt về đạo đức và phẩm hạnh của giới hữu trách. Ví dụ như " 34 nghìn người khai tài sản, chỉ phát hiện 1 người không trung thực" (BM). "Hơn 1,1 triệu quan chức kê khai tài sản, chỉ 6 người sai phạm" (TN)" ..v.v... Nghe xong không biết có đọc nhầm không ? Nhưng liệu những câu chuyện và hình ảnh tốt đẹp ấy có đủ để làm cho người dân tin tưởng, noi theo gương tốt của các vị quan chức thanh liêm đó hay lại phản tác dụng? Gần đây dồn dập những vị quan chức lãnh đạo, những tấm gương từng là đoàn viên đảng viên ưu tú xộ khám, dĩ nhiên là làm cho nhiều giới hâm mộ & nhiều người quan tâm. Buồn vui lẫn lộn. Kẻ mừng người lo, kẻ vui người buồn, kẻ hóng người trông. Kẻ chán chường điệp khúc, người khinh bỉ tận cùng. Kẻ ngán ngẩm vai tuồng diễn dở, người khóc lóc van xin, đủ cả.

Suy cho cùng, thì người dân ở đất nước nào cũng thế, ai cũng đều luôn mong mỏi đất nước họ được ấm no, tự do, để sống bình đẳng, an toàn. Con cái được giáo dục đàng hoàng. Chứ không ai mong mỏi đất nước họ nhiều nhà tù, bắt bớ giam cầm, sống trong lo âu hồi hộp. Xưa nay quốc gia nào càng lôi cuốn sâu vào những việc thanh trừng tội phạm (cho dù dưới hình thức nào), thì đó không phải là quốc gia sẵn sàng cho một phát triển lành mạnh. Như ông Nelson Mandela đã nói .... "May your choices reflect your hopes, not your fears". (Tạm dịch: Hãy để sự chọn lựa trong cuộc sống là những hy vọng, chứ không phải là nỗi sợ hãi). Và chọn lựa nào sẽ dành cho người dân VN hôm nay và ngày mai ?
Lịch sử xưa nay sự thay đổi nào cũng cần phải có những đánh đổi. Kết quả luôn luôn là câu trả lời đúng nhất cho mọi lý thuyết. Càng trốn tránh sự thực, càng kéo dài thời gian, về sau càng khó khăn để sửa đổi, lại càng thiệt thòi chậm lụt cho sự phát triển của nước nhà.