Friday, July 28, 2017

Bên ni bên nớ,

Hôm qua có ông giáo sư Mỹ rủ đi ăn phở, nhưng đến nơi, mình ăn bún bò Huế, ổng ăn bún chả giò. Ông này đang dịch một số tác phẩm từ tiếng Việt sang tiếng Anh, từ tiểu luận đến phân tích. Đây là lần đầu tiên mình gặp một người Mỹ hiểu sâu sắc về ngôn ngữ, văn hoá, và âm nhạc Việt nam đến thế. Dạo trước ông ta phụ trách khoa Đông phương của 1 trường đại học danh giá ở Mỹ, nên kiến thức nghiên cứu rõ ràng rất là "hàn lâm" so với các bạn ngoại quốc khác .
Nôm na về ông như thế, nhưng câu chuyện chính phía sau ly cafe sữa nóng và tô bò Huế vẫn là những trăn trở "bên ni, bên nớ " của người VN tha phương. Ối dà, chuyện này thì trăm năm chưa hết chuyện, nói chút đã tới giờ đi, hẹn ngày nói tiếp :-) .

Có một câu chuyện tiếu lâm ông kể, khi nhận định về nhân sinh quan của 2 nhà nhạc sĩ VN nổi tiếng trước đây, làm mình suy nghĩ cả đoạn đường về. Một bên lạc quan thái quá và bên kia bi quan thái quá ! Ngẫm lại đôi khi cái nhìn của mình và  nhiều người VN về đất nước cũng như thế. Nhưng liệu đó có phải là bi quan hay lạc quan thái quá không, hay chỉ là những sự khiếm khuyết nhất định và ảo giác quyền lực cũng như kiến thức ?
Dĩ nhiên sẽ không ai nhận là mình "thái quá". Bởi con người lâu nay vẫn thường không biết những thứ mà mình không biết. Thế mới là rách việc ! Đọc tin tức, cứ dăm ba bữa là nghe báo chí phê phán ông này ông nọ phát biểu linh tinh, nói chày nói cối, nói gà nói vịt. Trong nước cũng thế mà ngoài nước cũng thế. Từ những câu chuyện về văn hoá, chính trị, kỹ thuật, môi trường, kinh tế, đấu tranh, cộng đồng. Nhiều ông tưởng mình có mệnh số là "minh chủ" thật. Có ông tưởng mình có khả năng lãnh đạo thật. Có ông tưởng mình có chức quyền thì đồng nghĩa với thì có kiến thức thật. Có ông tưởng mình có đi học giáo sư tiến sĩ thật. Có ông tưởng mình chửi  hoài thì đất nước sẽ thay đổi thật  ..vv...Và cứ thế nhầm lẫn, thật giả, khó lường, người lạc quan kẻ bi quan, ngày ngày vẫn thế.

Gần nửa thế kỷ để đấm đá nhau, dối gạt nhau, giết chóc nhau, vu khống nhau. Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946, Geneve 1954, Paris 1973 .... và thân phận một đất nước nhỏ bé trên bàn cờ tranh chấp của những nước lớn. Được mất những gì ?
Rồi gần nửa thế kỷ khác để hận thù chống đối, để bắt bớ tù đày, để rêu rao vô cớ, để khóc để cười, để ai oán để kiêu binh, để lần mò dọ dẫm, để bào chữa sửa sai ...  Và nhìn lại vẫn những lối mòn tư duy, những con đường gian nan ngổn ngang đá gạch !

Bên ni bên nớ, ông GS dùng chữ này rất hay. Bi quan hay lạc quan ? Nỗi lòng của những người VN tha phương, hay chính trên quê hương mình ... vẫn cứ như là những câu dân ca đầy trắc ẩn, những giai điệu thăng trầm bên bờ sông quê hương đang ngày mỗi cạn dần.


Tuesday, July 25, 2017

Bạn bè và dối trá,


Mấy tuần nay, biển Đông lại lùm xùm câu chuyện chủ quyền biển đảo, vẫn chuyện lý lẽ cậy mạnh hiếp yếu của Tàu. Cuối cùng thì Việt nam buộc phải ngưng hoạt động ở Bãi Tư Chính, ngay trên vùng biển thuộc chủ quyền của mình. Chuyện bồi thường hay thiệt hại tài lực nhất thời, dẫu có nhiều bao nhiêu đi nữa thì cũng chỉ là chuyện nhỏ bé so với những nguy cơ tham vọng lâu dài của TQ đối với lãnh thổ VN. Dĩ nhiên là từ lâu nay VN & TQ vẫn đã, đang, và cứ là bạn tốt, bạc vàng với nhau. Nhiều người vẫn cứ tin như thế hoặc ít ra giả vờ là mình tin như thế. Khờ khạo hoặc giả dối !

Ở đây, chỉ muốn nói đến khái niệm bạn bè và mặt trái giả dối của nó. Dĩ nhiên ai cũng hiểu trong quan hệ xã giao quốc tế, tay bắt mặt mừng, ôm hôn thắm thiết, cũng không khẳng định được điều gì. Bởi tất cả đều dựa vào quyền lợi quốc gia (hoặc quyền lợi cá nhân núp bóng quốc gia). Tuy nhiên, những quy tắc ứng xử ngoại giao cũng có những lằn ranh nhất định của nó. Những vở kịch không mang tính thuyết phục, kéo dài chỉ làm mất lòng tin lẫn nhau, dối trá nhau, lại khó tạo được niềm tin từ người dân. Thực tế sau lưng những sum sê, tâng bốc gượng gạo là những chiêu trò chính trị, dòm ngó nhau, thậm chí còn ghê tởm nhau.

Trên bản đồ thế giới, cũng có rất nhiều nước nhỏ nằm cạnh nước lớn, nhưng quan hệ láng giềng của họ không nhất thiết phải dối trá nhau, hăm he cướp đoạt nhau như TQ. Ngày xưa, phương tiện thông tin còn hạn chế, dân trí và sự hiểu biết của con người bị giới hạn bởi mức độ kiểm soát thông tin, tính minh bạch, hoặc bưng bít, của từng quốc gia. Ngày nay, thông tin tin tức rộng rãi, mọi người đều có thể tự học hỏi, tìm tòi cho mình những lời giải thích hợp lý về xã hội, lịch sử, nguồn gốc chiến tranh của thế giới và của chính đất nước họ.
Nhớ ngày xưa đôi khi đi giỗ chạp hay nhậu nhẹt gì đó, cũng thường nghe người ta nhắc nhở về ơn nghĩa của TQ. Đã "vô điều kiện" giúp lượng thực vũ khí cho miền bắc VN thời chiến tranh ? Có người lại thắc mắc sao Mỹ gần Cuba thế không "xâm lược" , mà phải chạy qua tuốt VN ? Có người thắc mắc cả sao Liên xô, TQ, tốt thế mà lại ít bạn bè đồng minh trên thế giới ?.... vv... Nghe thì nhiều nhưng mình thường không dám bình luận bởi kiến thức hạn chế, chỉ khuyên họ bây giờ sách báo có nhiều, đa chiều, nên chịu khó đọc để có cái nhìn công bằng và hiểu biết khách quan hơn. Thiết nghĩ một câu hỏi quan trọng hơn mà họ cần hỏi đó là "Nếu VN không phải là thành viên của Quốc tế CS ngày ấy, thì có cuộc chiến "VN War" hay chăng ?". Hiểu điều này thì biết ai nợ ai !

Tóm lại mình nghĩ quan hệ bạn bè giữa VN và TQ nên rõ ràng minh bạch hơn, để khỏi thường xuyên diễn ra cảnh vừa ăn cướp vừa la làng như thế. Đây không phải là lần đầu, mà TQ lâu nay vẫn thường xuyên lợi dụng sự rối ren của VN, để gây hấn, để chiếm đoạt, và để ... nhân từ. Rồi vẫn bạn, vẫn bè, dối trá và mệt mỏi !
Đời thường cũng thế, nhớ có lần một ông anh quen, buồn bã than vãn là có bạn bè đồng hương, đồng trường gì đấy, thường xuyên theo dõi thiêu dệt chuyện đời tư, bôi xấu anh ta. Mình khẳng định nói "đó chắc chắn không phải là bạn của anh, bởi không thể nào có một người bạn đúng nghĩa lại sau lưng nói xấu, đâm thọc bạn mình". Đúng vậy, một người bạn đúng nghĩa họ sẽ bảo vệ, và không xâm phạm quyền lợi cũng như lợi dụng bạn bè của họ. Đó là chưa nói đến những người bạn tốt, hiểu biết, thì họ sẽ công bằng, đối xử phân minh với người khác. Không cứ nhất thiết bạn mình thì đúng, kẻ thù mình thì sai. Người phương Tây cũng có câu nói " We do not lose friends, we just learn who our real ones are." (Tạm dịch: Chúng ta không mất bạn bè, chúng ta chỉ học hiểu ra ai là những người bạn thực sự).

Dĩ nhiên VN không có quyền chọn lựa hàng xóm, nhưng chắc chắn có quyền chọn lựa sự rõ ràng minh bạch trong quan hệ bạn bè với TQ. Tại sao không ? Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, nhưng ai cũng thắc mắc là tại sao không có câu trả lời chuẩn xác. Tuy nhiên ai cũng ngầm hiểu một lý do !
Điểm quan trọng ở đây là với sự ngang ngược lấn áp của TQ hiện nay, nếu VN không có câu trả lời thích đáng & minh bạch cho quan hệ Việt Trung thì rất khó tạo được niềm tin của người dân.





Friday, May 26, 2017

Wednesday, March 29, 2017

Nữ hoàng chân dài

Miền sông nước miền Tây Nam bộ lâu nay vẫn ví von những con sếu là "nữ hoàng chân dài". Ngày xưa đến mùa, từng đàn sếu bay về rợp trời kiếm ăn. Nào là sếu đầu đỏ, cánh trắng, mỏ vàng, mỏ đen, cánh đốm đen, cổ đốm vàng, cò xanh, cò cá, cò quắm... Nhiều địa danh nổi tiếng cũng nhờ chim, nhờ cò, nhờ sếu, như Tràm chim Ðồng Tháp, vườn cò Bằng Lăng, vườn chim Bạc Liêu, vườn cò Long Thạnh Mỹ .... Có dạo người anh em Campuchia "kêu gọi đầu tư" mời sếu về khu bảo tồn Anlung Pring, cũng làm cho lượng sếu về VN giảm đi ít nhiều. Nói vòng vo thì lâu nay chuyện chim trời cá biển, nơi nào tốt thích hợp thì về, không thích thì bay, tất nhiên là thế.

Hôm rồi, ông thủ tướng VN nói chuyện về xúc tiến đầu tư ở Quảng Nam có bày tỏ quan tâm về "đàn sếu trong phát triển". Ví von những nhà đầu tư như những con sếu, và mong mỏi có nhiều con sếu to bay về vùng đất này. Dĩ nhiên là ông TT hiểu rõ những "nữ hoàng chân dài" thích ăn món gì. Cũng hy vọng ông hiểu được những con sếu "nhà đầu tư" thích nhìn thấy gì, thích thay đổi nào, & cần gì ngoài những chính sách ưu đãi đất đai lâu nay. Những nhà đầu tư thực sự thường có cái nhìn lâu dài hơn, và nhu cầu khác với những nhà đầu tư cơ hội, ăn xổi ở thì. Chuyện này thì mười mấy hai mươi năm trước, còn lẫn lộn, thời này thì đã rõ ràng hơn nhiều. Mà những nhà đầu tư thực sự thì mới thúc đẩy nền kinh tế sản xuất và phát triển ổn định địa phương. Còn nhà đầu tư cơ hội thì chỉ góp phần vào nền kinh tế "phân lô bán nền", có thể còn làm cho người dân khốn khổ hơn. Cũng như sếu, thì năm bảy loại sếu !

Tào lao chút, một dạo Sài Gòn có quán Tràm Chim của anh 3 T Đồng Tháp. Đông đảo, ồn ào, nhưng lại nổi tiếng trong giới thích chim chuột đồng quê. Nhiều anh VK về quê hương, đồn đãi nhau lại càng đông hơn. Nhớ có lần, anh kia quen bên Boston về, rủ mình ra đó. Nghĩ là ổng nhớ quê hương vậy, để mình chở thẳng ông về Đồng Tháp. Ghé Nha Mân, ghé Sa đéc, ghé Cao Lãnh, ghé Tràm Chim (thứ thiệt), ăn chuột nướng lu, trứng rùa, súng sen, điên điển... gì cũng có. Trên đường về, thấy ổng im lìm. Thầm nghĩ có khi nào mình lại nghĩ sai ?
Mấy tháng trước, có ghé Bolsa Phước Lộc Thọ, một ông bạn đồng hương rủ vào quán Tràm Chim. Cũng ồn ào đông đúc, mới biết rằng dân ta dù đi xa tận đâu đâu, vẫn nhớ chim chuột quê nhà !

Nói lại chuyện kêu gọi những con "sếu" lớn đầu tư ở quê nhà. Có lần mình nói chuyện với ông khách hàng bên Hàn quốc. Ổng nói:
- Quê mày lạ quá. Kêu gọi ủng hộ ngành xe hơi nội địa, mà ông sếp nào cũng đi xe ngoại quốc sang trọng, không ai đi xe nội, thì làm sao Trường Hải làm được. Kêu gọi cải cách giáo dục tốt, mà con cái thì cứ gởi đi nước ngoài. Kêu gọi phát triển du lịch trong nước, mà nhiều người hỏi điểm du lịch gần nhà còn chưa biết rõ bằng ở nước ngoài ... Dùng người, dùng hàng hoá cũng vậy, vọng ngoại như thế, hàng nội làm sao có cơ hội nhỉ ?

Nên mình luôn hy vọng sau này có những con sếu nội cất cánh bay cao như con sếu ngoại. Không mong rằng thấy bay một hồi rồi lại bị nhốt vào lồng, để chuẩn bị ra món "đặc sản" đồng quê !



Friday, March 17, 2017

Con khỉ Kong và cô công chúa ngủ trong rừng !

Nhiều người may mắn sống ở nước ngoài, phim ảnh ra đời xoèn xoẹt như cơm bữa, nên không thấu hiểu được nỗi vui của VN với phim con khỉ Kong. Có những địa phương ở Mỹ, hãng phim ra vô liên tục, hết phim đến shows, bận rộn, nên dân chúng địa phương cũng thấy bình thường, quen dần cũng chẳng ai để ý. Chừng nào chiếu lên màn ảnh, hay dở gì rồi hẳn tính sau. Có phim hay, năm ba giải Oscar, ồn ào dăm ba hôm hay vài ba tuần, rồi qua . Có phim dở, ít người coi, rồi cũng chẳng còn ai nhớ đến. Phim cũ đi, phim mới lại đến, có cái hay khác, có cảnh đẹp khác....Vậy thôi !

Còn VN thì khác, lâu lâu mới có chuyện đại sự như thế này. Một hãng phim Mỹ vào VN quay phim ! Mấy hôm nay đọc tin VN thấy báo chí ca tụng phim "Kong - đảo đầu lâu" quá, lên cả bàn nghị sự quốc hội. TP Hà Nội còn đang bàn thảo lên kế hoạch xây tượng đài con khỉ King Kong. Mình cũng hiểu được phần nào, lâu lâu mới có Hollywood qua xứ mình đóng phim, quảng bá cảnh đẹp đất nước miễn phí, còn gì sung sướng cho bằng ?
Thực ra nói về cảnh trí thiên nhiên đẹp hùng vĩ, thì lâu nay những nước châu Phi, châu Âu, Nam Mỹ, kể cả châu Á như Thái Lan, New Zealand, Úc ... thậm chí như Tây tạng, Tàu, Mông cổ.. cũng được lên phim nhiều lắm rồi, chỉ là VN hơi hiếm có cơ hội.

Hôm qua, có đọc lời bà chủ tịch QH Ngân nói: “Nước ta có nhiều cảnh đẹp được ví như người con gái đẹp ngủ trong rừng chưa ai đánh thức. Vừa qua bộ phim Kong - Đảo đầu lâu mới chỉ đánh thức một phần thôi, còn nhiều cô gái đẹp như thế chưa ai đánh thức. Đã đẹp thì phải thưởng thức, nhưng họ đến chỉ một lần rồi không ai đến là do vấn đề hạ tầng du lịch, và dịch vụ cho du lịch rất yếu và kém”.
Mình không hiểu lắm ý bà về "người con gái đẹp ngủ trong rừng chưa ai đánh thức", nhưng mình đồng ý với bà là hạ tầng & dịch vụ du lịch VN quá kém. Mình thấy nhiều đời ông BT du lịch rồi, mà chẳng có thay đổi gì khá hơn, thậm chí có nơi còn tệ hơn. Còn chuyện mượn tiền, xin tiền, xây thêm điểm du lịch, tượng đài, cáp treo, du lịch sinh thái ... chưa chắc đã là điều tốt. Vì làm không đúng, kinh doanh lỗ lã, không đủ tiền trả nợ, có khi lại bắt dân gánh thêm gánh nợ "công" trên vai !

Mình cũng có đọc qua một số lời bàn "Mao tôn Cương" trên mạng trên báo về ý kien của bà Ngân nói đến hình ảnh cô con gái ngủ trong rừng. Đủ loại ý kiến ý cò như là, "thời này ngủ trong rừng hớ hên coi chừng bị hiếp dâm"; "đánh thức dậy ke dãi chảy tùm lum thà để ngủ luôn đẹp hơn"; "thời này con gái phải tự sửa soạn đi ra đường chứ đâu phải cổ tích mà ngủ rồi đợi hoàng tử đánh thức"; "vô rừng ngủ thì có mấy ai thấy mà đánh thức?"; "đánh thức dậy rồi làm gì nữa "? "đừng ngây thơ, có khi đánh thức lại vì mục đích khác" ..v.v. và vv... Nói chung là đụng đến nghề bàn, thánh phán, thì dân ta cũng không thua kém ai.
Bàn loạn thì nhiều, nhưng ít ai nói đến "fact" cụ thể. Ví dụ như trong số bao nhiêu du khách đến VN, thì có bao nhiêu người đã trở lại ? Số lượng du khách đến VN từ đâu ? nước nào nhiều, nước nào ít ? Điểm họ quan tâm chính là gì ? Than phiền chính của khách du lịch là gì ? Điểm nào làm họ sợ hãi nhất ? v.v.. Còn kiều bào thì đa phần là về VN thăm gia đình quê hương bạn bè, chuyện đương nhiên, nên xấu tốt gì họ cũng phải ráng chịu, dễ chấp nhận hơn. Khách du lịch thì lại khác, ngay cả khách du lịch gốc Việt cũng vậy !
Lâu nay xứ nào, nước nào cũng thế. Nhốn nháo, dơ bẩn, ứng xử kém văn hoá, chặt chém, cướp giựt, cò mồi, lường gạt ...là những điều huý kị trong du lịch. Khách du lịch thì cũng nhiều thành phần, từ "tây ba lô" cho đến "trung quốc anh em". Chắc gì cứ khách nước ngoài lại là thông thái, văn minh, lịch sự , hơn dân làng ta ? Từ Nga Mũi Né, cho đến Tàu Đà nẵng. Từ Phi châu "bùa phép", cho đến Phi luật Tân mưu sinh ... Có khi khách này tăng thì khách kia lại giảm, cái này lên cái kia lại xuống. Phàm có cái nhiều lại mất, ít lại được, du lịch cũng thế. Không phải cần chi tiết để kỳ thị, mà cần số liệu cụ thể, trung thực, để sửa sai cho đúng cách, "tự sướng" cho đúng bài :-).

Dĩ nhiên là không phải cứ chê bai, hoặc định kiến, hoặc so sánh khập khểnh giữa quê mình với xứ sở khác. Nhưng lâu nay ai cũng biết là chỉ có cách chấp nhận sự thật, thì mới sửa được sự thật. Chứ đi đâu cũng nghe thấy thành tích xuất sắc, tăng trưởng nhất, tốt nhất, đẹp nhất, thì tìm đâu ra chỗ sai nào mà sửa ?  Ông nào lên cũng nói thật hay, báo cáo thành tích thật nổi, mà bao năm qua các vấn nạn ngao ngán của ngành du lịch nước nhà vẫn còn :-( .

Cho nên mình nghĩ bà QH Ngân nói đúng chỗ yếu kém này. Nếu mai này mà ngành du lịch VN sửa sai được những khiếm khuyết. Dịch vụ và hạ tầng tốt hơn, sạch sẽ hơn, văn hoá hơn, thì ngoài việc du khách kháo nhau tìm đến, chắc chắn mấy hãng phim Mỹ, Pháp, Hàn, Ấn ... cũng xin sắp hàng mà vào đóng phim. Lúc đấy Hà nội chả cần chỉ lo xây tượng đài con khỉ Kong nữa, mà có khi còn nhiều con khác nữa, cũng như nhiều thứ hay ho khác, từ từ mà xây ... vội gì ? Thầm nghĩ vậy !





Tuesday, March 14, 2017

Về biển



Giọt máu anh thấm lòng đất Mẹ
Giọt máu em tô vẽ cuộc đời
Vẫn sông biển rộng
ngàn khơi
Vẫn trào dâng mãi
muôn đời nước non

Cha gởi con một vòng nguyệt quế
Mặn nỗi buồn thế hệ lặng câm
Ngàn năm bia đá
lâm râm
mưa trên bãi cạn
âm thầm chịu tang

Mẹ gởi con đôi chùm bánh ú
Nếp quê nhà tu hú tháng ba
xác ai trôi nổi
Trường sa
trắng mùa biển lặng,
quê nhà nín thinh !

Lệ Cổ Loa trung trinh chưa ráo
Nợ nỏ thần đánh tráo Mỵ Châu
Ai ngã xuống ôm nỗi buồn thân phận
Hy sinh nào mãi lận đận quê hương ?

Thôi anh,
hãy ngủ cho tròn giấc
Nợ sơn hà sông núi lưu danh 
Thôi em,
cứ yên lòng về biển
Nước bốn nghìn năm sẽ lớn thôi .... !

PN
(Để tưởng niệm những người lính đã ngã xuống cho quê hương tại Gạc Ma 14/03/1988)



14/03 Thảm sát Gạc Ma !

Bản tin chính thức của giặc Tàu & hình ảnh thảm sát binh lính VN dã man .




Sunday, March 12, 2017

Vô thường !

Sáng chiều hai buổi xuống lên
Một vòng mộng mị nhớ quên buổi nào ?
PN



Thursday, March 09, 2017

Nghe lén, có hay không ?

Coi cái clip này để hiểu thêm về quyền hạn theo dõi người dân đối với chính quyền (nếu có). Bài phỏng vấn tướng Michael Hayden, cựu giám đốc CIA và NSA của Mỹ, nhân chuyện T/T Trump nói cựu T/T Obama đã nghe lén ông ta.


Wednesday, March 08, 2017

Dấu xưa

Nắm tay,
chốn cũ tìm về,
cỏ may đan lối đam mê muộn màng

Như loài chim biển đi hoang
tương tư ốc đảo, ngỡ ngàng phố xa ...
Bay về,
mặc,
bão phong ba,
chết,
trong đáy mắt
thật thà
dấu xưa !

Tiếc gì
nửa kiếp sáng trưa
Tiếc gì
năm tháng nắng mưa lở bồi  ?

Chỉ cần một đóa hoa môi,
em cười khúc khích, ta ngồi trăm năm !
Bờ vai tóc nhuộm,
lâm râm
mưa trên cố quận
âm thầm vết chân
Bên đời,
khinh bạc phù vân,
lần mò đi mãi, mấy lần đã yêu ?

PN (Chúc 8/3 hạnh phúc)



Happy 8/3 !


Monday, March 06, 2017

Thèm nghe thèm thấy !

Nhớ có năm nào đấy, bên nhà hạn hán nặng. Về quê, nghe bà con than vãn mùa màng thất bát, thấy buồn. Nhiều người khá giả chút, rằm, mùng một, về chùa thắp nhang cúng bái, cầu nguyện mưa thuận gió hoà. Mình hỏi ông sư ở chùa:
 - Nếu cả hai người làm ruộng và làm muối cùng cầu nguyện, thì ông Trời nên mưa hay nên nắng Thầy nhỉ ?
- Chú này hỏi cắc cớ quá. Ông sư nói.
Mình xin lỗi, nói không có ý hỏi cắc cớ, chỉ là tự nhiên nghĩ đến cái mong muốn và chờ đợi trong mỗi con người của chúng ta.

Bên tây bên ta gì cũng thế, thông thường cái gì thiếu, thì người ta thấy thèm. Đủ thứ thèm, thèm tiền, thèm tiếng, thèm khen, thèm chê ... nhưng lâu nay thèm thấy, thèm nghe, cũng là những nhu cầu thường gặp trong xã hội đời sống hàng ngày. Có lẽ ban đầu chỉ đơn giản là những chờ đợi mong mỏi bình thường. Nhưng rồi đợi lâu quá, đợi nữa, đợi mãi, đợi riết, cuối cùng trở nên thèm thuồng. Và thèm cho tới một mức độ nào đó, thì cứ như "trời hạn trông mưa", chỉ cần một giọt nước nhỏ nhoi cũng đủ làm nên "ngẫu hứng". Nhiều người đã hân hoan phấn khởi, đặt hy vọng vào những "ngẫu hứng" như thế. "Có còn hơn không, có còn hơn không ....!"
Có lẽ thế, nên cứ dăm ba tuần, báo đài lại có dịp đăng tải vài "ngẫu hứng qua cầu". Có lúc là một tuyên bố hùng hồn, một trảm tấu lâm sàng, một thưởng phạt phân mình, một ứng xử khiêm cung, một thanh liêm đến lạ thường, một thật thà đến kinh ngạc ..vv. Tuy là chưa giải quyết được vấn đề gì lâu dài, nhưng dẫu sao nghe thấy sướng và nhìn thấy đã. Còn vấn đề những "ngẫu hứng" đó có làm thay đổi được một cái gì cụ thể chăng, thì có khi lại là một điều quá mệt mỏi để phải nghĩ đến. Thôi thì mặc kệ, cứ nghe cho sướng tai trước đã !

Nhìn lại, từ một kết quả bất ngờ của cuộc bầu cử nước ngoài, cho đến những tung hô cải cách trong nước, có khi cũng chỉ bắt nguồn từ vài lời tuyên bố vu vơ, vài hứa hẹn ngọt ngào, hoặc vài câu chuyện của thì tương lai xa vời... Dẫu biết rằng có những hứa hẹn sẽ trở thành sự thật, nhưng cũng có những hứa hẹn mãi mãi chỉ là câu nói suông. Thế nhưng một khi mòn mỏi đợi chờ quá lâu, thì dường như lại dễ hài lòng, dễ sướng, bởi những câu chuyện rất ư tầm thường, đôi khi vô lý. Âu cũng là lẽ thường nhỉ ?

Nhớ có dạo TQ xâm lấn lãnh hải, ngang ngược đem giàn khoan cắm trong biển nhà, coi thường sự phản đối của VN. Người thấp cổ bé miệng la hét thật to, người cao cổ to miệng thì lại thầm thì thật nhỏ. Đợi chờ, và đợi chờ mệt mỏi, cũng không thấy ai kiện cáo gì. Một giọt mưa thu "không đánh đổi lãnh thổ" làm tê sướng lòng người hạn hán. Bỗng chốc, rồi trở lại lặng im như cũ !
Còn báo chí quê nhà nhai nhải mỗi ngày tham nhũng, cửa quyền, tham ô.... Đợi chờ, và đợi chờ một điều mới lạ. Bỗng một "cơn mưa phùn bay qua thành phố nhỏ" "hốt, hốt ngay, hốt hết ", thấy sướng. Tỉnh rụi, hạnh phúc, hy vọng, rồi vài hôm lại đi vào quên lãng !
......
Và cứ thế, những giọt mưa thu, những cơn mưa phùn, cứ thỉnh thoảng rơi rớt đâu đó như xoa dịu những nỗi hạn hán đợi chờ. Cũng là những ngẫu hứng nhất thời nào đó, nhưng "may mà có em đời còn dễ thương !"(VHĐ/PD). Cứ nhìn những xôn xao của một đất nước qua những câu chuyện vụn vặt của báo chí, mới thấy đáng thương cho người dân đen. Họ thèm nghe, thèm thấy, thèm sự thay đổi, thèm cái tốt, thèm cái thiện, cho dù chỉ là một hy vọng mong manh, le lói. Từ một tuyên bố ông quan đi xe buýt vài ngày, cấm đánh gôn, cấm nhậu trong giờ làm việc, đuổi cổ vài ông quan lười biếng (đúng ra phải đuổi từ đầu), hay chuyện xăn tay áo hò hét dẹp lề đường, bất chấp những quy tắc ứng xử đồng bộ xã hội. Cho đến những câu chuyện bi hài như xe được tặng đã lâu bây giờ trả lại, quán nhậu mở đã lâu giờ mới biết có người chống lưng, kiểm điểm tước chức ông tham quan đã về hưu, khai trừ bà hiệu trưởng gian trá ..vv.., cũng đủ làm cho báo chí & người dân sung sướng, bàn tán xôn xao cả tháng, quên cả chuyện cá mắm ngoài khơi. Nhưng có lẽ rồi cũng như mọi lần, những câu chuyện sẽ chìm vào quên lãng, đợi chờ những giọt mưa sau !

Vốn dĩ lâu nay bịnh nặng thì vái tứ phương tám hướng, nên chuyện thèm thấy thèm nghe cũng đâu phải chỉ dừng ở đấy.  Còn ngoài kia thì cứ tin thật, tin giả, hoang tưởng, tâm thần, cơ hội, a dua ... đầy rẫy, len lỏi mỗi ngày, dày đặc như sương mù. Ai nói được thì nói, chửi được thì chửi, nghe được thì nghe, tin được thì tin. Đã hạn hán thì đâu phải chỉ chờ đợi mưa thu, mưa phùn, mà mưa rào, mưa dông ... thậm chí bão bùng gì cũng hóng tuốt. Nơi nào có thóc thì có chim, nước trong nước ngoài gì cũng thế, nên dĩ nhiên cũng không thiếu những thầy bùa, thầy pháp, múa may, hứa hẹn hão huyền. Chỉ một Bá Kiến mà lắm Chí Phèo. Chí Phèo của làng Vũ Đại ngày xưa, chỉ lo yêu Thị Nở và chửi đời. Chí Phèo thời nay còn phải cực nhọc đối phó với nhiều Chí Phèo khác nữa, nhiều khi quên mất Bá Kiến, nên cũng khó khăn lận đận lắm :-). Lâu nay nghe thiên hạ thường nói nhiệt tình cọng với kém hiểu biết là phá hoại. Nhưng để nhận ra và chấp nhận sự "kém hiểu biết" của mình đã khó, đặc biệt trong lúc "nhiệt tình" lại càng khó nhận ra hơn. Ai tự nhận mình phá hoại bao giờ ?

Mới tuần rồi, một bà chị gởi mình hình con chim bồ câu chụp ở SG (đến màu sắc cũng giả), một ông anh gởi hình người phụ nữ mưu sống trên sông trước trước khu biệt thự sang trọng. Mình đã lặng im nghĩ về những giọt mưa khiêm tốn rơi trên cánh đồng hạn hán của quê mình. Giọt mưa nào đã nhỏ xuống cho quê hương ?

Nhớ đến Erich M. Remarque trong "Chiến Hữu" có nói câu “It's only terrible to have nothing to wait for.” (Tạm dịch: Thật là khủng khiếp nếu không có gì để đợi chờ). Mình thì nghĩ sẽ khủng khiếp hơn nếu những gì đợi chờ chỉ là những điều không có thực !





Friday, March 03, 2017

Một bài viết hay !

Hôm trước có viết về Thầy Abhinyana, một tu sĩ Phật giáo người Anh. Trước lúc mất, Người tự viết bài đưa tang cho chính mình "My Funeral-Service".  Có người email nhờ mình gởi nội dung bài viết đó. Hôm nay xin đăng lại ở đây . Một bài viết hay !

====================================================


MY FUNERAL-SERVICE

By the time this tape is played for its intended purpose, I will, perhaps, know what, if anything, lies on the other side of death. Surely, this is something that most people think about now and then. Many people live in dread of it; others live in hope and anticipation of a better life hereafter.
Although I accept the concept of the continuation of life after the body’s death, I must confess that, at the time of recording this, I know no more about it than the majority of people; it remains a concept, but it is not something that has had a great influence upon my living ~ that is, I do not live in fear or hope of the afterlife.
Years ago, I had a glimpse of what I took, and still take, to be Reality, a vision of the essential unity of all things, and of how self, in the sense of separate existence, is an illusion. Since then, I have tried to live with this vision in mind, as a guiding principle, even though I have had little success.
I have recorded this tape, not because of an egoistic desire to be in control of things even beyond my death, as I have seen that we have very little control over our lives even while we are alive, and not nearly as much as we think we have, but because I do not want anyone to perform what I regard as useless ceremonies for me; I have seen too much of such things, and have neither respect for nor confidence in them.
I have performed funeral services for numerous other people over the years, so now, for a change, I want to perform my own.
I have long felt that a funeral-service is more for the living than for the dead, as I don’t know if we can help the dead in any way, but I do feel that we might help some of the living somewhat, and a funeral-service provides a wonderful opportunity for reflection upon the nature of our lives. These words, therefore, recorded in advance of my demise ~ though how far in advance I have no way of knowing ~ may be regarded as my parting gift.
For many years, I have been a merchant of words, trying thereby to touch people, press their buttons, and inspire them to live, not just for themselves, but to open their hearts and minds and expand their mental horizons, to embrace an ever-greater portion of the life around them. Words will remain words, however, if we do not test and apply the ideas embodied in them in our lives.
Let us listen now, to an old Beatles’ song called “Within You, Without You”, which had a great effect upon me when I was just setting out on my spiritual quest and groping along in the darkness.


“We were talking
About the space between us all,
And the people who hide themselves
Behind a wall of illusion,
Never glimpse the truth,
Then it’s far too late,
When they pass away.
We were talking
About the love we all could share,
When we find it, to try our best
To hold it there,
With our love, with our love
We could save the world
If they only knew.
Try to realize it’s all within yourself,
No-one else can make you change;
And to see you’re really only very small,
And life flows on within you and without you.
We were talking
About the love that’s gone so cold,
And the people
Who gain the world and lose their souls,
They don’t know, they can’t see;
Are you one of them?
When you’ve seen beyond yourselves
Then you may find
Peace of mind is waiting there;
And the time will come when you see we’re all one
And life flows on within you and without you.”


* * * * * * *

There was a clan of people in India known as the Kalama tribe. They had seen and heard many wandering teachers and preachers, and were confused, because each teacher seemed to expound his own views about things and condemn the ideas of others. One day, they heard that the Buddha was staying nearby, and, His fame having reached them sometime earlier, they decided to go to see Him and put their doubts and confusion before Him. They told Him that they didn’t know what to believe and what not to believe, and the Buddha gave them the following advice, which is as refreshingly clear and practical now as it was so long ago. It is known to us as The Kalama Sutta.
“It is right, Kalamas, that you should doubt. Doubt has arisen in you over things that are doubtful.
“Come, Kalamas; do not believe in anything, simply because you have heard it.
“Do not believe in traditions, just because they have been handed down for many generations.
“Do not believe in anything just because it is spoken and rumored by many.
“Do not believe in anything just because it is found written in books that are considered sacred.
“Do not believe in what you have imagined, thinking that, because it is extraordinary, it must have been inspired by a supreme being or other wonderful beings.
“Do not believe in anything merely on the authority of your teachers, elders and priests.
“But, when you know for yourselves: these things are immoral, these things are blameworthy, these things are censured by the wise, these things, when performed and undertaken, conduce to ruin and sorrow, then should you reject them. And, when you know for yourselves: these things are moral, these things are blameless, these things are praised by the wise, these things, when performed and undertaken, conduce to well-being and happiness, then accept them and act accordingly.”

The same test, said the Buddha, should be applied to His own teachings: “Do not accept my Teachings from reverence, but first test them as a goldsmith would test gold.
Another song, about friendship, joy and adventure that used to inspire me, is called, “Lovely To See You Again”, by the Moody Blues. Here it is:
“Wonderful day
For passing my way,
Knock on my door,
Even the score
With your eyes.
Lovely to see you again, my friend,
Walk along with me to the next bend.
Dark cloud of fear
Is blowing away,
Now that you’re here,
You’re going to stay,
‘Cos it’s
Lovely to see you again, my friend,
Walk along with me to the next bend.
Tell us what you’ve seen
In faraway forgotten lands,
Where empires
Have turned back to sand.
Wonderful day
For passing my way,
Knock on my door,
Even the score
With your eyes.
Lovely to see you again, my friend,
Walk along with me to the next bend.


* * * * * * *

Here, I wish to read from one of my books, Because I Care, but, as to me, this reading should now be understood in the past tense.
Sometimes, like most people, I imagine, I get frustrated and depressed, and wonder where I am going. Sometimes, I cannot see the next step ahead of me, and it seems like I’ve come to a dead-end. Sometimes, when things are difficult, and there seem to be no results, or I get results other than the ones hoped for, I wish I had never gotten into this line of things. And sometimes, death would not be unwelcome; it would be a release.
But, when I get to feeling like this, I turn round and look back on the way by which I reached the present. And do you think that my way was as straight as an arrow? Of course, it wasn’t, not for more than a short distance at a time, but twisted and turn, climbed and fell, and sometimes even disappeared below ground, only to reappear again elsewhere. Many times, there were obstacles, which, at the time, seemed insurmountable. The road was often potted with pot-holes of despair, there were sufferings and sicknesses, lethargy and blues, times when I was depressed and stuck in the doldrums, and didn’t know what to do. There were times when I was lonely and sad, times of danger and fear, and times when the road ran near to hell. It is a miracle that I survived, yet survive I did and survive I do at the time of writing this. Is this not a cause for rejoicing? And does not my looking back on all the pains, defeats and failures, the facing of dangers and obstacles, and the surviving thereof, help me to face other such things with courage and understanding? I have run the gauntlet of the past and survived, and have learned something from it, and am even able to use it to deal with the problems and pains of the present. This, surely, is no small achievement. Has not my life ~ your life, our life ~ been an overall success therefore? Moreover, I am now able to use my life to help others to see things in the same way. If I had given up in despair, as I have wanted to, many times, in the past, I would not have what I now have to share with others who might be able to benefit from it ~ and there are many such people, I know.
But, through all my pain and frustration, I persisted, often with no conscious goal or purpose, and managed to reach the present. How I managed, I do not know, but I’m glad that I did, I’m happy that I have discovered something of my potential, something of value which, by sharing it with others, is not diminished, but only increased thereby. I cannot explain it, but must stand, unashamedly, with my mouth open, speechless in wonder at the way I have come. And was not your way also wonderful?
I will take no more of your precious time. My ceremony will end here with John Lennon’s best song, “Imagine”. Thankyou, and farewell.
Imagine there’s no heaven ~
It’s easy if you try ~
No hell below us,
Above us, only sky.
Imagine all the people
Living for today.
Imagine there’s no country ~
It isn’t hard to do ~
Nothing to kill or die for,
And no religion, too.
Imagine all the people
Living life in peace.
You may say I’m a dreamer,
But I’m not the only one;
I hope some day you’ll join us,
And the world will be as one.
Imagine no possessions,
I wonder if you can,
No need for greed or hunger,
A brotherhood of man.
Imagine all the people
Sharing all the world.
You may say I’m a dreamer,
But I’m not the only one;
I hope someday you’ll join us,
And the world will live as one.
* * * * * * *



Thursday, March 02, 2017

Bài nói chuyện đầu tiên của T/T Trump với quốc hội Mỹ

Hôm qua, tại buổi nói chuyện lần đầu tiên với quốc hội lưỡng viện, ông Trump được khen là nói chuyện với ngôn từ nhã nhặn, có tầm của một vị tổng thống. Rất mong ông duy trì được phong thái này trong những ngày tới.







Monday, February 27, 2017

The Empty Chair - by Sting

Ca khúc "The Empty Chair" (chiếc ghế trống) được J. Ralph viết để nhớ đến nhà báo James Foley, người Mỹ đầu tiên bị đám khủng bố ISIS giết năm 2014, đã được ca sĩ Sting hát đêm qua tại giải Oscar 2017. Rất xúc động !


Friday, February 24, 2017

Tên tuổi & ông Thầy

Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều lúc thấy thiên hạ đánh bóng, thêu dệt danh xưng, tên tuổi, hoặc đề cao quá đáng cái tôi “vĩ đại” của họ, đặc biệt là những bậc tu hành, thì mình lại nhớ tới "ông Thầy" của mình. Một người mà đến giờ mình cũng chẳng còn nhớ đến tên thật (trong khai sinh) của ông, mặc dù rất mực tôn kính. Thực ra thì ngày xưa cũng có đôi lần mua vé xe tàu gì đấy cho Thầy, nhưng rồi không có ý nhớ, nên cũng quên mất. Mà nếu muốn biết thì cũng không khó lắm, nhưng biết tên hoặc danh xưng để làm gì, trong khi có cái tên "Thầy" để gọi, vừa gần gũi lại vừa tôn kính hơn. Đại đa số các tăng ni khi đã xuất gia cũng không còn xài đến tên tuổi hoặc bằng cấp địa vị, danh xưng, của ngày trước nữa.
Nhớ hồi mới gặp Thầy lần đầu ở Indonesia, mình tự giới thiệu và hỏi ông tên là gì ? Thầy trả lời bằng tiếng Việt:
- Tôi tên là "ông Thầy" .
Mình ngạc nhiên hỏi tại sao, Thầy hài hước trả lời:
- Người VN thường gọi tôi như thế, là "ông Thầy". Tên nào thì cũng chỉ để gọi thôi !
Đơn giản, thế là xong, cũng chẳng phải thiền sư hay pháp sư, hòa thượng hay đại đức gì cả. Nhưng đó lại là bài học đầu tiên về chữ Ngã mà mình học được từ “ông Thầy”. Thời gian sau, có dịp ở gần nhau, nghe nói chuyện, nghe thuyết pháp, hoặc đi đây đi đó giúp Thầy làm một số công việc nho nhỏ cho cộng đồng, mình lại có dịp học hỏi được nhiều thứ hơn.

Rồi cuộc sống mỗi người mỗi ngã, ai cũng có đường đi của mình. Sau khi ở Indonesia, mình đi Mỹ, Thầy còn lưu lại bên châu Á một thời gian nữa, rồi sang Úc. Không gặp nhau, nhưng thỉnh thoảng vẫn thư từ qua lại. Thầy vẫn như người lữ hành, ung dung tự tại, đi để mà đi... Thầm lặng bên lề xã hội và cuộc sống đầy rẫy những toan tính, hơn thua danh lợi, kể cả những bon chen chức sắc trá hình tôn giáo. Đơn giản hành trang, tài sản của Thầy chỉ là một vài bộ quần áo và ít đồ dùng cá nhân. Đơn độc hành trình, có khi Mã Lai, có khi Singapore, có khi Úc, có lúc lại phiêu bạt tận vùng núi Tây Tạng lạnh lẽo, rồi có lúc ở trại tị nạn Bataan, Galang, chen chúc đợi chờ. Không màng tên tuổi, không câu nệ miếng ăn chỗ ngủ, không quản ngại khó khăn, Thầy luôn gần gũi thân thiện, kiên nhẫn giúp đỡ kẻ khác, không phân biệt sang hèn, địa vị, xuất xứ. Có nhiều lúc Thầy đi đến những vùng đất thiếu thốn xa xôi, dùng sự hiểu biết của mình để giảng giải đạo pháp cho tha nhân, hoặc cho những người tị nạn vừa mới trãi qua hành trình sinh tử đi tìm đất sống. Thầy dạy dỗ và giúp đỡ họ cùng thực hành sống tử tế, biết tôn trọng cái chung, biết nghĩ cho người khác, bắt đầu từ những chuyện nhỏ nhặt như giữ gìn vệ sinh chung một cái cầu tiêu công cọng hoặc chung sống hoà thuận nhau trong một lều trại nhỏ bé.... 

Rồi cứ thế mà đi suốt cả hành trình, Thầy chẳng sở hữu một tài sản gì, kể cả một cái am cái cốc nho nhỏ để nghỉ ngơi. Đến đâu, tìm đỡ một ngôi chùa hoặc tu viện xin trú chân, rồi lại đi tiếp. Có khi đến chỉ để giảng giải một vài điều gì đó cho thiên hạ, giúp đỡ người đời hiểu biết đạo pháp đúng đắn hơn, tránh những ngộ nhận mê tín trong việc thực hành tu tập hàng ngày. Thậm chí có lúc đơn giản đến chỉ để xây cất vài cái cầu tiêu cho người tị nạn (VN), rồi khuyên bảo họ ý thức hơn, biết giữ gìn vệ sinh chung và cố gắng chung tay góp sức làm những điều tốt tương tự cho chính họ và cho đồng bào của họ. Nhiều lúc Thầy lặn lội đến những trại tỵ nạn chỉ để tâm tình với người tỵ nạn bằng những ngôn từ gần gũi nhất, an ủi và giúp họ hiểu rằng hận thù không phải là đáp án cho sự ra đi. Không ai thay thế sự tàn bạo này bằng một sự thù hận khác. Cũng có lúc Thầy đến nhiều nơi để đích thân đi khất thực, đi hoá duyên, đem tài vật về phân phát cho đồng bào tị nạn ..v.v..Và cứ thế mỗi ngày đi tới, những bước chân thầm lặng, kiên nhẫn, bao dung, và cống hiến. Đi để khám phá bản thân, khám phá cuộc sống, để học hỏi, để tu tập, để thực chứng, để san sẻ cái biết cho nhiều người khác, và cùng chung sống hòa đồng, giúp đỡ lẫn nhau những con người xa lạ. Trong số đó có rất nhiều người là thuyền nhân VN !

Khi rãnh Thầy vẫn viết lách đều đặn, mỗi năm vẫn cho ra những cuốn sách nói về đạo & đời. Thỉnh thoảng cũng có gởi cho mình coi. Dĩ nhiên tên tác giả thì có lúc là Abhinyana, lúc thì Beachcomber, lúc Anatta, có lúc cũng chẳng cần có tên tuổi gì. Sách in ra được cũng là do thiên hạ tuỳ hỉ đóng góp mà có. Thầy chỉ có công viết, còn sách là của chung thiên hạ. Ai muốn in thêm ra cũng được, chẳng cần phải có copyright, ai hiểu thì đọc, ai thích thì copy. Ông Thầy thường hóm hỉnh ghi ở tờ bìa của quyển sách vài câu về "copyleft" :-). Cho tới bây giờ, lâu lâu đọc cái “copyleft" ở mấy cuốn sách, mình vẫn cảm thấy khôi hài. Bỗng nghĩ đến hoàn cảnh khó khăn của một số nhà văn nhà thơ quê mình cả trong nước và ngoài nước. Lo lắng in sách để được vô hội, để ra mắt thân hữu, rồi lại lo lắng đi kiếm người đọc, mua bán đem biếu đem tặng lại lo chẳng có người coi. Thế rồi lại phải canh cánh chuyện copyright, chuyện bản quyền, ngộ nhỡ biết đâu mai mốt gặp thời nổi tiếng :-). Âu cũng là những nỗi lo toan !

Trở lại chuyện ông Thầy. Có một thời gian dài, bận rộn việc đi học đi làm và di chuyển chỗ ở, mất liên lạc nhau, mãi đến cuối thập niên 90, mình mới liên lạc lại được với Thầy. Sau đó vài năm, Thầy qua Mỹ đi thuyết giảng dài ngày, có ghé thăm mình và ở lại vài tuần. Vẫn không thay đổi mấy, Thầy vẫn đơn giản gọn nhẹ, từ ăn uống đến giao tiếp, từ hành trang cho đến hành trình. (Mở ngoặc chút, lâu nay thỉnh thoảng mình cũng may mắn được gặp một số người có tư duy và trí huệ rất đáng kính nể, thì dường như bề ngoài của họ lại rất giản dị. Có lẽ không có gì để chiếm hữu, để hơn thua, nên cuộc sống của họ rất đơn giản và nhẹ nhàng, ít câu nệ và không cố chấp.)

Có một kỷ niệm nho nhỏ với Thầy mà mình còn nhớ hoài. Năm đó lúc Thầy ghé thăm nhà mình thì có một cộng đồng VN ở một thành phố miền đông nước Mỹ mời Thầy đến nói chuyện. (Hình như họ đã sắp xếp việc mời Thầy đến Mỹ nói chuyện từ lâu rồi, mình cũng không được biết). Đến cận ngày, ông Thầy có nhờ mình chở đến, địa chỉ cách thành phố mình ở không xa lắm, tầm hơn một giờ lái xe. Đó là một ngôi chùa VN, mà mình cũng chưa từng đến đó bao giờ. Tới nơi, thấy đã có rất nhiều người tập trung, hội trường tươm tất, đông đủ. Một vài người VN trong chùa, đại diện ra chào hỏi, mời Thầy vào và giới thiệu chức sắc gì đó. Có người ra hỏi mình sẽ giới thiệu Thầy như thế nào, là hoà thượng hay thượng toạ. Mình không biết trả lời sao, nhìn ông Thầy cầu cứu, thấy ông ta nheo mắt cười. Mình nghĩ có lẽ ông cũng từng quen thuộc với hoàn cảnh như thế này, nên nói với họ:
 - Anh cứ hỏi Thầy đi, chắc là gọi danh xưng gì cũng được mà. Rồi mình chào Thầy, cáo lui:
- Con ra đợi ngoài sân, khi nào Thầy giảng xong, con sẽ vào đón về.
Một lát sau, ông anh đấy lại ra tự giới thiệu về mình. Trông anh rất nhiệt tình, mình rất cảm kích, nhưng tính mình không để ý mấy, thoáng chốc lại quên mất tên.
- Tôi là tiến sĩ ...(tên gì gì đó giờ quên rồi), đang dạy ở trường ĐH tại TP đây. Hôm nay tôi sẽ dịch bài giảng này. Anh có phiền không ?
- Dạ, chắc là anh hiểu lầm rồi. Em chỉ lái xe chở dùm Thầy đến đây, chứ em không phải là thông ngôn viên. Xin anh cứ tự nhiên. Em không biết lâu nay Thầy đi nói chuyện ở Mỹ thì việc thông dịch thông ngôn như thế nào, anh vào hỏi Thầy sẽ rõ hơn. Thầy cũng có hiểu chút ít tiếng Việt đấy. Mình trả lời như thế, rồi xin cáo lui.

Đại khái hôm ấy mình còn nhớ Thầy nói về đề tài "Nhìn và Thấy". (Look vs. See). Buổi nói chuyện kéo dài cũng khá lâu, có phần hỏi đáp nữa. Mình ở ngoài sân hút thuốc, cũng nghe lỏm bỏm được phần nào bài nói chuyện qua tiếng loa của chùa. Nói chuyện xong, ban đại diện chùa và bà con VN có mời ở lại ăn tối, nhưng có lẽ Thầy ngại về khuya phiền cho mình, nên từ giã đồng bào, rồi đi về sớm.
Trên đường lái xe về, mình im lặng để Thầy nghỉ ngơi. Bỗng ông hỏi:
- Con có nghe bài nói chuyện phải không ?
- Dạ có chút chút.
- Đôi khi thiên hạ cũng dễ hiểu lầm ý nghĩa thực sự của chữ "Nhìn" và "Thấy".
- Sao Thầy nói vậy ?
- Thầy cũng thường có những buổi nói chuyện như thế này. “Nhìn” người nghe, có thể “thấy” được người nói. Ông cười khẽ giải thích.

Quả nhiên là đôi lúc qua người nghe có thể hiểu được người nói, qua người học trò có thể biết được ông thầy. Mình im lặng, nhưng thầm phục sự thông minh, nhận xét tinh tế của Thầy. Thực ra để dịch thuật đúng nghĩa những bài giảng tôn giáo có hàm ý sâu sắc, rất khó. Hiểu biết về ngôn ngữ chưa đủ, mà còn cần có những kiến thức cơ bản của triết lý tôn giáo hoặc các khái niệm trong đạo pháp. Thông dịch thông ngôn trực tuyến lại càng khó khăn hơn. Ngay cả trong việc dịch sách cũng vậy, đôi khi có một số dịch giả hoặc không hiểu hết ý, hoặc quá tài giỏi, nên đã quy chụp và nhồi nhét những tư tưởng của họ vào ý của tác giả. Thậm chí có nhiều lúc diễn đạt sai lệch hoàn toàn ý chính của người viết. (Ví dụ như khi đọc một số sách hoặc kinh điển được dịch sau năm 75, so với các bản dịch trước kia thì thấy có nhiều điểm khác biệt).
Trở lại câu chuyện, nhớ lúc đó mình chỉ biết im lặng lắng nghe Thầy nói mà không có ý kiến gì. Mình vốn quan niệm rằng trong cuộc sống này, để nghe và để hiểu đúng một vấn đề, thường phải hội đủ nhiều yếu tố cần thiết. Thực tế có nhiều người cho dù nghe cùng một bài giảng, một bài thuyết pháp thì chắc gì lại hiểu giống nhau. Tương tự như thế, nhiều vị truyền giáo, cha đạo, sư thầy, giảng viên..v.v. cho dù cùng đọc một cuốn sách, một quyển kinh, nhưng chắc gì lại hiểu giống nhau mà truyền đạt lý giải nội dung giống nhau ? Cho nên đi nghe thuyết pháp mà gặp được ông Thầy nói chuyện hay, gặp được người thông ngôn dịch đúng, cũng là một duyên lành vậy. Và tất nhiên kiến thức cũng như khả năng tiếp thu của mỗi con người cũng vậy, là do duyên mà có được. Mình đơn giản, nên luôn quan niệm rằng mỗi người có cái duyên cái nghiệp khác nhau, và ai cũng đều có cái "tôi", cái "ngã" của riêng họ. Người nào cái ngã càng lớn, thì cuộc sống của họ càng phức tạp. Xưa nay có nhiều người cứ nghĩ là đang sống cho bản thân, nhưng thực ra là họ đang sống cho thị phi thiên hạ chung quanh. Ngược lại, cũng không hiếm những người cứ nghĩ rằng đang sống cho thiên hạ, đang phục vụ cho bá tánh, nhưng thực ra là đang sống cho cái tôi ích kỷ của họ. Nhưng cũng như ly nước đầy rồi thì khó rót thêm, người luôn nghĩ mình đúng thì khó lắng nghe người khác, nên khó chấp nhận được cái hay cái mới. Càng tự phụ tự mãn, thì lại càng dễ bị nhầm lẫn và ngộ nhận, mà đôi khi biết mình sai cũng chẳng dám nói ra…. Mình chỉ trộm nghĩ vậy, rồi lái xe chạy vội về nhà, xào vài món chay, thầy trò cùng ăn tối với nhau.

Rồi sau năm đó, công ty gởi mình ra nước ngoài làm việc dài ngày. Còn Thầy thì vẫn tiếp tục đi chu du đây đó. Thế là lại mất liên lạc. Đến năm 2008, một người bạn email thông báo cho mình biết Thầy hiện đang yếu lắm, sắp lìa đời bên Úc. Lúc đó đang làm việc tại VN, nghe tin mình lặng người nhưng chẳng biết làm sao liên lạc được với Thầy. Dẫu biết sống chết là những chuyện thường tình và tất nhiên trong đời sống này, nhưng rồi cũng có chút hụt hẫng. Vài ngày sau đó, được tin Thầy mất. Người quen bên kia gởi cho mình bản copy của cuốn sách Thầy đang viết dở dang, và bài “điếu văn” viết trước để tự đưa tang cho chính Thầy - "My Funeral Service". Vẫn sâu sắc, khôi hài, phóng khoáng, phiêu lãng bồng bềnh .... Thầy kết thúc lời chia tay của mình với thế gian trong bài “Tang lễ của tôi” bằng bài hát nổi tiếng của John Lennon - Imagine. Nhớ lúc đọc xong, mình không buồn lắm, có chút vui vì Thầy đã ra đi thanh thản. Tuy nhiên, có chút tiếc nuối là sẽ không còn có dịp gặp nhau nữa, nhất là không được ở gần trong những ngày cuối đời của Thầy.

Cuộc đời đơn giản thế đó. Đến rồi đi, duyên tao ngộ của cuộc sống. Mặc dù Ông Thầy đi rồi, nhưng lâu lâu mình vẫn cứ nhớ. Vẫn còn nhiều chuyện để nghĩ, để học, để nói về Thầy. Bữa rồi, vô tình đọc trên mạng một bài viết của người nào đó  viết về Thầy, mình lại nhớ, rồi hôm nay ngồi viết lan man...
Quả nhiên là lạ, một ông Thầy không tên không tuổi, nhưng mình vẫn cứ nghĩ đến, vẫn học hỏi được rất nhiều. Ngược lại, đặc biệt là những năm gần đây, nhiều khi đi công việc cả trong nước ngoài nước, may mắn gặp được nhiều vị sư thầy tiến sĩ giáo sư, quyền cao chức trọng, nhưng mình lại không nhớ nỗi. Nhiều vị chức sắc đầy rẫy, trụ trì chùa to chùa lớn, thao thao bất tuyệt trên thông thiên văn dưới rành địa lý. Nhiều vị giỏi cả bói toán tâm linh, oan gia trái chủ, chính trị kinh tế thị trường, thiên đường âm phủ, âm dương ngũ hành, phong thủy tài lộc ...Có cả những vị chức sắc đình đám, tấm cạc visit dài ngoằn, danh xưng chức vụ chiếm gần hết cả tờ giấy. Nhưng rồi chỉ vài phút sau mình lại quên mất họ là ai, chả nhớ gì hết trọi. Âu chắc cũng do mình kém duyên với họ vậy !






Wednesday, February 22, 2017

Giới thiệu kinh Trường A Hàm

KINH TRƯỜNG A HÀM
Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

PHÀM LỆ

1. Bản dịch Việt, Trường A hàm, được thực hiện theo bản Hán dịch Trường A hàm kinh 長 阿 含 經, 22 quyển, do Phật-đà-da-xá 佛 陀 耶 舍 (Buddhayaśsa) tuyên đọc thuộc lòng (ám độc) bản Phạn, và Trúc Phật Niệm truyền dịch sang Hán văn.
2. Về để bản, bản dịch Việt căn cứ trên ấn bản “Đại chánh Tân tu Đại tạng kinh” 大 正 新 修 大 藏 經, 100 tập, mỗi tập hơn 1000 trang chữ Hán cỡ 10pt. Trong đó, “A hàm bộ” gồm hai tập, 151 kinh (No.1- No.151). Trường A hàm kinh (No.1), thuộc “A hàm bộ” I, tập 1, từ trang 1-149.
3. “Đại chánh Tân tu Đại tạng kinh”, từ No.2-No.25, là những bản Hán dịch lẻ tẻ các kinh thuộc Truờng A hàm. Đây là những bản kinh thuộc nhiều bộ phái khác nhau, do đó nội dung chứa đựng ít nhiều dị biệt. Trường A hàm hiện tại được phần đông các nhà nghiên cứu cho rằng thuộc Pháp tạng bộ (Dharmagupta), tức cùng bộ phái với Tứ phần luật 四 分 律 (Đại chánh, tập 22, No.1428). Công trình Việt dịch trong hiện tại chỉ thực hiện trên bản Hán Trường A hàm (Đại chánh, No.1). Các bản Hán dịch lẻ tẻ khác (Đại chánh, No.2-151) được dùng làm tư liệu đối chiếu.
4. Về xử lý văn bản trong khi phiên dịch, phần lớn căn cứ công trình hiệu đính và đối chiếu của Đại chánh. Ngoài ra, tham khảo thêm các công trình hiệu đính và đối chiếu khác, trong đó chủ yếu:
- Phật quang Đại tạng kinh, A hàm bộ 佛 光 大 藏 經, 阿 舍 部; Phật quang xuất bản xã, Đài bắc, 1993.
- Trường A hàm kinh 長 阿 舍 經, bản dịch bạch thoại, Thích Ngộ Từ (Shi Wu Ci) 釋 悟 慈; Đài nam, 1997.
-“Kokuyaku-issaikyoâ”,A-gom-bu,Choâ-a-gon-kyoâ, 國 譯 一 切 經 阿 舍 部, 長 阿 經, bản dịch tiếng Nhật của Shin-Ô Iwano 岩 野 真 雄; Tokyo 1969.
5. Giữa các ấn bản có những điểm khác nhau, bản Việt sẽ lựa chọn hoặc hiệu đính theo nhận thức của người dịch.
6. Trong bản Hán, nếu chỗ nào xét thấy văn dịch hay từ ngữ không phù hợp với giáo nghĩa truyền thống phổ biến, người dịch sẽ tham khảo các Kinh, Luật, Luận cần thiết để hiệu chính. Những hiệu chính này được giải thích ở phần cước chú.
7. Bản Hán dịch thực hiện căn cứ trên sự truyền khẩu. Do đó những từ phát âm tương tự dễ đưa đến ngộ nhận, như sam Pāli hay sama và samyak; cala và jala; muti và muṭṭhi,v.v…
Trong những trường hợp này, người dịch sẽ tham chiếu các kinh tương đương, các bản Hán biệt dịch, suy đoán tự dạng nguyên thủy có thể có trong Phạn bản để hiệu chính. Những hiệu chính này đều được ghi ở phần cước chú.
8. Do các truyền bản khác nhau giữa các bộ phái, để có nhận thức về giáo nghĩa nguyên thuỷ, chung cho tất cả, cần có những nghiên cứu đối chiếu sâu rộng. Công việc này ngoài khả năng hiện tại của các dịch giả. Tuy nhiên, trong trường hợp có thể, những điểm dị biệt giữa các truyền bản sẽ được ghi nhận và đối chiếu. Những ghi nhận này được nêu ở phần cước chú.
9. Bản Hán dịch được phân thành 22 quyển. Bản dịch Việt không chia số quyển như vậy, nhưng sẽ ghi ở phần cước chú mỗi khi bắt đầu một quyển khác.
10. Nội dung bản Hán dịch được xếp thành bốn phần, mỗi phần gồm số kinh nhiều ít khác nhau. Bản dịch Việt giữ nguyên sự phân chia này.
11. Các bản Hán biệt dịch được dùng làm tài liệu tham chiếu đều là các ấn bản của Đại chánh Đại tạng kinh. Số quyển được dẫn sẽ ghi là “Đại” theo sau là số La-mã chỉ thứ tự số quyển. Thí dụ: Đại XXII, nghĩa là, Đại chánh Tân tu Đại tạng kinh, tập thứ 22. Mặc dù ấn bản Đại tạng này được tái bản nhiều lần, với nhiều nhà xuất bản khác nhau, nhưng số quyển và số trang mỗi quyển được xem là cố định. Do đó, trong các trích dẫn không cần thiết ghi năm và nơi tái bản.
12. Mỗi trang của ấn bản Đại chánh chia làm ba phần. Trong trích dẫn, các phần này được ghi là a, b, và c ngay sau số trang. Trường hợp cần thiết, có thể ghi cả số dòng. Thí dụ: Đại X, tr.125b, hay Đại X, tr,125b24.
13. Vì lý do phải thường xuyên di chuyển trú xứ, mà khi di chuyển không thể mang theo các tài liệu cần thiết, do đó, khi tham chiếu các bản Pāli tương đương, người dịch đã phải sử dụng nhiều ấn bản Pāli khác nhau. Chủ yếu là ấn bản Latinh, ấn bản Devanagari, và bản CD Rom. Số trang, số đoạn các bản không đồng nhất. Do đó các trích dẫn Pāli đối chiếu thường không thống nhất. Khi nào điều kiện thuận tiện, hoàn cảnh cho phép, những sự bất nhất này sẽ phải được chỉnh lý cho thống nhất.
14. Phần lớn các từ Phật học trong bản Hán dịch này không phổ biến. Do đó có thể gây khó khăn cho việc đọc và nghiên cứu. Trong các trường hợp như vậy, tuy vẫn giữ nguyên dịch ngữ của bản Hán, nhưng dịch ngữ tương đương thông dụng hơn sẽ được ghi trong phần cước chú. Trong trường hợp có thể, sẽ ghi luôn dịch giả của những dịch ngữ này và xuất xứ của chúng từ bản dịch nào để tiện việc tham khảo.
15. Theo thói quen, trong các bản dịch Việt từ Hán văn, những từ phiên âm tiếng Phạn đều được viết hoa, không phân biệt từ riêng hay từ chung. Thí dụ, do trang phục dị biệt, trong Hán văn không từ nào chính xác tương đương với uttarāsaṅga của tiếng Phạn, nên phần lớn được phiên âm là uất-đa-la-tăng, và trong các bản dịch Việt, từ phiên âm này luôn luôn viết hoa. Bản dịch Việt Trường A hàm sẽ cố gắng chuẩn hóa cách viết các từ , phiên âm, cũng như các từ dịch nghĩa, để có thể phân biệt từ riêng và từ chung.
- Vì tiếng Phạn là ngôn ngữ đa âm tiết, trong khi Hán là ngôn ngữ đơn âm. Để phiên âm một tiếng Phạn, cần nhiều từ Hán. Những từ Hán phiên âm này sẽ được liên kết nhau bằng dấu nối. Thí dụ: Xá-lợi-phất, là phiên âm của một từ tiếng Phạn: Śāriputra (Skt) hay Sāriputta (Pāli). Nhưng nếu viết Xá-lợi Tử, đó là hai từ ghép với nhau, một từ phiên âm, và một từ dịch nghĩa. Sự phân biệt này rất cần thiết để tránh nhầm lẫn đã xảy ra như từ đàn việt, được giải thích là bố thí để siêu việt tam giới, do nhận thức rằng từ này ghép một phiên âm Phạn của dāna (bố thí) và một từ nghĩa Hán. Thực tế, nếu đàn-việt được viết với dấu nối, nhất định đó là phiên âm của dāna-pati (thí chủ).
- Những từ phiên âm, nếu là từ riêng, không phân biệt nhân danh hay địa danh, đều được viết với chữ hoa ở đầu. Các chữ tiếp theo đều viết thường và liên kết với nhau bằng dấu nối. Nếu tên riêng do ghép nhiều từ Phạn, mỗi từ bắt đầu bằng chữ hoa ở phiên âm. Thí dụ: Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử, cách viết cho thấy có ba từ Phạn ghép lại với nhau: Nirgrantha-Jñaṭi-putra.
- Những tên riêng được dịch nghĩa, nếu là địa danh, chỉ chữ đầu được viết hoa, và không có dấu nối. Thí dụ: Vương xá thành. Nhưng nếu là tên người, tất cả đều viết hoa, không có dấu nối. Thí dụ: Khánh Hỷ.
16. Cuối cùng là các sách dẫn. Sách dẫn chủ yếu lá các từ Hán, bao gồm danh từ Phật học, nhân danh và địa danh. Một số từ không phải là thuật ngữ, nhưng trong Hán dịch tối nghĩa, cần suy đoán nguyên hình tiếng Phạn để xác định ngữ nghĩa. Những từ này cũng được liệt kê trong bảng sách dẫn.
17. Một số câu dịch Hán văn tối nghĩa, cần đối chiếu Pāli để suy đoán cú pháp Phạn bản, tìm ý nghĩa gần chính xác để chuyển thành Việt ngữ. Một số câu như vậy cũng được liệt kê trong phần sách dẫn các từ Hán.
18. Mỗi từ Hán trong bảng sách dẫn đều có phụ chú Pāli và Sanskrit để tiện việc tham chiếu.
19. Tài liệu đối chiếu chủ yếu là Pāli, nếu có phụ chú Skt. thì phần lớn là suy đoán. Vì vậy, ở đây chỉ đưa ra một sách dẫn Pāli, xem như bổ túc cho sách dẫn từ Hán dịch.
Quảng Hương Già-lam
Mùa an cư, Pl. 2543
Tuệ-Sỹ cẩn chí
-ooOoo-





Giới thiệu Kinh Trường A-hàm:
Kinh Trường A-hàm, tiếng Phạn là Dìghàgama, tiếng Pàli là Digha-nikàya, gồm 22 quyển, do Ngài Phật-đà Da-xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch vào năm Hoằng Thỉ thứ 15 đời Dao Tần (413), hiện được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập 1. Sở dĩ nói "Trường" là vì do soạn tập những kinh điển dài nhất trong A-hàm mà thành. Theo Tứ Phần Luật 54, Ngũ Phần Luật 30, Luận Du-Già-Sư-Địa 85, nguyên do có chữ "Trường" là vì tổng tập những kinh lớn (dài). Tát-Bà-Đa Tỳ-Ni Tỳ-Bà-Sa 1 thì cho rằng Trường A-hàm là phá dẹp các tà thuyết của ngoại đạo. Luận Phân Biệt Công Đức thì cho rằng "Trường" nghĩa là nói những việc lâu xa, nghĩa là trải qua nhiều kiếp vẫn không dứt. Nói chung về phần định danh, các kinh luận nói khác nhau, xong đại để vẫn vậy.
Toàn kinh chia làm 4 phần, gồm 30 kinh. Trong đó, phần thứ nhất nói về bản thủy và sự tích của Đức Phật; phần thứ hai nói về việc tu tập các hạnh và cương yếu giáo pháp của Phật thuyết; phần thứ ba nói về các luận nạn đối với ngoại đạo và dị thuyết; phần thứ tư ghi chép về tướng trạng khởi nguyên của thế giới (Vũ trụ).
Kinh này tương đương với Trường Bộ (Pàli: Digha-nikàya) trong 5 bộ của hệ Nam truyền. Trường Bộ gồm có 3 phẩm, 34 kinh, tức Giới Uẩn Phẩm (gồm 13 kinh), Đại Phẩm (10 kinh) và Pàli phẩm (11 kinh). Nhưng Thế Ký Kinh trong Trường A-hàm thì không có trong Trường Bộ. Theo Mục Lục Tam Tạng (Anh văn) của học giả Nhật Bản là Nanjò Fumio, nếu đối chiếu 34 kinh bản Pàli với 30 kinh bản Hán dịch thì chỉ có kinh thứ 6 bản Hán dịch và kinh thứ 10 bản Pàli là có mối quan hệ rõ ràng, còn các kinh khác thì không nhất trí với nhau. Nhận xét của một số học giả nổi tiếng khác của Nhật Bản thì ôn hòa hơn, tức cho rằng các kinh tương tợ nhau.
Đặc biệt có Kinh Thất Phật trong Trường A-hàm (Trung Quốc gọi là Biệt Sanh Kinh) được trích riêng ra để dịch rất nhiều (21 loại). Các học giả Tây phương thường dùng bản chép tay Pàli, hiệu đính, phiên dịch rồi xuất bản cũng nhiều, như Dialogues of Buddha, 1909 - 1921, do học giả người Anh là Rhys Davids và phu nhân là J.E. Carpenter phiên dịch; Dic Reden des Gotamo Buddhos, 1907 - 1918, do K..E. Newmann dịch sang tiếng Đức; Das Buch der langen Texte des Buddhist Kanon Leipzig, 1913, do O. Franke dịch sang tiếng Đức. Ngoài ra còn có bản chú thích Trường Bộ Sumangalavilàsinì của Đại luận sư của Tích Lan sống vào thế kỷ V là ngài Phật Âm (Buddhaghosa), được hai vợ chồng Davids xuất bản vào năm 1986.
Trong các bản Sankrit mới phát hiện ở Tân Cương, Trung Quốc có kinh tương đương với Chúng Tập Kinh (Sangìti-sutta) - kinh thứ 9 của bản Hán dịch, và tương đương với một đoạn kinh Atànàtiya-sutta - kinh thứ 32 bản Pàli, được học giả R.Hoernle thu lục trong tác phẩm Manuscrip Remains of Buddhist Literature found in Eastern Turkestan,Vol.1.
Ngoài ra trong Đại Tạng Kinh của Tây Tạng có Hdus-pa chen-pohi mdo tương đương với Đại Hội Kinh - kinh thứ 19 trong Trường A-hàm; Tshans-Pahi dra-bahi mdo tương đương với Phạm Đôĩng Kinh - kinh thứ 21 trong Trường A-hàm; Lcan-lo-can-gyi pho-bran-gi mdo tương đương với Antànàtiya-sutta trong Trường Bộ.

Thích Nguyên Hiền