Tuesday, September 26, 2017
Thu về,
Cây anh đào trước nhà đã vàng rụng lá. Mùa thu lại về !
Hoa cúc, bí đỏ, bày bán đầy chợ. Trời se lạnh, và lá vàng rải rác đó đây. Sáng nay ra trước nhà chụp mấy tấm hình, thấy đám hoa cúc như đã chớm tàn, chắc là thời tiết năm nay nóng lạnh bất thường. Mình bao giờ cũng thích mùa thu. Nhẹ nhàng và bàng bạc. Đi qua nhiều nơi, mới thấy mùa thu của mỗi nơi có khác. Cái đẹp và cái không khí cũng khác nhau. Từ St. Laurent của Quebec, cho đến Thames của London, Seine của Paris, Isar của Munich ....đều mang cái vẻ đẹp lãng mạn châu Âu, nhẹ nhàng & ướt át. Hình ảnh của những chiếc cầu lững lờ sông nước & lá vàng lác đác trên sông....
Còn cái đẹp của mùa thu bên Mỹ lại có vẻ cứng rắn hơn, sâu lắng & trùng điệp hơn. Mình luôn thích mùa thu đi lên núi. Trùng trùng điệp điệp lá vàng, lá đỏ, lá nâu, mà không bị giới hạn tầm nhìn.
Ngày xưa bên châu Âu, khoái nhất là đợi mùa thu đi về Munich. Vừa có Oktoberfest, vừa lên Nuremburg ngắm lá vàng lá đỏ. Nhưng về Mỹ thì lại mê Blue Ridge Parkway. Mùa thu nào cũng đi đó. Bây giờ con cái đùm đề, không còn cái lãng mạn bất cần "ta dìu em dưới bóng nợ nần" nữa, mà phải nghe lời "chỉ đạo" của con. Con muốn ở đâu thì mình ở đó, con muốn dừng đâu thì mình dừng đó :-).
Nhưng phải công nhận là chay xe trên Blue Ridge Parkway mới thấy hết cái mùa thu của núi rừng xứ này. Đoạn đường đèo cả vài trăm cây số, qua bao nhiêu ngọn núi, công viên quốc gia, bạt ngàn cây liền cây, lá liền lá. Rồi buổi chiều dừng lại đâu đó, ghé Grove Park Inn hoặc Biltmore vineyard, nhâm nhi ly rượu vang trên triền đồi, ngắm mặt trời chầm chậm lặn trên đám lá vàng xào xạc, lăn tăn... Tuyệt !
Cho nên sau này về VN đi làm, mỗi lần mùa thu đến, cả con phố cờ xí băng rôn màu đỏ giăng đầy, mình thường thèm đi đâu đó. Đi để tìm cái nhẹ nhàng, tìm cái mùa thu của tuổi thơ có "lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc..". Nhưng rồi bao giờ cho đến ngày xưa? Có chăng thì cũng chỉ là những hoài niệm !
À, mà sao sau này không còn thấy những sáng tác mùa thu tương tự như thế hệ của Thanh Tịnh, Lưu Trọng Lư, Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Ngô Thụy Miên, Cung Tiến, Đặng Thế Phong ....nữa nhỉ ?
Friday, September 22, 2017
Tản mạn từ một bộ phim ....
Một sự ngạc nhiên là đã gần nửa thế kỷ trôi qua nhưng vẫn còn rất nhiều người Mỹ và người Việt quan tâm tới cuộc chiến VN ngày xưa. Mấy hôm nay có nhiều anh em bạn bè email trao đổi về bộ phim "The Vietnam War". Trên mạng, ngoài nước, trong nước, có nhiều dư luận khác nhau. Phản ứng, đồng tình, tức giận, tủi thân, bức xúc .... đủ thứ !
Mình thì lâu nay vẫn cho rằng đa số phim ảnh và sách báo (kể cả sách lịch sử giáo khoa) đều bị chi phối từ những tác động chung quanh. Thông tin có thể trực tiếp hoặc gián tiếp bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị, quan điểm cá nhân, yếu tố xã hội, yếu tố nhân văn, yếu tố địa lý, yếu tố thương mại, yếu tố thời gian ...v.v. Nên thông thường thì sách báo và các phương tiện truyền thông luôn gặp những hạn chế nhất định trong việc truyền tải sự thật, chỉ là ít hoặc nhiều. Ở những đất nước dân chủ, tự do ngôn luận, thì còn có thể tìm tòi hoặc kiểm chứng tài liệu, tin tức đúng sai. Còn ở những đất nước độc tài, bưng bít, thì báo đài nói sao nghe vậy, người dân coi như mặc nhiên chấp nhận. Tất nhiên là xưa nay những tác phẩm, hoặc báo đài nào càng gần với sự thật, càng mang tính độc lập, tổng quan & công bằng, thì có giá trị cao hơn và sẽ được tồn tại lâu dài. Ngược lại thì chỉ mang giá trị tham khảo, rồi cũng sẽ nhanh chóng bị quên lãng theo thời gian, hoặc bị đào thải theo thời cuộc. Riêng mình, cảm thấy bộ phim "The Vietnam War" đình đám, chuẩn bị cả hàng chục năm, mà nội dung còn nhiều góc khuất như thế, thì quả là đáng tiếc.
Nói một cách công bằng là mãi cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người Mỹ và người VN có những nhận thức sai lệch về cuộc chiến “Vietnam War”. Điều đó cũng dễ hiểu thôi, bởi cái "biết" của mỗi con người là do sự tiếp cận với nguồn thông tin. Mà đã là tin tức, đặc biệt là tin tức thời sự chính trị, thì luôn luôn bị chi phối bởi những quan điểm và mục đích tuyên truyền, hoặc lợi ích của chế độ, của tổ chức, của đảng phái, của phe nhóm, hoặc là mục đích cá nhân. Trừ một số đất nước thực sự tự do và dân chủ, còn lại thì đa số chính phủ đều có những tác động nhất định đến các phương tiện truyền thông của quốc gia họ. Bởi vậy mức độ khả tín của truyền thông luôn tùy thuộc vào tính minh bạch và mức độ dân chủ, hoặc hiến pháp, luật pháp hiện hành của mỗi quốc gia.
Nhiều người cứ thắc mắc là tại sao “Vietnam War" là chuyện đã qua lâu rồi, cũ rồi, nhưng truyền thông cứ nhắc lại mãi ? Và hiểu đúng về cuộc chiến này thì có giúp ích gì được cho VN hôm nay và ngày mai chăng ?
Chắc chắn mỗi người đều có những suy nghĩ khác nhau về câu hỏi này. Riêng mình, luôn quan niệm lịch sử là phải được hiểu một cách rõ ràng, minh bạch, và công bằng. Nếu không, thì chính những sai lệch về kiến thức đó dẫn đến những sai lệch về quan điểm chính trị và ý thức hệ, tạo ra những hệ lụy lâu dài cho bản thân, cho cộng đồng, cho dân tộc. Đặc biệt là gây ra sự lầm lẫn về hận thù giai cấp, mâu thuẩn nội bộ, rồi chia bè chia phái, phân biệt “địch" "ta" trong cùng một đất nước. Ngộ nhận về lịch sử sẽ biến những câu chuyện không thành có, có thành không, gây ảnh hưởng rất lớn đến sự trì trệ của đất nước và có thể kéo dài qua nhiều thế hệ !
Lâu nay đối với những người có đọc sách lịch sử, và tư duy rộng rãi chút đỉnh, đều biết "Vietnam War" không phải đơn giản là một cuộc nội chiến. Cũng không phải đơn thuần là một cuộc chiến tranh xâm lược, mà sau lưng là cả một hệ thống chính trị quốc tế, mang tính chủ nghĩa và ý thức hệ. Có sự tham gia, và bị tác động nặng nề bởi những cường quốc như Pháp, Mỹ, Liên Xô, TQ, cùng đồng minh. Cụ thể là xuất phát từ sự lo ngại của các nước dân chủ về xu hướng bành trướng & phát triển của chủ nghĩa cộng sản vào thời bấy giờ. Còn VN, chỉ là một nước nhỏ trên bàn cờ toan tính của chính trị thế giới. Cả hai miền Nam Bắc đều không thể tự chủ, tự quyết, và không có khả năng độc lập trong cuộc chiến này, mà chỉ mang vai trò thực hiện để hy sinh (!). Từ viên đạn cho đến gói lương khô, từ bộ quân phục cho đến đôi giày cái nón, cũng đều phải bị lệ thuộc vào các nước lớn. Tất nhiên đó chỉ là sự đánh đổi có tính toán, hoàn toàn không phải là những viện trợ vô điều kiện. Hết đạn hết bắn, bên nào nguồn cung ứng không còn, thì coi như xong. Mọi nổ lực còn lại chỉ là thời gian cầm cự. Đơn giản là vậy. Chiến tranh tàn phá khốc liệt kéo dài nhiều năm như thế, tự cung tự cấp được miếng ăn manh áo đã là chuyện rất khó, huống hồ chi nói đến việc tự chủ tự cường !
Bởi thế, dẫu sao thì bộ phim "The Vietnam War" cũng khơi dậy được những câu hỏi rất cơ bản mà người ta cần nhìn lại và cần hiểu đúng. Tại sao Mỹ vào miền Nam VN ? Rồi tại sao Mỹ lại ngưng chi viện cho miền Nam sau khi móc nối được với TQ ? Tại sao Liên xô, TQ đứng sau lưng, viện trợ cho miền Bắc VN ? Vai trò của Quốc tế cọng sản và những tác động trực tiếp của nó đối với cuộc chiến Vietnam War như thế nào ? Ý nghĩa của Chiến Tranh Lạnh (Cold War) và thuyết Domino đã ảnh hưởng gì đến nguyên nhân cuộc chiến ? Nếu miền Bắc VN ngày đó không phải là thành viên của Quốc Tế CS, thì cuộc chiến Vietnam War có xảy ra không ? .v.v…
Quan trọng hơn nữa là những câu hỏi sau khi cuộc chiến kết thúc. Người Mỹ và đồng minh có đạt được mục đích ngăn chặn sự bành trướng của CNCS hay chăng ? TQ và Liên Xô có phát triển và bành trướng được cái "Quốc tế CS" như họ mong muốn hay chăng ? Vietnam War và sự hy sinh của dân tộc VN có làm thay đổi được điều gì ở thế trận "Cold War" chăng ? Con dân VN hy sinh, mất mát nhiều đến thế, đất nước VN được những gì ? ….. Đó là những câu hỏi rất cần thiết được suy ngẫm và trả lời một cách nghiêm túc !
Cuối cùng “Vietnam War” kết thúc, thất bại thuộc về ai ? Dĩ nhiên thiệt thòi lớn nhất thuộc về đất nước và con người VN. Họ đã bị thừa hưởng một di sản chiến tranh quá lớn, quá nặng nề. VN đã trở thành một bãi chiến trường cho cuộc chiến của hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ, mà thực ra đã không đem lại những kết quả tốt đẹp gì cho đất nước và con người VN. Trong lịch sử thế giới lâu nay, ở bất kỳ cuộc chiến tranh nào, thiệt thòi luôn luôn thuộc về phía nhân dân. Nhìn lại cuộc chiến tranh VN vừa qua, người dân cả 2 miền Nam Bắc phải gánh chịu quá nhiều tang thương, đất nước VN phải chịu đựng quá nhiều mất mát so với những quốc gia khác ở cùng khu vực. Ông cựu TBT Lê Duẩn cũng đã nói "Chúng ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô Trung quốc...". Tại sao phải như thế ? Chua chát và cay đắng quá !
Thực ra cả thế giới đều biết Mỹ và đồng minh nhảy vào miền Nam VN chỉ vì lo sợ sự bành trướng của CNCS tràn qua các nước khác. Và tất nhiên là LX & TQ hiểu rõ điều này hơn ai hết. Còn chuyện thắng thua của hai chủ nghĩa trên trường quốc tế thì ngày nay ai cũng thấy rồi. Trong đời sống thực tế có những thứ thuộc về quy luật, thịnh suy theo lẽ tự nhiên, không cần phải cưỡng cầu. Cứ coi sự phát triển của chủ nghĩa CS ở Liên Xô, Cuba, Triều Tiên, và các nước Đông Âu thì rõ. Còn TQ thì từ năm 1972, sau khi được T/T Mỹ Nixon bật đèn xanh để đổi chác trong việc xử lý Cold War (chiến tranh lạnh), họ Mao họ Đặng đã khôn ngoan nắm bắt thời cơ, nhẫn nhịn lo chuyện xoá đói giảm nghèo, hợp tác với thế giới tư bản, bất kể “mèo trắng mèo đen” :-). TQ đã đánh đổi mọi giá để nhanh chóng trở thành thị trường lao động giá rẻ cho thế giới tư bản. Họ đặt quyền lợi quốc gia lên trên “lý tưởng” quốc tế CS của họ, để cuối cùng đạt được thành tựu như ngày hôm nay. Tất nhiên là xưa nay đất nước nào cũng phải đặt quyền lợi quốc gia của họ trên hết. Và chắc chắn là trong những cuộc chơi lớn, thì hầu như những nước nhỏ bao giờ cũng bị thiệt thòi nếu không thận trọng và khôn khéo. Những bài học bị đồng minh bỏ rơi, bị đàn anh “dạy dỗ”, số phận đất nước bị trao đổi ngã giá, con người bị hy sinh, lãnh thổ bị xâm lấn đe dọa...v.v..cũng không lạ lẫm gì đối với dân tộc VN.
Nhiều nhà phân tích cho rằng VN War là một cuộc chiến tranh không đáng có, và hoàn toàn không cần thiết. Có lẽ vậy, bởi nếu không có sự liên hệ với Quốc tế CS ngày đó, thì VN đã không có cuộc chiến tranh đẫm máu này. Chỉ đơn giản là vậy chứ chẳng phải do ham hố VN có rừng vàng biển bạc gì như một số người ngộ nhận. Đáng tiếc !
Nhưng đó là những chuyện đã qua rồi. Suy cho cùng, hậu quả của cuộc chiến tranh Vietnam War không phải chỉ dừng lại ở bề nổi như chết chóc đôi bên, kinh tế lạc hậu, giáo dục cũ kỹ, chính trị non trẻ, tài nguyên ruộng vườn bị tàn phá...v.v. Mà quan trọng hơn nhiều là những mất mát thuộc về phần con người thời hậu chiến. Đó là những vết thương lòng, những định kiến hận thù, những chia rẽ phân biệt, ngộ nhận ý thức hệ, những hơn thua đố kỵ, dân trí hạn hẹp, hiểu biết sai lệch, mâu thuẩn chính trị, tham vọng cá nhân, giáo điều, duy ý chí, kiêu ngạo .vv... trong đại đa số con người VN. Và chính những hệ lụy từ yếu tố con người này mới làm cho đất nước VN trì trệ, lạc hậu lâu dài, khó hoà hợp hoà giải, khó vươn lên, chứ không phải là những hố bom hay chất độc màu da cam như nhiều người đã kể lể. Thậm chí có khi phải tốn hàng thế kỷ vẫn chưa thay đổi và hàn gắn được. (Tính đến nay đã nửa thế kỷ rồi, nhưng vẫn cứ trống đánh xuôi kèn thổi ngược)
Tin rằng nếu người dân VN chưa chịu nhìn ra và chấp nhận cái gốc căn nguyên cội rễ của cuộc chiến tranh Nam-Bắc (Vietnam War), thì cái ngọn hận thù chia rẽ vẫn còn dài dài. Tệ hại hơn nữa, là có những con người kém hiểu biết, hoặc lợi dụng sự kém hiểu biết của người khác để tạo dựng nên những khái niệm chính trị & kinh tế mơ hồ, vị kỷ, hòng phục vụ cho quyền lợi cá nhân hoặc lợi ích nhóm. Những lý giải lệch lạc sẽ càng kéo dài hận thù, gây ra sự trì trệ lạc hậu cho dân tộc, và chậm tiến cho đất nước. Lịch sử thế giới lâu nay, chưa bao giờ có một chính sách bảo thủ và định kiến chật hẹp nào lại có thể đem đến văn minh và thịnh vượng lâu dài được cho đất nước của họ. Những đất nước phát triển, hạnh phúc, đáng sống nhất trên thế giới hiện nay là những nước không có nhiều “nỗi buồn” chiến tranh, cũng không bị mâu thuẩn gay gắt về ý thức hệ, và càng không bị nhắc nhở về "tượng đài" hận thù một cách dai dẳng. Họ luôn đặt quyền lợi quốc gia & giá trị cuộc sống của người dân lên hàng đầu một cách đúng nghĩa.
Ở thời đại hôm nay, thông tin không thể bưng bít và bóp méo được mãi. Trong lịch sử thế giới xưa nay sự thay đổi nào cũng cần phải có những đánh đổi nhất định. Một định hướng đúng đắn bao giờ cũng bắt đầu từ việc dám chấp nhận sự thật và mạnh dạn thay đổi. Càng trốn tránh sự thực, càng kéo dài thời gian, càng đánh lừa bản thân & thiên hạ, thì càng khó khăn để sửa đổi về sau, và càng thiệt thòi chậm lụt cho đất nước. Thậm chí, còn gây ra những hậu quả khó lường cho bản thân và dân tộc.
Theo mình, chỉ có người VN mới thực sự yêu đất nước VN. Chỉ có sự đoàn kết đồng lòng của dân tộc mới tạo ra được những kết quả tốt đẹp cho đất nước. Và chỉ có những chủ nghĩa hoặc chính thể có thể đem lại sự tự do dân chủ thực sự và thịnh vượng cho đất nước, thì mới xứng đáng để cho người dân tôn trọng và phụng sự.
(In war, whichever side may call itself the victor, there are no winners, but all are losers - Neville Chamberlain)
Ở thời đại hôm nay, thông tin không thể bưng bít và bóp méo được mãi. Trong lịch sử thế giới xưa nay sự thay đổi nào cũng cần phải có những đánh đổi nhất định. Một định hướng đúng đắn bao giờ cũng bắt đầu từ việc dám chấp nhận sự thật và mạnh dạn thay đổi. Càng trốn tránh sự thực, càng kéo dài thời gian, càng đánh lừa bản thân & thiên hạ, thì càng khó khăn để sửa đổi về sau, và càng thiệt thòi chậm lụt cho đất nước. Thậm chí, còn gây ra những hậu quả khó lường cho bản thân và dân tộc.
(In war, whichever side may call itself the victor, there are no winners, but all are losers - Neville Chamberlain)
Thursday, September 21, 2017
QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VỀ CHIẾN TRANH VÀ XUNG ĐỘT
Tác giả: Polgolle Kusala Dhamma | Trung Hữu lược dịch
(Trích từ Thư Viện Hoa Sen)
Thỉnh thoảng người ta nghĩ rằng Phật giáo ra đời cách nay 2600 năm thì làm sao giáo lý của tôn giáo ấy có thể áp dụng và giải quyết những vấn đề hiện tại. Nhưng khi chúng ta thấy rằng những nguyên nhân của tất cả các rắc rối của xã hội ngày này đều bắt nguồn từ những tư tưởng ô nhiểm của con người thì Phật giáo là tôn giáo duy nhất có thể đưa ra giải pháp hoàn hảo để loại trừ những ô nhiểm ấy và làm cho đầu óc họ trở nên trong sáng và bình yên hơn.
Một hiểu lầm nữa về Phật giáo là một số người nghĩ rằng Phật giáo không liên hệ gì đến đời sống thế tục, mà nó chỉ dành cho những người xuất gia. Nhưng nếu xem xét kỹ lời dạy của đức Phật thì ta thấy rằng chúng liên hệ với nhau rất mật thiết. Cách sống của chư tăng ni có thể cung cấp một mẩu mực lý tưởng mà người tại gia có thể học tập tùy theo khả năng của họ. Thế nào là đời sống lý tưởng của chư tăng ni? Về điều này không ít người đã hiểu lầm. Vào thời đức Phật, một Bà la môn đã nói với con gái ông khi cô gái muốn gia nhập tăng đoàn, rằng, chư tăng là những người lười biếng và không làm gì cả. Họ chỉ sống dựa vào sự ủng hộ của người khác nhưng lại sống một cuộc sống hết sức thoải mái về vật chất. Tại sao con thích họ chứ? Cô gái đã trả lời rằng: “Chư tăng là những người thích làm việc và họ không hề lười biếng. Họ làm việc một cách thích đáng. Họ loại trừ sự tham lam và thù hận. Vì thế con thích họ”. Người ta nên hiểu bản chất thực của Phật giáo và những người theo đạo Phật thì họ mới hiểu được khả năng của Phật giáo trong việc ngăn chặn và giải quyết các vấn nạn của thế giới ngày nay.
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn con người ta hướng đến sự hòa bình. Niết Bàn là mục đích tối cao của tất cả người con Phật. Nơi đó được cho là “con đường thánh thiện và bình yên nhất”. Khi đức Phật còn là một vương tử trẻ, Ngài đã từ bỏ con đường mà có thể dẫn đến chiến tranh và xung đột để đi tìm con đường có thể đem đến hạnh phúc tối cao cho tất cả chúng sanh.
Trong thế giới hiện tại, sở dĩ có chiến tranh và xung đột là do những nguyên nhân sau đây:
1. Tham sân si
2. Thiếu hiểu biết
3. Kinh tế và Chủ nghĩa vật chất
4. Sự nghèo khổ
5. Cuồng tín
6. Quan điểm chính trị
Chiến tranh sinh ra những vấn nạn về kinh tế và xã hội một cách nghiêm trọng cho mỗi quốc gia. Người ta phải chi tiền cho quân đội, quân nhu và đủ loại vũ khí như tên lửa, súng đạn cũng như các loại bom đạn khác nhau... Ngoài sự tốn kém về tiền bạc, chiến tranh còn hủy diệt tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như mạng sống con người. Gia đình tan nát, đạo đức ngã nghiên với các loại trộm cướp, hiếp dâm. Lương thực thì thiếu thốn, bịnh dịch thì tràn lan, cảnh màn trời chiếu đất xảy ra khắp nơi. Những cuộc chiến tranh đã và đang xảy ra ở các nước đều cho ta thấy một bức tranh giống nhau như thế. Tiền bạc thay vì đem đi phục vụ cho chiến tranh, chúng sẽ tốt hơn nếu được dùng vào các công ích xã hội như xây nhà cửa cho người nghèo, đầu tư giáo dục cũng như phát triển các phương tiện y tế chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Nếu quan sát kỷ những nguyên nhân của chiến tranh và xung đột thì chúng ta có thể thấy rằng, chúng đều bắt nguồn từ những hành động như cướp đất, xăm phạm biên giới và chủ quyền lãnh thổ quốc gia, cuồng tín, tham vọng chính trị hoặc là để trả thù...
Ngăn chặn chiến tranh và xung đột là nguyện vọng của tất cả mọi người. Đối với những vấn đề mang tính chất toàn cầu hiện nay, Phật giáo đã đưa ra những lời khuyên thích hợp nhất để ngăn chặn chiến tranh và xung đột. Ví dụ như trong kinh Pháp Cú, Phật dạy rằng: Oán thù không thể dập tắt được oán thù, mà chỉ có tình thương mới dập tắt được oán thù mà thôi. Tất cả chúng ta nên có thái độ như thế mà đừng nghĩ đến việc báo thù. Đức Phật luôn luôn khuyên hàng phật tử nên có thái độ hài hòa với người khác vì điều đó dẫn đến sự an lạc từ bên trong mỗi người.
Phật giáo chủ trương không bạo lực. Tín đồ của tất cả các tôn giáo đều có thể áp dụng điều này. Lời Phật dạy cho việc ngăn chặn và chấm dứt chiến tranh và xung đột ở cả hai phương diện, bên trong ý thức con người và bên ngoài xã hội. Một vài tác phẩm sau này đã đưa ra những ý kiến không phù hợp lắm với những gì đức Phật thật sự dạy. Ví dụ như những câu chuyện về tiền thân đức Phật được biên soạn vào giai đoạn Kurunagala ở Sri Lanka thế kỷ thứ 13. Theo đó, trong một vài câu chuyện, bồ tát được diển tả như những chiến binh. Tùy theo thời gian và hoàn cảnh mà các tác giả đó đã cố tình tạo ra hình ảnh bồ tát như những vị vua hoặc tướng lĩnh để bảo vệ đất nước trước nạn ngoại xăm. Tuy nhiên đức Phật dạy rằng người nào tham dự vào chiến tranh và xung đột thì họ sẽ rước lấy sự bất hạnh to lớn. Trong King Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh, đức Phật dạy rằng: “Anh ta là người hòa giải, người mà ở trong tình trạng xung đột có thể khuyến khích người khác đoàn kết, hòa hợp, thụ hưởng hòa bình, yêu hòa bình, vui với hòa bình, anh ta là một người, người mà luôn nói lời ca ngợi sự hòa bình. Từ bỏ sát sanh, bật tu hành Gotama kiềm chế việc sát sanh, Ông ấy sống không có sử dụng gậy và gươm, sống với sự quan tâm, từ ái và thông cảm người khác.”
Theo gương đức Phật, người phật tử đề cao lối sống đạo đức. Họ không bao giờ làm hại người khác, cướp bóc hay tướt đoạt của người khác thứ gì. TrongTrung Bộ Kinh, đức Phật dạy có hai nguyên nhân chính gây ra chiến tranh và xung đột, đó là tham ái và đam mê khoái lạc giác quan. Xem xét nguyên nhân của những cuộc chiến tranh và xung đột trước đây cũng như hiện tại, ta thấy rằng, tham ái và những nhu cầu vật chất chính là những nguyên nhân chính của những cuộc chiến tranh và xung đột đó. Đức Phật giải thích rằng người nào có khả năng làm chủ các giác quan và loại trừ tham ái thì anh ta sẽ không có khuynh hướng đấu tranh hay hay hảm hại kẻ khác, ức hiếp hay lạm dụng, trộm cắp hay tướt đoạt tài sản của kẻ khác.
Trong lời dạy của mình, Đức Phật chú trọng đến nguyên nhân của xung đột. Phật giáo không đánh giá cao những giải pháp tạm thời. Bởi vì nếu như những nguyên nhân của chiến tranh và xung đột không được gở bỏ vĩnh viễn thì chiến tranh và xung đột sẽ lại tiếp diễn lần sau và lần sau nữa.
Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống và Kinh Cứu La Đàn Đầu nêu ra một khía cạnh khác của chiến tranh và xung đột. Đó là sự tranh giành tài nguyên thiên nhiên và tài sản vật chất. Khi con người ra sức gom góp của cải thì xãy ra sự tranh giành giữa người này với người kia, nhóm này với nhóm kìa và nước này với nước khác. Sự tranh giành dần dần dẫn đến xung đột, chiến tranh. Vì thế mà Phật giáo khuyên con người nên nghĩ đến sự vô thường của vật chất. Khi người ta thấy được tính chất phù du của vật chất thì người ta có thể đi ra ngoài những cuộc tranh giành khốc liệt.
Trong Kinh Đế thích Sở Vấn, vua trời Đế Thích đến hỏi Phật rằng, các vị trời và loài người luôn luôn muốn sống hài hòa với nhau nhưng tại sao họ cứ phải gây gổ và đấu tranh với nhau không dứt? Đức Phật giải thích rằng có hai yếu tố tâm lý làm phát sinh xung đột. Đó là ganh tỵ và bủn xỉn. Tâm lý muốn vơ vét nhưng lại không chịu đựng được khi thấy người khác hơn mình chính là nguyên nhân trực tiếp của chiến tranh và xung đột.
Theo đức Phật thì các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị có vai trò hàng đầu trong việc ngăn chặn xung đột và chiến tranh. Một nhà lãnh đạo tốt, có trách nhiệm sẽ lãnh đạo đất nước sống trong hòa bình. Nhưng khi đất nước được lãnh đạo bởi một nhà lãnh đạo không chính trực thì đất nước đó thế nào cũng rơi vào tình trạng bi đát. Cho nên trongTăng chi Bộ Kinh đức Phật dạy rằng: Cũng như con bò đầu đàn đi bậy thì các con bò khác đi bậy theo, một người lãnh đạo đối xử với người khác không đứng đắn thì những người dưới họ cũng làm như vậy. Một nhà lãnh đạo tồi sẽ chối bỏ trách nhiệm sau khi ông ta đẩy tất cả mọi người vào trong chổ nguy hiểm. Vì thế, một nhà lãnh đạo tốt nên hướng dẫn mọi người đi theo con đường chân chính.
Khao khát và kiêu căng cũng là nguyên nhân của chiến tranh và xung đột. Trong lich sử loài người, con người tạo ra chiến tranh và xung đột để bảo vệ sự kiêu căng và tham vọng của họ. Đức Phật khuyên người phật tử nên loại trừ sự kiêu căng như thế ra khỏi cuộc sống của họ. Nhiều cuộc xung đột xã hội, nội chiến, đấu tranh vũ trang nổi lên là do sự lãnh đạo yếu kém của các nhà lãnh đạo. Đức Phật khuyên các nhà lãnh đạo nên tránh bốn khuynh hướng. Đó là cảm tình thiên vị, thù hận, sợ hãi và ảo tưởng. Nhà lãnh đạo không nên quan tâm đến vấn đề như giới tính, tầng lớp xã hội, tuổi tác, tôn giáo, chủng tộc... của đối tượng khi họ sắp quyết định một vấn đề. Nói cách khác, quyết định của họ không nên bị chi phối bởi những yếu tố trên.
Bởi vì tham ái và ý tưởng trả thù mà chiến tranh và xung đột khởi lên liên miên. Đức Phật đề cập đến một nguyên nhân khác của chiến tranh. Đó là có một số người cho rằng bản thân họ, tôn giáo họ hay quốc gia họ cao nhất, còn những người khác, tôn giáo khác, quốc gia khác thì thấp hơn. Đức Phật dạy trong kinh Pháp Cú rằng: Kẻ thắng thì bị thù ghét, người thua thì sống trong đau buồn. Cả hai phía đều bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Kinh Cullabodhi Jakata nói rằng lòng hận thù và ý muốn trả thù tiêu diệt cuộc sống con người. Cũng như hai cây gậy đập vào nhau, lửa tóe ra tiêu diệt cả hai cây. Theo Phật giáo thì trong chiến tranh, không có ai là kẻ thắng cuộc cả. Thay vào đó, Đức Phật nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự tự thắng mình trước những ô nhiểm của chính bản thân mình.
Trong kinh Pháp Cú đức Phật dạy rằng, chiến thắng được dục vọng của mình thì vĩ đại hơn thắng ngàn kẻ thù bên ngoài. Ngài luôn luôn khuyên chúng ta là hãy nhìn thấy lỗi của mình thay vì đi tìm lỗi của người khác. Bởi vì khi người ta thấy lỗi của người khác thì xung đột bắt đầu. Đức Phật luôn luôn khuyên chúng ta nên suy tư về bản thân mình để loại bỏ những khuyết điểm của bản thân. Có một lần nọ, khi đức Phật đang ngồi thiền dưới một gốc cây thì một nhóm thanh niên đến hỏi Ngài rằng, Ngài có thấy một phụ nữ đi ngang qua không, thì đức Phật trả lời rằng: Đừng có nghĩ đến những gì người khác làm hay không làm, mà hãy nghĩ về những gì mình đã làm hay chưa làm.
Thông thường , người ta hay đổ lỗi hoặc quy trách nhiệm cho kẻ khác mà không thấy lỗi và trách nhiệm của mình. Và đó cũng chính là nguyên nhân của mọi xung đột. Cho nên đức Phật khuyên chung ta nên xác định trách nhiệm của mình và đối xử tốt với người khác. Ngài khuyên chúng ta hãy trãi lòng từ, thậm chí đối với kẻ thù. Trong kinh Ví Dụ Cái Cưu thuộc Trung Bộ kinh, đức Phật đã khen ngợi tính kiên nhẫn của một vị tăng khi vị này đã trãi lòng từ cho những tên cướp dù chúng đã cắt đi một phần cơ thể của vị tăng và làm cho vị tăng đau đớn đến chết.
Tóm lại, lời Phật dạy có thể dùng để giải quyết những vấn đề hiện tại một cách vĩnh viễn. Bởi vì Phật giáo giải quyết vấn đề từ căn bản gốc rể của nó. Chiến tranh và xung đột khởi lên là do nhu cầu chính trị, tham vọng của những cá nhân hoặc nhóm người. Đức Phật đã giới thiệu nhiều nguyên tắc để ngăn chặn chiến tranh và xung đột. Chính trực, tôn trọng lẫn nhau, chia sẻ quyền lợi, từ bi, nhẫn nhục, nhu thuận là những nguyên tắc quan trọng rất cần được thực hành vậy.
(Trích từ Thư Viện Hoa Sen)
(Trích từ Thư Viện Hoa Sen)
Thỉnh thoảng người ta nghĩ rằng Phật giáo ra đời cách nay 2600 năm thì làm sao giáo lý của tôn giáo ấy có thể áp dụng và giải quyết những vấn đề hiện tại. Nhưng khi chúng ta thấy rằng những nguyên nhân của tất cả các rắc rối của xã hội ngày này đều bắt nguồn từ những tư tưởng ô nhiểm của con người thì Phật giáo là tôn giáo duy nhất có thể đưa ra giải pháp hoàn hảo để loại trừ những ô nhiểm ấy và làm cho đầu óc họ trở nên trong sáng và bình yên hơn.
Một hiểu lầm nữa về Phật giáo là một số người nghĩ rằng Phật giáo không liên hệ gì đến đời sống thế tục, mà nó chỉ dành cho những người xuất gia. Nhưng nếu xem xét kỹ lời dạy của đức Phật thì ta thấy rằng chúng liên hệ với nhau rất mật thiết. Cách sống của chư tăng ni có thể cung cấp một mẩu mực lý tưởng mà người tại gia có thể học tập tùy theo khả năng của họ. Thế nào là đời sống lý tưởng của chư tăng ni? Về điều này không ít người đã hiểu lầm. Vào thời đức Phật, một Bà la môn đã nói với con gái ông khi cô gái muốn gia nhập tăng đoàn, rằng, chư tăng là những người lười biếng và không làm gì cả. Họ chỉ sống dựa vào sự ủng hộ của người khác nhưng lại sống một cuộc sống hết sức thoải mái về vật chất. Tại sao con thích họ chứ? Cô gái đã trả lời rằng: “Chư tăng là những người thích làm việc và họ không hề lười biếng. Họ làm việc một cách thích đáng. Họ loại trừ sự tham lam và thù hận. Vì thế con thích họ”. Người ta nên hiểu bản chất thực của Phật giáo và những người theo đạo Phật thì họ mới hiểu được khả năng của Phật giáo trong việc ngăn chặn và giải quyết các vấn nạn của thế giới ngày nay.
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn con người ta hướng đến sự hòa bình. Niết Bàn là mục đích tối cao của tất cả người con Phật. Nơi đó được cho là “con đường thánh thiện và bình yên nhất”. Khi đức Phật còn là một vương tử trẻ, Ngài đã từ bỏ con đường mà có thể dẫn đến chiến tranh và xung đột để đi tìm con đường có thể đem đến hạnh phúc tối cao cho tất cả chúng sanh.
Trong thế giới hiện tại, sở dĩ có chiến tranh và xung đột là do những nguyên nhân sau đây:
1. Tham sân si
2. Thiếu hiểu biết
3. Kinh tế và Chủ nghĩa vật chất
4. Sự nghèo khổ
5. Cuồng tín
6. Quan điểm chính trị
Chiến tranh sinh ra những vấn nạn về kinh tế và xã hội một cách nghiêm trọng cho mỗi quốc gia. Người ta phải chi tiền cho quân đội, quân nhu và đủ loại vũ khí như tên lửa, súng đạn cũng như các loại bom đạn khác nhau... Ngoài sự tốn kém về tiền bạc, chiến tranh còn hủy diệt tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như mạng sống con người. Gia đình tan nát, đạo đức ngã nghiên với các loại trộm cướp, hiếp dâm. Lương thực thì thiếu thốn, bịnh dịch thì tràn lan, cảnh màn trời chiếu đất xảy ra khắp nơi. Những cuộc chiến tranh đã và đang xảy ra ở các nước đều cho ta thấy một bức tranh giống nhau như thế. Tiền bạc thay vì đem đi phục vụ cho chiến tranh, chúng sẽ tốt hơn nếu được dùng vào các công ích xã hội như xây nhà cửa cho người nghèo, đầu tư giáo dục cũng như phát triển các phương tiện y tế chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Nếu quan sát kỷ những nguyên nhân của chiến tranh và xung đột thì chúng ta có thể thấy rằng, chúng đều bắt nguồn từ những hành động như cướp đất, xăm phạm biên giới và chủ quyền lãnh thổ quốc gia, cuồng tín, tham vọng chính trị hoặc là để trả thù...
Ngăn chặn chiến tranh và xung đột là nguyện vọng của tất cả mọi người. Đối với những vấn đề mang tính chất toàn cầu hiện nay, Phật giáo đã đưa ra những lời khuyên thích hợp nhất để ngăn chặn chiến tranh và xung đột. Ví dụ như trong kinh Pháp Cú, Phật dạy rằng: Oán thù không thể dập tắt được oán thù, mà chỉ có tình thương mới dập tắt được oán thù mà thôi. Tất cả chúng ta nên có thái độ như thế mà đừng nghĩ đến việc báo thù. Đức Phật luôn luôn khuyên hàng phật tử nên có thái độ hài hòa với người khác vì điều đó dẫn đến sự an lạc từ bên trong mỗi người.
Phật giáo chủ trương không bạo lực. Tín đồ của tất cả các tôn giáo đều có thể áp dụng điều này. Lời Phật dạy cho việc ngăn chặn và chấm dứt chiến tranh và xung đột ở cả hai phương diện, bên trong ý thức con người và bên ngoài xã hội. Một vài tác phẩm sau này đã đưa ra những ý kiến không phù hợp lắm với những gì đức Phật thật sự dạy. Ví dụ như những câu chuyện về tiền thân đức Phật được biên soạn vào giai đoạn Kurunagala ở Sri Lanka thế kỷ thứ 13. Theo đó, trong một vài câu chuyện, bồ tát được diển tả như những chiến binh. Tùy theo thời gian và hoàn cảnh mà các tác giả đó đã cố tình tạo ra hình ảnh bồ tát như những vị vua hoặc tướng lĩnh để bảo vệ đất nước trước nạn ngoại xăm. Tuy nhiên đức Phật dạy rằng người nào tham dự vào chiến tranh và xung đột thì họ sẽ rước lấy sự bất hạnh to lớn. Trong King Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh, đức Phật dạy rằng: “Anh ta là người hòa giải, người mà ở trong tình trạng xung đột có thể khuyến khích người khác đoàn kết, hòa hợp, thụ hưởng hòa bình, yêu hòa bình, vui với hòa bình, anh ta là một người, người mà luôn nói lời ca ngợi sự hòa bình. Từ bỏ sát sanh, bật tu hành Gotama kiềm chế việc sát sanh, Ông ấy sống không có sử dụng gậy và gươm, sống với sự quan tâm, từ ái và thông cảm người khác.”
Theo gương đức Phật, người phật tử đề cao lối sống đạo đức. Họ không bao giờ làm hại người khác, cướp bóc hay tướt đoạt của người khác thứ gì. TrongTrung Bộ Kinh, đức Phật dạy có hai nguyên nhân chính gây ra chiến tranh và xung đột, đó là tham ái và đam mê khoái lạc giác quan. Xem xét nguyên nhân của những cuộc chiến tranh và xung đột trước đây cũng như hiện tại, ta thấy rằng, tham ái và những nhu cầu vật chất chính là những nguyên nhân chính của những cuộc chiến tranh và xung đột đó. Đức Phật giải thích rằng người nào có khả năng làm chủ các giác quan và loại trừ tham ái thì anh ta sẽ không có khuynh hướng đấu tranh hay hay hảm hại kẻ khác, ức hiếp hay lạm dụng, trộm cắp hay tướt đoạt tài sản của kẻ khác.
Trong lời dạy của mình, Đức Phật chú trọng đến nguyên nhân của xung đột. Phật giáo không đánh giá cao những giải pháp tạm thời. Bởi vì nếu như những nguyên nhân của chiến tranh và xung đột không được gở bỏ vĩnh viễn thì chiến tranh và xung đột sẽ lại tiếp diễn lần sau và lần sau nữa.
Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống và Kinh Cứu La Đàn Đầu nêu ra một khía cạnh khác của chiến tranh và xung đột. Đó là sự tranh giành tài nguyên thiên nhiên và tài sản vật chất. Khi con người ra sức gom góp của cải thì xãy ra sự tranh giành giữa người này với người kia, nhóm này với nhóm kìa và nước này với nước khác. Sự tranh giành dần dần dẫn đến xung đột, chiến tranh. Vì thế mà Phật giáo khuyên con người nên nghĩ đến sự vô thường của vật chất. Khi người ta thấy được tính chất phù du của vật chất thì người ta có thể đi ra ngoài những cuộc tranh giành khốc liệt.
Trong Kinh Đế thích Sở Vấn, vua trời Đế Thích đến hỏi Phật rằng, các vị trời và loài người luôn luôn muốn sống hài hòa với nhau nhưng tại sao họ cứ phải gây gổ và đấu tranh với nhau không dứt? Đức Phật giải thích rằng có hai yếu tố tâm lý làm phát sinh xung đột. Đó là ganh tỵ và bủn xỉn. Tâm lý muốn vơ vét nhưng lại không chịu đựng được khi thấy người khác hơn mình chính là nguyên nhân trực tiếp của chiến tranh và xung đột.
Theo đức Phật thì các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị có vai trò hàng đầu trong việc ngăn chặn xung đột và chiến tranh. Một nhà lãnh đạo tốt, có trách nhiệm sẽ lãnh đạo đất nước sống trong hòa bình. Nhưng khi đất nước được lãnh đạo bởi một nhà lãnh đạo không chính trực thì đất nước đó thế nào cũng rơi vào tình trạng bi đát. Cho nên trongTăng chi Bộ Kinh đức Phật dạy rằng: Cũng như con bò đầu đàn đi bậy thì các con bò khác đi bậy theo, một người lãnh đạo đối xử với người khác không đứng đắn thì những người dưới họ cũng làm như vậy. Một nhà lãnh đạo tồi sẽ chối bỏ trách nhiệm sau khi ông ta đẩy tất cả mọi người vào trong chổ nguy hiểm. Vì thế, một nhà lãnh đạo tốt nên hướng dẫn mọi người đi theo con đường chân chính.
Khao khát và kiêu căng cũng là nguyên nhân của chiến tranh và xung đột. Trong lich sử loài người, con người tạo ra chiến tranh và xung đột để bảo vệ sự kiêu căng và tham vọng của họ. Đức Phật khuyên người phật tử nên loại trừ sự kiêu căng như thế ra khỏi cuộc sống của họ. Nhiều cuộc xung đột xã hội, nội chiến, đấu tranh vũ trang nổi lên là do sự lãnh đạo yếu kém của các nhà lãnh đạo. Đức Phật khuyên các nhà lãnh đạo nên tránh bốn khuynh hướng. Đó là cảm tình thiên vị, thù hận, sợ hãi và ảo tưởng. Nhà lãnh đạo không nên quan tâm đến vấn đề như giới tính, tầng lớp xã hội, tuổi tác, tôn giáo, chủng tộc... của đối tượng khi họ sắp quyết định một vấn đề. Nói cách khác, quyết định của họ không nên bị chi phối bởi những yếu tố trên.
Bởi vì tham ái và ý tưởng trả thù mà chiến tranh và xung đột khởi lên liên miên. Đức Phật đề cập đến một nguyên nhân khác của chiến tranh. Đó là có một số người cho rằng bản thân họ, tôn giáo họ hay quốc gia họ cao nhất, còn những người khác, tôn giáo khác, quốc gia khác thì thấp hơn. Đức Phật dạy trong kinh Pháp Cú rằng: Kẻ thắng thì bị thù ghét, người thua thì sống trong đau buồn. Cả hai phía đều bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Kinh Cullabodhi Jakata nói rằng lòng hận thù và ý muốn trả thù tiêu diệt cuộc sống con người. Cũng như hai cây gậy đập vào nhau, lửa tóe ra tiêu diệt cả hai cây. Theo Phật giáo thì trong chiến tranh, không có ai là kẻ thắng cuộc cả. Thay vào đó, Đức Phật nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự tự thắng mình trước những ô nhiểm của chính bản thân mình.
Trong kinh Pháp Cú đức Phật dạy rằng, chiến thắng được dục vọng của mình thì vĩ đại hơn thắng ngàn kẻ thù bên ngoài. Ngài luôn luôn khuyên chúng ta là hãy nhìn thấy lỗi của mình thay vì đi tìm lỗi của người khác. Bởi vì khi người ta thấy lỗi của người khác thì xung đột bắt đầu. Đức Phật luôn luôn khuyên chúng ta nên suy tư về bản thân mình để loại bỏ những khuyết điểm của bản thân. Có một lần nọ, khi đức Phật đang ngồi thiền dưới một gốc cây thì một nhóm thanh niên đến hỏi Ngài rằng, Ngài có thấy một phụ nữ đi ngang qua không, thì đức Phật trả lời rằng: Đừng có nghĩ đến những gì người khác làm hay không làm, mà hãy nghĩ về những gì mình đã làm hay chưa làm.
Thông thường , người ta hay đổ lỗi hoặc quy trách nhiệm cho kẻ khác mà không thấy lỗi và trách nhiệm của mình. Và đó cũng chính là nguyên nhân của mọi xung đột. Cho nên đức Phật khuyên chung ta nên xác định trách nhiệm của mình và đối xử tốt với người khác. Ngài khuyên chúng ta hãy trãi lòng từ, thậm chí đối với kẻ thù. Trong kinh Ví Dụ Cái Cưu thuộc Trung Bộ kinh, đức Phật đã khen ngợi tính kiên nhẫn của một vị tăng khi vị này đã trãi lòng từ cho những tên cướp dù chúng đã cắt đi một phần cơ thể của vị tăng và làm cho vị tăng đau đớn đến chết.
Tóm lại, lời Phật dạy có thể dùng để giải quyết những vấn đề hiện tại một cách vĩnh viễn. Bởi vì Phật giáo giải quyết vấn đề từ căn bản gốc rể của nó. Chiến tranh và xung đột khởi lên là do nhu cầu chính trị, tham vọng của những cá nhân hoặc nhóm người. Đức Phật đã giới thiệu nhiều nguyên tắc để ngăn chặn chiến tranh và xung đột. Chính trực, tôn trọng lẫn nhau, chia sẻ quyền lợi, từ bi, nhẫn nhục, nhu thuận là những nguyên tắc quan trọng rất cần được thực hành vậy.
(Trích từ Thư Viện Hoa Sen)
Tuesday, September 05, 2017
Sunday, September 03, 2017
Wednesday, August 30, 2017
Một hình ảnh đẹp
Mấy hôm nay thành phố Houston, thuộc bang Texas của Mỹ, rơi vào cảnh màn trời chiếu đất do cơn bão Harvey tàn phá. Nhiều người ở khắp nơi đã cầu nguyện và lo lắng, quan tâm, cho những nạn nhân vùng lũ. Một hình ảnh nổi bật như biểu tượng của sự giải cứu Houston là hình người lính cảnh sát đặc nhiệm Mỹ Daryl Hudeck đưa cô gái gốc Việt tên Catherine Pham và đứa con trai Aiden ra khỏi vùng nước lũ. Bức hình này đã nhanh chóng được truyền tải trên các mạng xã hội như một thông điệp mạnh mẽ về tình người.
Mình thì tin rằng tất cả con người đều sẽ hành động như thế (chưa nói đến yếu tố công việc) khi rơi vào hoàn cảnh của Daryl Hudeck. Chỉ là trong mỗi hoàn cảnh, người ta sẽ biểu thị ứng xử khác nhau thôi. Mình luôn tin vào tính thuần lương trong mỗi con người. Đạo giáo cũng nói là "Nhân chi sơ vốn bản thiện" vậy.
Cách đây vài năm, mình có dịp ngồi nói chuyện cùng ông thầy T. , nguyên hiệu trưởng ngôi trường trung học mà mình đã từng học ngày xưa. (Anh ấy làm hiệu trưởng thời sau này, sau khi đi bộ đội trở về). Anh xúc động kể về câu chuyện người lính VNCH đã cứu sống anh - một người lính Cọng sản - trong chiến tranh. Câu chuyện thật hay và thật tình người. Rất tôn trọng và hiểu được nỗi lòng của anh về một ký ức đầy tính nhân văn. Và mình vẫn luôn tin rằng ở những hoàn cảnh tương tự, sẽ có rất nhiều người lính khác, cho dù là VNCH hay CS ngày xưa, cũng như người lính VN hôm nay, sẽ làm như thế mà thôi. Bởi trước khi họ là lính, họ là con người, những con người cùng một quê hương.
Suy cho cùng, cho dù có những khác biệt về ngôn ngữ hay màu da, thì bản chất con người luôn luôn mong muốn được nhìn thấy & tôn vinh những hình ảnh đẹp đẽ cũng như những nghĩa cử cao thượng trong cuộc sống. Đặc biệt là những ứng xử tốt đẹp đó đến từ những con người thừa hành pháp luật và nhân danh sức mạnh bảo vệ cái đúng !
Mình thì tin rằng tất cả con người đều sẽ hành động như thế (chưa nói đến yếu tố công việc) khi rơi vào hoàn cảnh của Daryl Hudeck. Chỉ là trong mỗi hoàn cảnh, người ta sẽ biểu thị ứng xử khác nhau thôi. Mình luôn tin vào tính thuần lương trong mỗi con người. Đạo giáo cũng nói là "Nhân chi sơ vốn bản thiện" vậy.
Cách đây vài năm, mình có dịp ngồi nói chuyện cùng ông thầy T. , nguyên hiệu trưởng ngôi trường trung học mà mình đã từng học ngày xưa. (Anh ấy làm hiệu trưởng thời sau này, sau khi đi bộ đội trở về). Anh xúc động kể về câu chuyện người lính VNCH đã cứu sống anh - một người lính Cọng sản - trong chiến tranh. Câu chuyện thật hay và thật tình người. Rất tôn trọng và hiểu được nỗi lòng của anh về một ký ức đầy tính nhân văn. Và mình vẫn luôn tin rằng ở những hoàn cảnh tương tự, sẽ có rất nhiều người lính khác, cho dù là VNCH hay CS ngày xưa, cũng như người lính VN hôm nay, sẽ làm như thế mà thôi. Bởi trước khi họ là lính, họ là con người, những con người cùng một quê hương.
Suy cho cùng, cho dù có những khác biệt về ngôn ngữ hay màu da, thì bản chất con người luôn luôn mong muốn được nhìn thấy & tôn vinh những hình ảnh đẹp đẽ cũng như những nghĩa cử cao thượng trong cuộc sống. Đặc biệt là những ứng xử tốt đẹp đó đến từ những con người thừa hành pháp luật và nhân danh sức mạnh bảo vệ cái đúng !
Tuesday, August 29, 2017
Chứng lý lịch !
Vẫn thường nghĩ rằng cái chính sách chứng duyệt lý lịch địa phương là một sai phạm rất đáng quan tâm. Nó thể hiện tư duy thiếu công bằng, không đồng nhất, và dễ dàng dẫn đến sự phân hoá của xã hội. Lợi bất cập hại ! Một số quan niệm đơn giản cho rằng xét duyệt lý lịch gia cảnh (đa phần mang màu sắc chính trị), là một phương tiện hoặc công cụ gạn lọc bớt những "thành phần" không "phù hợp" với bộ máy chính quyền, công sở và tạo điều kiện ưu đãi các thành phần ngược lại .... Nhưng nhìn kỹ thì việc này đã mở cửa cho những sai phạm nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước VN.
Ở nước ngoài, người ta luôn tôn trọng các tiêu chí tuyển chọn của từng trường học, cơ quan, công sở, doanh nghiệp, tư nhân hoặc chính phủ. Những trường đại học cao đẳng hoặc nhà tuyển dụng có quan điểm độc lâp của họ. Họ tuyển dụng, họ đào tạo, họ trả lương, thì họ phải có quyền quyết định về sự chọn lựa nhân tuyển thích hợp theo tiêu chí của họ. Thực ra, cũng có một số ngành nghề đặc biệt (rất hiếm) đòi hỏi hồ sơ lý lịch cá nhân, nhưng chủ yếu là dựa vào dữ liệu và quá trình bản thân, chứ không dựa vào lý lịch ba đời, hoặc thành phần giai cấp, hoặc phê duyệt của ai đó. Công bằng mà nói, dựa vào phán xét một chiều, không chuyên nghiệp, không đối chứng, của một người nói về người khác để làm tiêu chí chọn lọc, thì quả nhiên là không công bằng và vô cùng lệch lạc. Đó là chưa tính đến những ảnh hưỏng của các khía cạnh hiểu biết phiếm diện, cảm tính, ganh ghét, và hận thù ở đời thường.
Có lẽ chính sách phê duyệt lý lịch địa phương của VN hôm nay đã không còn nặng nề như xưa. Nhưng chắc chắn vẫn còn là những ám ảnh và biểu tượng của các rào cản bất hợp lý. Nhớ ngày xưa, những năm sau 75, đất nước VN đã giao phó chất lượng nguồn nhân lực phụng sự đất nước vào tay các ngài phường xã địa phương. Mà đại đa số cán bộ phường xã thời đó trình độ văn hoá hạn chế, đào tạo không chuyên nghiệp, thiếu công bằng, mang nặng cảm tính cá nhân, tư duy phân biệt "hồng, chuyên". Dĩ nhiên cũng có "một bộ phận không nhỏ" còn mang tự ti mặc cảm, hận thù, đố kỵ, từ sau cuộc chiến. Thử nhìn lại, ngay cả những quan toà, thẩm phán được đào tạo chính quy, mà sự phán xét còn bị lỗi lầm, thì làm sao mong đợi những quan chức làng xã có ý thức chí công vô tư, phê phán công bằng được ? Mặt khác, về khía cạnh nhân bản, không ai có thể lựa chọn được gia đình, hoàn cảnh kinh tế, hay bối cảnh chính trị mà họ sinh ra. Bởi thế thật vô lý khi dựa vào bối cảnh ông bà cha mẹ để định đoạt giá trị và tương lai của họ, mà đúng ra là phải dựa vào tư cách đạo đức và khả năng, kiến thức của chính bản thân họ.
Thế nhưng, những tờ lý lịch ấy lại là tiêu chí hàng đầu để định đoạt & tuyển lựa đầu vào cho các đại học, cao đẳng, trường nghề, công sở, phòng ban ... cũng như lựa chọn nhân tố quyết định tương lai của nước nhà. Không ai kiểm chứng các lời phê duyệt đó, cũng không dựa theo một chuẩn hóa nào, mà hoàn toàn dựa vào quyền sinh sát của địa phương. Điều đó quá nguy hiểm ! Ai cũng có thể là nạn nhân của những phê duyệt thiếu công bằng, đố kỵ, tuỳ tiện cá nhân. Không những thế, nó còn mở ra một cánh cửa lớn cho vấn nạn cửa quyền, tiêu cực, tham nhũng. Rất nhiều người là nạn nhân của những "bản án không phiên toà" này mà không được đi học, không được đi làm, dù tài năng và lòng nhiệt huyết có thừa. Nhiều người phải bỏ xứ ra đi, nhiều người phải trầm uất thất chí, nhiều người còn đau đáu tổn thương cho đến ngày hôm nay, và còn có bao nhiêu hệ lụy, bi kịch gia đình xã hội đáng thương khác .... Trong khi đó, ở thời đại phát triển văn minh, lúc đất nước cần những tài năng thực sự, thì vẫn nhan nhản vấn nạn phe nhóm, con ông cháu cha, mua quan bán chức, thân thế bao che nhau. Điều này đã làm cho bao nhiêu người băn khoăn về giá trị thực sự của việc xét duyệt và phê chuẩn lý lịch từ địa phương ?
Lâu nay ở đâu cũng vậy, sự phồn thịnh của một đất nước luôn là kết quả của sự công bằng bác ái và đồng lòng hiệp sức, chứ không phải ở chỗ phân biệt đối xử, chia rẽ hận thù. Nhìn lại thật kỹ, có vẻ như chính sách lý lịch đã không đem lại kết quả có lợi cho quốc gia & những tích cực mong muốn. Thực tế chứng minh được điều đó !
Một đất nước vừa xong chiến tranh, có thể đổ lỗi cho những yếu kém ban đầu, quan niệm sai lầm. Nhưng một đất nước đã trưởng thành sau bao nhiêu năm, hội nhập quốc tế văn minh, thì những quan niệm sai lầm này cần phải được nhìn nhận & sửa chữa một cách nghiêm túc. Rất mong được như vậy !
Friday, August 25, 2017
Phiếm: Chuyện thường ngày ở huyện - Từ ông chủ tịch Pharma đến bà bí thư tài giỏi !
Nhớ một thời, mỗi khi thấy chuyện "chướng tai gai mắt" xảy ra, thiên hạ phì cười đổ thừa là "chuyện thường ngày ở huyện". Sau này càng lúc càng nhiều chuyện thường ngày xảy ra, thì thiên hạ lại coi như chuyện hiển nhiên, mặc nhiên mà sống chung với lũ :-) .
Có lẽ ngày xưa Valentin Ovechkin cũng rơi vào nhừng hoàn cảnh tương tự như thế ở Liên Xô, nên từ một cán bộ tuyên truyền Trung đoàn mà có thể viết được tập truyện ký "Chuyện thường ngày ở huyện", làm nên tên tuổi của văn học Sô-Viết thời hậu chiến.
Mấy hôm nay theo dõi vụ thuốc ung thư gỉa, thấy tàn nhẫn & vô nhân tính quá. (Chắc hẳn những gia đình có người bị ung thư, bán ruộng bán vườn, chắt chiu từng sợi hy vọng mong manh, mới càng thấm thía & hiểu rõ nỗi đau này). Nhưng ông chủ tịch giàu có kia thản nhiên cho đó là chuyện bình thường. Bản án 12 năm, vài năm ân xá đi ra phè phỡn trở lại. Và người ung thư chết thì đã chết rồi, chưa chết cứ đợi chết, mỏi mòn vẫn cứ mỏi mòn. Hết ông CT này sẽ còn ông CT khác, hết thuốc giả này còn thuốc giả khác. Chuyện bình thường !
Mấy hôm nay theo dõi vụ "tham quan" Yên Bái, cũng vậy. Đọc tin, thì ra cả 7,8 năm nay tỉnh mới phát hiện một công chức xã tham nhũng thôi. Bà bí thư quả nhiên lãnh đạo tài tình, quan chức đạo đức và thanh liêm đến mức như vậy. Thanh tra vẫn cứ thanh tra, bí thư vẫn cứ đọc thành tích, phới phới niềm tin. Oan trái nhất là cả bà bí thư vẫn nghĩ rằng sẽ có người tin đó là sự thật. Cũng lại là 1 chuyện bình thường :-) .
Quê ta lâu nay vẫn thế, ai nói cứ nói, ai tin cứ tin, chỉ là đôi lúc không tin nhưng không dám nói ra :-). Hàng ngày cứ nhan nhản những tin tức như thế, những con người như thế, những câu chuyện chua chát đến mức buồn cười như thế .... Những chuyện thường ngày ở huyện !
Có lẽ ngày xưa Valentin Ovechkin cũng rơi vào nhừng hoàn cảnh tương tự như thế ở Liên Xô, nên từ một cán bộ tuyên truyền Trung đoàn mà có thể viết được tập truyện ký "Chuyện thường ngày ở huyện", làm nên tên tuổi của văn học Sô-Viết thời hậu chiến.
Mấy hôm nay theo dõi vụ thuốc ung thư gỉa, thấy tàn nhẫn & vô nhân tính quá. (Chắc hẳn những gia đình có người bị ung thư, bán ruộng bán vườn, chắt chiu từng sợi hy vọng mong manh, mới càng thấm thía & hiểu rõ nỗi đau này). Nhưng ông chủ tịch giàu có kia thản nhiên cho đó là chuyện bình thường. Bản án 12 năm, vài năm ân xá đi ra phè phỡn trở lại. Và người ung thư chết thì đã chết rồi, chưa chết cứ đợi chết, mỏi mòn vẫn cứ mỏi mòn. Hết ông CT này sẽ còn ông CT khác, hết thuốc giả này còn thuốc giả khác. Chuyện bình thường !
Mấy hôm nay theo dõi vụ "tham quan" Yên Bái, cũng vậy. Đọc tin, thì ra cả 7,8 năm nay tỉnh mới phát hiện một công chức xã tham nhũng thôi. Bà bí thư quả nhiên lãnh đạo tài tình, quan chức đạo đức và thanh liêm đến mức như vậy. Thanh tra vẫn cứ thanh tra, bí thư vẫn cứ đọc thành tích, phới phới niềm tin. Oan trái nhất là cả bà bí thư vẫn nghĩ rằng sẽ có người tin đó là sự thật. Cũng lại là 1 chuyện bình thường :-) .
Quê ta lâu nay vẫn thế, ai nói cứ nói, ai tin cứ tin, chỉ là đôi lúc không tin nhưng không dám nói ra :-). Hàng ngày cứ nhan nhản những tin tức như thế, những con người như thế, những câu chuyện chua chát đến mức buồn cười như thế .... Những chuyện thường ngày ở huyện !
Nói hoài, nghe riết, trở thành quán tính, không phân biệt được đúng sai. Đây mới là điều nguy hiểm. Nhớ mới hôm trước ngồi uống cafe ở SG với vài người quen. Có ông bạn kia vanh vách nói về một người thân học tiến sĩ ở Mỹ về. Mình ngạc nhiên vô cùng, bởi thường thì vấn nạn "giáo sư, tiến sĩ" giả vẫn xảy ra như cơm bữa ở quê nhà, nhưng ở đây là câu chuyện từ một ông giám đốc, chủ tịch công ty, đầy kiến thức. Mình thắc mắc hỏi:
- Anh thừa biết rằng kêu cậu ấy viết một đỏan văn tiếng Anh ngắn cỡ tờ A4, viết không xong. Vậy ở Mỹ trình luận án tiến sĩ bằng tiếng Việt à ? Thế mà anh cứ phô trương làm gì, lỡ có người không biết, hiểu sai, tội nghiệp họ.
Anh cười bẽn lẽn. Mình thường thấy trong các buổi họp mặt bạn bè, anh là người hay co cãi. Nếu có người khác kể chuyện tương tự như thế, anh đã tranh luận phê phán rồi. Nhưng là người thân của anh, thì anh lại rộng lòng "tha thứ", vui lòng "quảng bá thông tin" :-) .
Mà cuộc sống chung quanh cũng thường gặp những điều như thế. Bạn của mình thì luôn luôn nói đúng, người thân của mình thì không bao giờ làm sai. Cứ thế, bao che nhau, "tha thứ" nhau, nên cứ nhan nhản những câu chuyện chướng tai gai mắt. Lần hồi, quen thuộc đến mức nhàm chán, cứ thản nhiên như những bình thưòng. Để rồi vẫn mặc nhiên tâng bốc nhau, chụp mũ nhau, phô trương nhau, chà đạp nhau. Ai cũng biết sai, biết dối, nhưng vẫn nói, vẫn nghe, vẫn rêu rao, vẫn lên báo lên đài, vẫn dễ dãi "rộng lòng thứ tha" cho nhau. Cuối ngày, vô tình hay cố ý, họ coi thường nhau, giả vờ tin nhau, ngờ vực lẫn nhau.... Ngày tháng cứ thế trôi qua, người khóc cứ khóc, người cười cứ cười. Thành ra làm ăn gì, hợp tác gì với nhau cũng đặt sự nghi ngờ lên hàng đầu. Nhiều khi yêu nhau cũng thế, ngờ vực nhau trước. Dĩ nhiên là không phải ai cũng như vậy, và cũng không ai muốn thế, nhưng đời sống văn hoá xã hội ngày nay đã vô tình dẫn dắt họ đi xa đến vậy !
Một xã hội mà phải "hoài nghi tất cả", dĩ nhiên là xã hội không đáng sống. Nhưng để thay đổi được điều đó, thì có lẽ phải nên bắt đầu từ những vấn đề cơ bản nhất, từ hệ thống giáo dục xã hội, từ học đường, từ gia đình, chứ không phải đợi đến lúc làm chủ tịch hãng dược, bí thư, hay tiến sĩ, giáo sư .... Bởi lúc đó, thì những câu chuyện nghịch lý kia đã trở thành thuộc tính, những hiện tượng tự nhiên, những "câu chuyện thường ngày ở huyện". Hết chuyện này sẽ lòi chuyện khác. Vấn đề chỉ là bị lộ hay chưa bị lộ mà thôi !
- Anh thừa biết rằng kêu cậu ấy viết một đỏan văn tiếng Anh ngắn cỡ tờ A4, viết không xong. Vậy ở Mỹ trình luận án tiến sĩ bằng tiếng Việt à ? Thế mà anh cứ phô trương làm gì, lỡ có người không biết, hiểu sai, tội nghiệp họ.
Anh cười bẽn lẽn. Mình thường thấy trong các buổi họp mặt bạn bè, anh là người hay co cãi. Nếu có người khác kể chuyện tương tự như thế, anh đã tranh luận phê phán rồi. Nhưng là người thân của anh, thì anh lại rộng lòng "tha thứ", vui lòng "quảng bá thông tin" :-) .
Mà cuộc sống chung quanh cũng thường gặp những điều như thế. Bạn của mình thì luôn luôn nói đúng, người thân của mình thì không bao giờ làm sai. Cứ thế, bao che nhau, "tha thứ" nhau, nên cứ nhan nhản những câu chuyện chướng tai gai mắt. Lần hồi, quen thuộc đến mức nhàm chán, cứ thản nhiên như những bình thưòng. Để rồi vẫn mặc nhiên tâng bốc nhau, chụp mũ nhau, phô trương nhau, chà đạp nhau. Ai cũng biết sai, biết dối, nhưng vẫn nói, vẫn nghe, vẫn rêu rao, vẫn lên báo lên đài, vẫn dễ dãi "rộng lòng thứ tha" cho nhau. Cuối ngày, vô tình hay cố ý, họ coi thường nhau, giả vờ tin nhau, ngờ vực lẫn nhau.... Ngày tháng cứ thế trôi qua, người khóc cứ khóc, người cười cứ cười. Thành ra làm ăn gì, hợp tác gì với nhau cũng đặt sự nghi ngờ lên hàng đầu. Nhiều khi yêu nhau cũng thế, ngờ vực nhau trước. Dĩ nhiên là không phải ai cũng như vậy, và cũng không ai muốn thế, nhưng đời sống văn hoá xã hội ngày nay đã vô tình dẫn dắt họ đi xa đến vậy !
Một xã hội mà phải "hoài nghi tất cả", dĩ nhiên là xã hội không đáng sống. Nhưng để thay đổi được điều đó, thì có lẽ phải nên bắt đầu từ những vấn đề cơ bản nhất, từ hệ thống giáo dục xã hội, từ học đường, từ gia đình, chứ không phải đợi đến lúc làm chủ tịch hãng dược, bí thư, hay tiến sĩ, giáo sư .... Bởi lúc đó, thì những câu chuyện nghịch lý kia đã trở thành thuộc tính, những hiện tượng tự nhiên, những "câu chuyện thường ngày ở huyện". Hết chuyện này sẽ lòi chuyện khác. Vấn đề chỉ là bị lộ hay chưa bị lộ mà thôi !
Thursday, August 24, 2017
Phiếm: chuyện thường lệ
Chia tay một sự thường lệ có khi không thường lệ chút nào !
Người dân Luân Đôn hôm đầu tuần đã phát biểu như thế khi Big Ben tạm ngừng hoạt động. Nhiều người khóc lóc thảm thiết cho dù chỉ tạm chia tay với những tiếng gõ nhịp của Big Ben từ bây giờ cho đến năm 2021. (Mở ngoặc chút, tháp đồng hồ Big Ben, biểu tượng của London, đã làm việc không ngừng nghỉ hơn 150 năm, giờ cần giải lao 4 năm, để tút lại dung nhan). Đơn giản là thế !
Riêng mình thì cảm nhận được phần nào những giọt nước mắt của người London. Nhớ hồi còn ở bên Anh, lâu lâu cũng thường ghé cái McDonald bên kia cầu Westminter, đối diện với Big Ben, làm cái Big Mac cho đỡ ghiền :-). Thời đó còn chưa có London Eye, ngồi bệt bên bờ sông Thames, mơ mơ màng màng, nghe Big Ben gõ nhịp. Nhìn những chiếc canoe thoăn thoắt nhẹ nhàng trôi về phía cuối sông lững lờ.... Thường lệ quá, tầm thường quá, nhưng rồi chợt nhận ra chút gì thiêu thiếu khi quay về lại Mỹ. Có lẽ người London cũng thế. Một ngày như mọi ngày, những thứ quen thuộc rất ư tầm thường như Big Ben, Place of Westminter, Tower Bridge, Trafalgar Square, Buckingham, St Paul's Catheral .... đi lại mỗi ngày, rồi một lúc nào đó mới giật mình nhận ra những khoảng trống cần thiết !
Mà thế giới này chắc ai cũng thế. Cái gì có trong tay ít biết quý giá, cho đến khi thật sự mất đi. Nhớ hồi nhỏ cũng vậy, nhà gần nhà thờ, trường học cũng gần nhà thờ. Tiếng chuông mỗi ngày trở thành quen thuộc qúa, tầm thường qúa, mãi cho đến lúc đi xa mới nhớ.
Lớn lên chút nữa, tập tành yêu đương, cafe thuốc lá, nhạc vàng nhạc đỏ, quán cóc la cà, ngắm nhìn thiên hạ ngược xuôi mỗi ngày. Những con phố thân quen đầy ắp vui buồn, thượng vàng hạ cám, đủ thứ. Phô trương, vỗ về, nghiệt ngã, tàn nhẫn, lừa lọc. tin yêu .... tất cả đều thực và sống động. Lúc gần cứ như thường lệ, đến lúc xa rồi mới thấy không bình thường, quay quắt nhớ.
Đã có những lúc mình hồi hàng giờ nhớ lại con đường xưa và những hình ảnh quen thuộc. Có khi là những nguoi thanh niên quen thuộc, cách mạng mùa, vừa đổi thay y phục, hô hào vinh danh nếp sống mới. Có khi là những chàng trai lãng tử thất chí, tóc tai bù xù, cuối đầu lầm lũi, lẩm bẩm suy tư cố tìm lối thoát. Có khi là những người lính hớn hở, chút ngơ ngác, lưng ba lô, vai mang đài, tay cầm tay xách. Có khi là những người lính khác gầy gò câm nín trở về, lê la phố thị, cố tìm lẽ sống. Những người thiếu thụ đổi đời, vai gánh tay mang, tần tảo nuôi con. Những người con gái e lệ, thướt tha như thiên thần, cuối đầu rảo bước như nhanh chân trốn chạy những cặp mắt cú vọ của đám con trai. Những tiếng rao hờ hững, những gánh hàng rong, những chiếc xe đẩy, ba gác, xích lô, còng lưng miệt mài giữa bể nắng trưa. Những mái đầu xanh sạm nắng vàng hoe, những cụ già khô héo run rẩy đôi tờ vé số, vài xâu mía ghim, bọc cóc túi xoài, vụng về cột gói .vv....
Đói nghèo và ca tụng, câm nín và nhẫn nhục. Chuyện bình thường. Tất cả đều là những thứ thường lệ của xã hội. Rồi mọi người vẫn lạc quan để sống. Vẫn cần một sự lãng mạn cần thiết để tồn tại trong xã hội khốn khổ thời bấy giờ. Đám bọn mình ngày đó thần tượng Đinh Hùng, Nguyễn tất Nhiên, Vũ Hoàng Chương, Phạm thiên Thư, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng .... chỉ vì họ dám yêu dám viết. Chỉ vì trong mớ ngôn ngữ hào phóng ấy dường như có chút của riêng mình. Vẫn nghêu ngao Từ công Phụng, Lê Uyên Phương ... như để tự an ủi cái "vũng lầy của chúng ta". Vẫn tự hào chuyền tay nhau E.M. Remarque, Sholokhov với những "Chiến Hữu, Bia mộ đen của bầy diều hâu gãy cánh, Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh, Một thời để yêu một thời để chết, Sông Đông êm đềm ...", bên cạnh những "Thép đã tôi thế đấy , Ruồi trâu " đầy rẫy mỗi ngày..... Và còn bao nhiêu thứ trằn trọc nữa, bình thường như một thường lệ.
Để rồi cho tới một ngày kia thực sự chia xa những điều bình thường ấy, mới da diết nhớ. Đôi khi một tiếng chuông chiều, một câu thơ, một bài nhạc, một bóng dáng đi qua .... đủ làm ngẩn ngơ cả buổi chiều nơi xứ lạ. Cho nên đúng là chia tay một thường lệ có khi không dễ dàng chút nào. Càng khó hơn nữa khi phải chia tay với những thứ đã từng thân thuộc, gần gũi, ngay chính trên quê hương mình. Có lẽ vậy !
Người dân Luân Đôn hôm đầu tuần đã phát biểu như thế khi Big Ben tạm ngừng hoạt động. Nhiều người khóc lóc thảm thiết cho dù chỉ tạm chia tay với những tiếng gõ nhịp của Big Ben từ bây giờ cho đến năm 2021. (Mở ngoặc chút, tháp đồng hồ Big Ben, biểu tượng của London, đã làm việc không ngừng nghỉ hơn 150 năm, giờ cần giải lao 4 năm, để tút lại dung nhan). Đơn giản là thế !
Riêng mình thì cảm nhận được phần nào những giọt nước mắt của người London. Nhớ hồi còn ở bên Anh, lâu lâu cũng thường ghé cái McDonald bên kia cầu Westminter, đối diện với Big Ben, làm cái Big Mac cho đỡ ghiền :-). Thời đó còn chưa có London Eye, ngồi bệt bên bờ sông Thames, mơ mơ màng màng, nghe Big Ben gõ nhịp. Nhìn những chiếc canoe thoăn thoắt nhẹ nhàng trôi về phía cuối sông lững lờ.... Thường lệ quá, tầm thường quá, nhưng rồi chợt nhận ra chút gì thiêu thiếu khi quay về lại Mỹ. Có lẽ người London cũng thế. Một ngày như mọi ngày, những thứ quen thuộc rất ư tầm thường như Big Ben, Place of Westminter, Tower Bridge, Trafalgar Square, Buckingham, St Paul's Catheral .... đi lại mỗi ngày, rồi một lúc nào đó mới giật mình nhận ra những khoảng trống cần thiết !
Mà thế giới này chắc ai cũng thế. Cái gì có trong tay ít biết quý giá, cho đến khi thật sự mất đi. Nhớ hồi nhỏ cũng vậy, nhà gần nhà thờ, trường học cũng gần nhà thờ. Tiếng chuông mỗi ngày trở thành quen thuộc qúa, tầm thường qúa, mãi cho đến lúc đi xa mới nhớ.
Lớn lên chút nữa, tập tành yêu đương, cafe thuốc lá, nhạc vàng nhạc đỏ, quán cóc la cà, ngắm nhìn thiên hạ ngược xuôi mỗi ngày. Những con phố thân quen đầy ắp vui buồn, thượng vàng hạ cám, đủ thứ. Phô trương, vỗ về, nghiệt ngã, tàn nhẫn, lừa lọc. tin yêu .... tất cả đều thực và sống động. Lúc gần cứ như thường lệ, đến lúc xa rồi mới thấy không bình thường, quay quắt nhớ.
Đã có những lúc mình hồi hàng giờ nhớ lại con đường xưa và những hình ảnh quen thuộc. Có khi là những nguoi thanh niên quen thuộc, cách mạng mùa, vừa đổi thay y phục, hô hào vinh danh nếp sống mới. Có khi là những chàng trai lãng tử thất chí, tóc tai bù xù, cuối đầu lầm lũi, lẩm bẩm suy tư cố tìm lối thoát. Có khi là những người lính hớn hở, chút ngơ ngác, lưng ba lô, vai mang đài, tay cầm tay xách. Có khi là những người lính khác gầy gò câm nín trở về, lê la phố thị, cố tìm lẽ sống. Những người thiếu thụ đổi đời, vai gánh tay mang, tần tảo nuôi con. Những người con gái e lệ, thướt tha như thiên thần, cuối đầu rảo bước như nhanh chân trốn chạy những cặp mắt cú vọ của đám con trai. Những tiếng rao hờ hững, những gánh hàng rong, những chiếc xe đẩy, ba gác, xích lô, còng lưng miệt mài giữa bể nắng trưa. Những mái đầu xanh sạm nắng vàng hoe, những cụ già khô héo run rẩy đôi tờ vé số, vài xâu mía ghim, bọc cóc túi xoài, vụng về cột gói .vv....
Đói nghèo và ca tụng, câm nín và nhẫn nhục. Chuyện bình thường. Tất cả đều là những thứ thường lệ của xã hội. Rồi mọi người vẫn lạc quan để sống. Vẫn cần một sự lãng mạn cần thiết để tồn tại trong xã hội khốn khổ thời bấy giờ. Đám bọn mình ngày đó thần tượng Đinh Hùng, Nguyễn tất Nhiên, Vũ Hoàng Chương, Phạm thiên Thư, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng .... chỉ vì họ dám yêu dám viết. Chỉ vì trong mớ ngôn ngữ hào phóng ấy dường như có chút của riêng mình. Vẫn nghêu ngao Từ công Phụng, Lê Uyên Phương ... như để tự an ủi cái "vũng lầy của chúng ta". Vẫn tự hào chuyền tay nhau E.M. Remarque, Sholokhov với những "Chiến Hữu, Bia mộ đen của bầy diều hâu gãy cánh, Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh, Một thời để yêu một thời để chết, Sông Đông êm đềm ...", bên cạnh những "Thép đã tôi thế đấy , Ruồi trâu " đầy rẫy mỗi ngày..... Và còn bao nhiêu thứ trằn trọc nữa, bình thường như một thường lệ.
Để rồi cho tới một ngày kia thực sự chia xa những điều bình thường ấy, mới da diết nhớ. Đôi khi một tiếng chuông chiều, một câu thơ, một bài nhạc, một bóng dáng đi qua .... đủ làm ngẩn ngơ cả buổi chiều nơi xứ lạ. Cho nên đúng là chia tay một thường lệ có khi không dễ dàng chút nào. Càng khó hơn nữa khi phải chia tay với những thứ đã từng thân thuộc, gần gũi, ngay chính trên quê hương mình. Có lẽ vậy !
Wednesday, August 16, 2017
Ghét thương
Từ ngày ông Trump lên làm tổng thống, ngày nào tuần nào cũng có chuyện nói. Truyền thông, đài TV, thì tha hồ mà chọn đề tài để phê phán & để châm chọc, từ việc riêng đến việc chung. Nhưng nhiều người ủng hộ ông Trump vẫn kiên nhẫn tha thứ cho cách ăn nói phát ngôn, tư duy lãnh đạo của ông, vì họ cho rằng "lời thật mất lòng". Nhiều người tin rằng ông là người giữ lời hứa, sẽ đưa đất nước Mỹ tốt trở lại "great again". Và cứ hy vọng là thế !
Mấy ngày gần đây nước Mỹ lại xôn xao với ông Trump, ngoại có chuyện chú Ủn, nội có chuyện bạo động ở Charlottesville. Người Mỹ bắt đầu đặt câu hỏi nghiêm túc về phân hoá nội bộ, về giá trị đạo đức, về lòng ghét bỏ hận thù giữa các nhóm chống đối và giữa con người với nhau. Nhiều nhóm cực đoan, phân biệt chủng tộc, bắc nam, lâu nay im ắng lại bắt đầu trỗi dậy mạnh mẽ.
Hôm rồi ông Obama đã viết (tweet) trên trang cá nhân của mình, và nhanh chóng trở thành cái "tweet" được nhiều người ưa thích nhất trong lịch sử Twitter: "No one is born hating another person because of the color of his skin or his background or his religion … People must learn to hate, and if they can learn to hate, they can be taught to love … For love comes more naturally to the human heart than its opposite”. (Tạm dịch: Không ai được sinh ra để căm ghét kẻ khác vì màu da, lý lịch, hoặc tôn giáo .... Người ta phải học cách ghét, và nếu họ có thể học được cách ghét, thì cũng có thể được dạy dỗ cách thương yêu .... Sự thương yêu vốn thường đến với con người tự nhiên hơn những điều ngược lại ". Đúng vậy, "nhân chi sơ vốn bản thiện". Cái ghét cái thương đều được hình thành bởi những nguyên nhân nhất định nào đó.
Và đất nước VN, cũng từng có những giai đoạn căm thù nhau, ghét bỏ nhau, kỳ thị nhau như thế. Ta và địch. Kẻ Nam, người Bắc. Kẻ giàu người nghèo. Lý lịch bản thân, lý lịch nhân thân, ba đời bần cố nông, bảy đời địa chủ .....v.v...
Thế rồi giờ còn căm ghét nhau không ? Ai cũng có thể nhìn quanh và không khó lắm để tìm ra câu trả lời cho riêng mình .
- “Dạ thưa xứ Huế bây chừ. Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương” (Bùi Giáng).
Nhìn chung, thiên hạ lâu nay ai cũng biết là "Thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Tuy nhiên lòng hận thù đố kỵ, căm ghét nhau lại chưa chắc đến từ những loạn lạc đó, mà đến từ những sự gieo rắc & công cụ tuyên truyền khác. Suy cho cùng, cái riêng trong mỗi con người, cũng như giá trị đạo đức & sự hiểu biết của họ sẽ định đoạt lòng hận thù hay vị tha. Dĩ nhiên không có sự phân hoá, hận thù, ganh ghét nào đem đến những kết quả tốt đẹp !
Mấy ngày gần đây nước Mỹ lại xôn xao với ông Trump, ngoại có chuyện chú Ủn, nội có chuyện bạo động ở Charlottesville. Người Mỹ bắt đầu đặt câu hỏi nghiêm túc về phân hoá nội bộ, về giá trị đạo đức, về lòng ghét bỏ hận thù giữa các nhóm chống đối và giữa con người với nhau. Nhiều nhóm cực đoan, phân biệt chủng tộc, bắc nam, lâu nay im ắng lại bắt đầu trỗi dậy mạnh mẽ.
Hôm rồi ông Obama đã viết (tweet) trên trang cá nhân của mình, và nhanh chóng trở thành cái "tweet" được nhiều người ưa thích nhất trong lịch sử Twitter: "No one is born hating another person because of the color of his skin or his background or his religion … People must learn to hate, and if they can learn to hate, they can be taught to love … For love comes more naturally to the human heart than its opposite”. (Tạm dịch: Không ai được sinh ra để căm ghét kẻ khác vì màu da, lý lịch, hoặc tôn giáo .... Người ta phải học cách ghét, và nếu họ có thể học được cách ghét, thì cũng có thể được dạy dỗ cách thương yêu .... Sự thương yêu vốn thường đến với con người tự nhiên hơn những điều ngược lại ". Đúng vậy, "nhân chi sơ vốn bản thiện". Cái ghét cái thương đều được hình thành bởi những nguyên nhân nhất định nào đó.
Và đất nước VN, cũng từng có những giai đoạn căm thù nhau, ghét bỏ nhau, kỳ thị nhau như thế. Ta và địch. Kẻ Nam, người Bắc. Kẻ giàu người nghèo. Lý lịch bản thân, lý lịch nhân thân, ba đời bần cố nông, bảy đời địa chủ .....v.v...
Thế rồi giờ còn căm ghét nhau không ? Ai cũng có thể nhìn quanh và không khó lắm để tìm ra câu trả lời cho riêng mình .
- “Dạ thưa xứ Huế bây chừ. Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương” (Bùi Giáng).
Nhìn chung, thiên hạ lâu nay ai cũng biết là "Thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Tuy nhiên lòng hận thù đố kỵ, căm ghét nhau lại chưa chắc đến từ những loạn lạc đó, mà đến từ những sự gieo rắc & công cụ tuyên truyền khác. Suy cho cùng, cái riêng trong mỗi con người, cũng như giá trị đạo đức & sự hiểu biết của họ sẽ định đoạt lòng hận thù hay vị tha. Dĩ nhiên không có sự phân hoá, hận thù, ganh ghét nào đem đến những kết quả tốt đẹp !
Friday, August 11, 2017
How A Kidnapping In Berlin Could Bring Down Vietnam's FTA With Europe
By David Hutt, CONTRIBUTOR
(Opinions expressed by Forbes Contributors are their own.)
The EU is today Vietnam’s second-largest trading partner, after China, and second-biggest export market, after the United States.
The Vietnam government, perhaps, knows that while human rights might be a “red line” for some EU officials, the promise of greater profits for European firms could be enough to strong-arm others into accepting the EVFTA.
German Chancellor Angela Merkel welcomes Vietnam's Prime Minister Nguyen Xuan Phuc on July 7, 2017.
A proposed free trade agreement between Vietnam and the European Union could be hanging in the balance after the German foreign ministry accused Vietnam’s secret service of kidnapping a Vietnamese businessman from the streets of Berlin late last month. Trinh Xuan Thanh, who is wanted by Vietnamese authorities for alleged financial crimes, was abducted in the heart of the German capital on July 23, the German government says, but Hanoi claims he voluntarily returned to Vietnam and turned himself in to the police. He later appeared on Vietnamese state-television to deliver a “confession,” which his lawyer called "forced."
War of Words
Earlier this month, Germany’s foreign ministry said there are “no longer any serious doubts” that Vietnam’s secret service and embassy were involved in the abduction, and described it as an “unprecedented and blatant violation of German law and international law.” It also called on Hanoi to return Thanh to Germany, where he was applying for asylum. The German foreign minister later described the event as akin to “thriller films about the Cold War.”
“Berlin should demand that the Vietnamese immediately release Thanh, and base any continued engagement between Germany and Vietnam on a successful resolution of the case,” said Phil Robertson, deputy director of Human Rights Watch's Asia division.
So far, however, Germany has only declared Vietnam’s intelligence agency chief persona non grata. For now, it appears Hanoi has no intention of sending Thanh back to Germany, which is Vietnam’s largest European trading partner. As a result, Germany’s foreign minister spokesman told Reuters this week that “we are looking at what can be done to make clear to our Vietnamese partners that we cannot accept it.”
“All options are on the table,” he added.
German Chancellor Angela Merkel (R) and Vietnamese Prime Minister Nguyen Tan Dung (JOHN MACDOUGALL/AFP/Getty Images)
What's At Stake
One option is that Germany restricts development aid to Vietnam. In 2015, it pledged $257 million for a two-year period. Another option, analysts told me confidently, could be that German Chancellor Angela Merkel, today the informal leader of the EU, has her government lobby its European neighbors to halt progress on the proposed EU-Vietnam Free Trade Agreement (EVFTA), which both sides agreed to in December 2015 and was expected to be ratified early next year.
The agreement is vitally important for Vietnam. Its bilateral trade with the EU rose from just $10 billion in 2006 to a whopping $48 billion last year. The EU is today Vietnam’s second-largest trading partner, after China, and second-biggest export market, after the United States. The European Commission, the EU’s executive arm, thinks the EVFTA could boost Vietnam’s GDP by as much as 15%.
More on Forbes: China-Vietnam Relations Fall To A One-Year Low Over A New Maritime Dispute
Even before Thanh’s kidnapping, there were suggestions that the EVFTA might be delayed because of Vietnam’s horrendous human rights record, which some believe has worsened in recent years. A ruling now means the EVFTA has to be approved by each of the EU’s 28 member nations, as well as the European Parliament, and human rights groups are busy lobbying them to reject it – or, at least, force through major changes that would mean the EU only accepts the agreement if Vietnam’s government improves human rights.
In this picture taken on July 10, 2016, anti-China activist La Viet Dung is seen while under medical care at a local hospital in Hanoi. A prominent Vietnamese activist who plays in a football team that doubles up as an anti-China protest group said July 11 he was viciously beaten by plainclothes thugs after a match. (Photo credit should read DOAN BAO CHAU/AFP/Getty Images)
“We have told the Vietnamese authorities that it will be extremely difficult to approve [the EVFTA] under these circumstances,” Pier Antonio Panzeri, chairman of the European Parliament’s subcommittee on human rights, said at a press conference in February during a visit to Vietnam.
The Vietnamese government had appeared eager to placate European concerns before last month’s kidnapping, making the event all the more confusing. In July, Prime Minister Nguyen Xuan Phuc traveled to Germany to take part in the G20 Summit, held in Hamburg. There, he met with 14 world leaders including European Council president Donald Tusk and the president of the European Commission, Jean Claude Juncker, according to Vietnamese state-media.
He also sat down with Chancellor Merkel. At their meeting it was announced that both countries had agreed to $1.7 billion worth of new trade deals, Vietnamese media reported. Afterwards, Phuc traveled to the Netherlands, the largest European investor in Vietnam. In The Hague, he announced that Vietnam will lift restrictions on foreign investors in several industries.
A Thorny Issue
The Vietnam government, perhaps, knows that while human rights might be a “red line” for some EU officials, the promise of greater profits for European firms could be enough to strong-arm others into accepting the EVFTA.
Moreover, the EU could shoot itself in the foot if it begins to disrupt the EVFTA over Vietnam’s human rights record; it would set a precedent for future agreements. The EU has long wanted to form a free trade agreement with the entire Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) bloc and discussions on the deal resumed in March.
But if the EVFTA falters over Vietnam’s human rights record – though not over Thanh’s kidnapping – the ASEAN-EU free trade agreement will almost certainly perish as a result. That one has to consider the human rights conditions in Laos, Cambodia, Malaysia, the Philippines and Brunei as well, all of which are equally found wanting, almost to the same degree as Vietnam.
Monday, August 07, 2017
Friday, August 04, 2017
Phiếm: Được và mất,
Lâu nay, khái niệm "được, mất" vẫn thường được người ta nhắc đến và bàn luận nhiều trong đời sống hàng ngày. Từ quan hệ cá nhân, quan hệ gia đình, cho đến quốc gia và những quan hệ quốc tế rộng lớn khác. Trong cuộc sống vốn có những thứ tưởng chừng được lại là mất, có những thứ tưởng như mất lại là được. Nhiều người lý giải cao siêu về sự "được mất" bằng những luận thuyết âm dương, đạo lý ying yang, phận số, tử vi, kinh Dịch, "trời cho tay này, lấy lại tay khác" .v.v... Mình thì nghĩ đơn giản là do yếu tố con người, đại đa số đều có thể tự định đọat cái được & mất trong cuộc sống của chính họ. Còn đối với việc trọng đại như quốc gia dân tộc, lãnh đạo đất nước, thì cái toan tính "được mất" lại càng quan trọng, thường được cân nhắc cẩn trọng hơn nhiều, bởi tầm ảnh hưởng và những hệ luỵ có khi kéo dài cả bao nhiêu thế hệ.
Nhìn lại lịch sử VN có những bài học nặng nhẹ, được mất, của tiền nhân mà thiên hạ muôn đời kính nể. Không thể là những tư duy lãnh đạo tầm thường, quanh quẩn lợi ích phe nhóm, mà có được những điển tích anh hùng như Nguyễn Trãi, Lê Đại Hành, Trần hưng Đạo, Trần Nhân Tông ... bỏ thù nhà mang nợ nước, bỏ cái riêng lấy cái chung, đánh đổi cái "mất" của bản thân để lấy cái "được" cho thiên hạ, bỏ cái vinh quang nhất thời đổi lấy cái thái bình lâu dài cho dân tộc !
Dông dài như thế là vì mấy hôm nay báo chí trong nước ngoài nước, rồi mạng xã hội lề trái lề phải, xôn xao quá nhiều về câu chuyện anh chàng dầu khí Trịnh xuân Thanh (TXT). Tự nhiên làm mình lan man nghĩ đến cái khía cạnh được & mất của câu chuyện. Đúng ra có hai vấn đề khác nhau:
1 - TXT là nghi can bị khởi tố tội tham quan, tham nhũng, gây thất thoát tài sản nhà nước. (Khi chưa xử án, thì anh ta vẫn là nghi can, chứ không phải tội phạm). Thiết nghĩ, lâu nay dân lành ai cũng ủng hộ công cuộc chống tham nhũng, bởi tham nhũng là nguyên nhân hàng đầu đưa nước nhà vào con đường khánh kiệt. Đặc biệt là tham nhũng trên mồ hôi xương máu của người dân. Cho nên cần phải xử phạt phân minh và ngăn chận vấn nạn tham nhũng, cửa quyền. Đó là chuyện tất nhiên và cần thiết. Còn câu hỏi tại sao, cơ chế thế nào mà tạo điều kiện cho nhiều quan chức tham nhũng thế, lại là câu chuyện dài khác, không bàn ở đây.
Cứ như những chuyện thường ngày ở huyện, lâu lâu khui ra vài đại gia hoặc tham quan, là có liên quan tới vấn đề tham nhũng ăn cắp, lạm dụng chức quyền, vô trách nhiệm. Dĩ nhiên thì cuối ngày người dân đen phải gánh chịu những thiệt thòi mất mát đó, trực tiếp hoặc gián tiếp. Thế thì chống tham nhũng, bắt những đại gia, trừng phạt những lỗi lầm đại án tiểu án, rồi có đền bù được những mất mát cho nước nhà hay chăng? Thi hành án, thu hồi tài sản, hay 10 năm, 20 năm, 30 năm ngồi tù ... rồi đất nước và người dân được gì ? Những ngày kế tiếp có bảo đảm những đại gia khác, nhóm lợi ích khác, ít tham nhũng hơn chăng ? Chưa nói đến là đôi khi kẻ xấu lại lợi dụng công cuộc chống tham nhũng để tạo dựng những cái riêng khác cho cho bản thân họ, cho lợi ích nhóm. Hoặc để giải quyết mâu thuẩn riêng, thì điều đó càng tệ hại hơn. Lâu nay trên thế giới cũng vậy, tội phạm đi sau càng nguy hiểm, vì càng có nhiều kinh nghiệm và che đậy khéo léo hơn những người đi trước.
Thật ra, cho đến ngày hôm nay, cũng không hiếm lắm những người hiểu rõ cội rễ & nguyên nhân xa gần của quốc nạn tham nhũng. Nhưng rồi vấn đề rốt ráo cốt lõi của giải pháp chống tham nhũng, lại là những câu chuyện "được mất". Xóa tận gốc hay chỉ giải quyết cái ngọn tạm thời ? Những cơ chế lợi ích chồng chất. Từ được mất của cái riêng vs. cái chung, của lợi ích xã hội vs. lợi ích nhóm, cho đến được mất của bản thân vs. của đất nước. Những xung đột và mâu thuẩn quyền lợi đó mãi mãi vẫn là nỗi trăn trở của nhiều quốc gia trên thế giới, chứ không phải chỉ riêng ở Vietnam. Suy cho cùng, thịnh suy của một dân tộc, một chính thể, một chế độ, cũng bắt đầu từ những sự hy sinh đánh đổi của con người giữa "được" và "mất". Dám bỏ cái sai lấy cái đúng, dám hy sinh lợi ích cá nhân để được cái quyền lợi cho đất nước.
2 - Vấn đề thứ hai ở đây, quan trọng hơn, là cách xử lý tội phạm tham nhũng. Cụ thể trong vụ này là nghi án TXT. Cứ cho rằng TXT có vai trò quan trọng mắc xích trong một đại án nào đó (hy vọng là thế), thì liệu cái "được" và "mất" của chính phủ VN qua sự kiện TXT "đầu thú" có hợp lý không ? Có lẽ điều này liên quan trực tiếp tới những động cơ và mục đích cho sự cần thiết phải có mặt của TXT tại VN. Mà câu chuyện đó thì chỉ có cơ quan chức năng và người trong cuộc mới hiểu rõ được. Nhìn kỹ lại thì cũng là vấn đề "được & mất". Cái "được" thì mình chưa biết, nhưng cái "mất" có lẽ không khó lắm để nhận ra trong những ngày kế tiếp.
Lâu nay, quan hệ quốc tế có những công ước và hành xử riêng của đó. Một khi giong thuyền ra biển lớn hội nhập thế giới bên ngoài, dĩ nhiên cuộc chơi phải tuan theo những quy tắc nhất định. Luật chơi có công bằng không ? Chưa chắc ! Lâu nay vẫn có những luật chơi quan điểm không đồng nhất giữa nước nhỏ và nước lớn. Đó không phải là chuyện ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, có những công ước căn bản và cần thiết mà mọi quốc gia phải tuân theo để duy trì cuộc chơi. Một khi công ước đó phá vỡ, quan hệ ngoại giao phá vỡ, niềm tin đối tác phá vỡ, hậu quả và hệ lụy chắc chắc xảy ra. Nặng hay nhẹ là tuỳ theo mức độ tương quan, lệ thuộc về chính trị, kinh tế, quân sự, quan hệ song phương (hoặc đa phương).... và vị thế của quốc gia đó trên trường quốc tế. Không một quốc gia nào muốn có một tiền lệ bất lợi xảy ra ngay chính trên đất nước họ.
Chiều nay có coi đọan phát biểu của ông Ngoại trưởng Đức Sigmar Gabriel nói về vụ việc của TXT, thấy rất nghiêm trọng. Đã từng có thời gian ở và làm việc tại Đức, mình hiểu được phần nào cái phản ứng của người dân và chính quyền Đức qua sự kiện này. Nhớ hồi còn ở bên Đức, thời kỳ sau bức tường Berlin sụp đổ, có giai đọan vấn nạn buôn thuốc lá lậu và tội phạm của người VN tại Đức nổi lên đình đám. Báo đài nhan nhản, đi vào công sở, chợ búa, chỗ công cọng, mình cũng ngại ngần đôi mắt của người bản xứ. Dĩ nhiên ai cũng biết người VN đi đâu cũng cần cù, làm việc chăm chỉ, nhưng cũng không hiếm những câu chuyện làm nẫu lòng sĩ diện dân tộc. Một đất nước đang đi lên, hoà nhập quốc tế, cần những quan hệ và uy tín nhất định, thì việc cân nhắc nặng nhẹ trong việc tạo dựng niềm tin với các quốc gia khác là vấn đề rất quan trọng.
TXT một nghi can tham quan tắc trách, liệu có cần thiết và đáng để VN bất chấp tất cả, kể cả đánh đổi niềm tin ngoại giao với quốc tế hay chăng ? Một câu hỏi mà nhiều người đang băn khoăn, hay còn lý do hoặc động cơ nào khác ?
Còn sự thật đằng sau câu chuyện "trở về" của TXT, rồi những câu hỏi, tranh cãi, đối đáp, chứng cớ, lý lẽ như tại sao TXT về đến được VN để đầu thú ? tự nguyện hay không tự nguyện ? bắt cóc hay đầu thú ?.... Mình nghĩ chắc không khó khăn lắm để trả lời so với nghiệp vụ điều tra của an ninh thế giới ngày nay, nhất là an ninh VN.
Thật tình là mấy hôm nay đọc tin tức VN ở đâu cũng nghe chuyện này, phát chán. Ngay cả một câu chuyện khác quan trọng hơn nhiều như sự kiện bãi Tư Chính ngoài khơi biển Đông VN, cũng phải nhường chỗ cho câu chuyện nóng bỏng "đập chuột vỡ bình" này. Tính ra, cái giá của một ông quan nhỏ với nghi án thiếu trách nhiệm & tham nhũng (chưa bị kết án) lại quan trọng đến thế. Đáng không ? Để trả lời rõ ràng, phải nhìn kỹ lại giá trị "được mất" của vụ việc TXT đem lại cho đất nước và con người VN hôm nay & ngày mai.
Và tất nhiên lý lẽ quan trọng sau cùng của cuộc chơi ngoại giao quốc tế vẫn là ai tin ai, ai cần ai. Được mất của một đất nước thường bắt đầu từ những câu chuyện như thế này !
PN
The greatness of a nation can be judged by the way its animals are treated. (Mahatma Gandhi)
Nhìn lại lịch sử VN có những bài học nặng nhẹ, được mất, của tiền nhân mà thiên hạ muôn đời kính nể. Không thể là những tư duy lãnh đạo tầm thường, quanh quẩn lợi ích phe nhóm, mà có được những điển tích anh hùng như Nguyễn Trãi, Lê Đại Hành, Trần hưng Đạo, Trần Nhân Tông ... bỏ thù nhà mang nợ nước, bỏ cái riêng lấy cái chung, đánh đổi cái "mất" của bản thân để lấy cái "được" cho thiên hạ, bỏ cái vinh quang nhất thời đổi lấy cái thái bình lâu dài cho dân tộc !
Dông dài như thế là vì mấy hôm nay báo chí trong nước ngoài nước, rồi mạng xã hội lề trái lề phải, xôn xao quá nhiều về câu chuyện anh chàng dầu khí Trịnh xuân Thanh (TXT). Tự nhiên làm mình lan man nghĩ đến cái khía cạnh được & mất của câu chuyện. Đúng ra có hai vấn đề khác nhau:
1 - TXT là nghi can bị khởi tố tội tham quan, tham nhũng, gây thất thoát tài sản nhà nước. (Khi chưa xử án, thì anh ta vẫn là nghi can, chứ không phải tội phạm). Thiết nghĩ, lâu nay dân lành ai cũng ủng hộ công cuộc chống tham nhũng, bởi tham nhũng là nguyên nhân hàng đầu đưa nước nhà vào con đường khánh kiệt. Đặc biệt là tham nhũng trên mồ hôi xương máu của người dân. Cho nên cần phải xử phạt phân minh và ngăn chận vấn nạn tham nhũng, cửa quyền. Đó là chuyện tất nhiên và cần thiết. Còn câu hỏi tại sao, cơ chế thế nào mà tạo điều kiện cho nhiều quan chức tham nhũng thế, lại là câu chuyện dài khác, không bàn ở đây.
Cứ như những chuyện thường ngày ở huyện, lâu lâu khui ra vài đại gia hoặc tham quan, là có liên quan tới vấn đề tham nhũng ăn cắp, lạm dụng chức quyền, vô trách nhiệm. Dĩ nhiên thì cuối ngày người dân đen phải gánh chịu những thiệt thòi mất mát đó, trực tiếp hoặc gián tiếp. Thế thì chống tham nhũng, bắt những đại gia, trừng phạt những lỗi lầm đại án tiểu án, rồi có đền bù được những mất mát cho nước nhà hay chăng? Thi hành án, thu hồi tài sản, hay 10 năm, 20 năm, 30 năm ngồi tù ... rồi đất nước và người dân được gì ? Những ngày kế tiếp có bảo đảm những đại gia khác, nhóm lợi ích khác, ít tham nhũng hơn chăng ? Chưa nói đến là đôi khi kẻ xấu lại lợi dụng công cuộc chống tham nhũng để tạo dựng những cái riêng khác cho cho bản thân họ, cho lợi ích nhóm. Hoặc để giải quyết mâu thuẩn riêng, thì điều đó càng tệ hại hơn. Lâu nay trên thế giới cũng vậy, tội phạm đi sau càng nguy hiểm, vì càng có nhiều kinh nghiệm và che đậy khéo léo hơn những người đi trước.
Thật ra, cho đến ngày hôm nay, cũng không hiếm lắm những người hiểu rõ cội rễ & nguyên nhân xa gần của quốc nạn tham nhũng. Nhưng rồi vấn đề rốt ráo cốt lõi của giải pháp chống tham nhũng, lại là những câu chuyện "được mất". Xóa tận gốc hay chỉ giải quyết cái ngọn tạm thời ? Những cơ chế lợi ích chồng chất. Từ được mất của cái riêng vs. cái chung, của lợi ích xã hội vs. lợi ích nhóm, cho đến được mất của bản thân vs. của đất nước. Những xung đột và mâu thuẩn quyền lợi đó mãi mãi vẫn là nỗi trăn trở của nhiều quốc gia trên thế giới, chứ không phải chỉ riêng ở Vietnam. Suy cho cùng, thịnh suy của một dân tộc, một chính thể, một chế độ, cũng bắt đầu từ những sự hy sinh đánh đổi của con người giữa "được" và "mất". Dám bỏ cái sai lấy cái đúng, dám hy sinh lợi ích cá nhân để được cái quyền lợi cho đất nước.
2 - Vấn đề thứ hai ở đây, quan trọng hơn, là cách xử lý tội phạm tham nhũng. Cụ thể trong vụ này là nghi án TXT. Cứ cho rằng TXT có vai trò quan trọng mắc xích trong một đại án nào đó (hy vọng là thế), thì liệu cái "được" và "mất" của chính phủ VN qua sự kiện TXT "đầu thú" có hợp lý không ? Có lẽ điều này liên quan trực tiếp tới những động cơ và mục đích cho sự cần thiết phải có mặt của TXT tại VN. Mà câu chuyện đó thì chỉ có cơ quan chức năng và người trong cuộc mới hiểu rõ được. Nhìn kỹ lại thì cũng là vấn đề "được & mất". Cái "được" thì mình chưa biết, nhưng cái "mất" có lẽ không khó lắm để nhận ra trong những ngày kế tiếp.
Lâu nay, quan hệ quốc tế có những công ước và hành xử riêng của đó. Một khi giong thuyền ra biển lớn hội nhập thế giới bên ngoài, dĩ nhiên cuộc chơi phải tuan theo những quy tắc nhất định. Luật chơi có công bằng không ? Chưa chắc ! Lâu nay vẫn có những luật chơi quan điểm không đồng nhất giữa nước nhỏ và nước lớn. Đó không phải là chuyện ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, có những công ước căn bản và cần thiết mà mọi quốc gia phải tuân theo để duy trì cuộc chơi. Một khi công ước đó phá vỡ, quan hệ ngoại giao phá vỡ, niềm tin đối tác phá vỡ, hậu quả và hệ lụy chắc chắc xảy ra. Nặng hay nhẹ là tuỳ theo mức độ tương quan, lệ thuộc về chính trị, kinh tế, quân sự, quan hệ song phương (hoặc đa phương).... và vị thế của quốc gia đó trên trường quốc tế. Không một quốc gia nào muốn có một tiền lệ bất lợi xảy ra ngay chính trên đất nước họ.
Chiều nay có coi đọan phát biểu của ông Ngoại trưởng Đức Sigmar Gabriel nói về vụ việc của TXT, thấy rất nghiêm trọng. Đã từng có thời gian ở và làm việc tại Đức, mình hiểu được phần nào cái phản ứng của người dân và chính quyền Đức qua sự kiện này. Nhớ hồi còn ở bên Đức, thời kỳ sau bức tường Berlin sụp đổ, có giai đọan vấn nạn buôn thuốc lá lậu và tội phạm của người VN tại Đức nổi lên đình đám. Báo đài nhan nhản, đi vào công sở, chợ búa, chỗ công cọng, mình cũng ngại ngần đôi mắt của người bản xứ. Dĩ nhiên ai cũng biết người VN đi đâu cũng cần cù, làm việc chăm chỉ, nhưng cũng không hiếm những câu chuyện làm nẫu lòng sĩ diện dân tộc. Một đất nước đang đi lên, hoà nhập quốc tế, cần những quan hệ và uy tín nhất định, thì việc cân nhắc nặng nhẹ trong việc tạo dựng niềm tin với các quốc gia khác là vấn đề rất quan trọng.
TXT một nghi can tham quan tắc trách, liệu có cần thiết và đáng để VN bất chấp tất cả, kể cả đánh đổi niềm tin ngoại giao với quốc tế hay chăng ? Một câu hỏi mà nhiều người đang băn khoăn, hay còn lý do hoặc động cơ nào khác ?
Còn sự thật đằng sau câu chuyện "trở về" của TXT, rồi những câu hỏi, tranh cãi, đối đáp, chứng cớ, lý lẽ như tại sao TXT về đến được VN để đầu thú ? tự nguyện hay không tự nguyện ? bắt cóc hay đầu thú ?.... Mình nghĩ chắc không khó khăn lắm để trả lời so với nghiệp vụ điều tra của an ninh thế giới ngày nay, nhất là an ninh VN.
Thật tình là mấy hôm nay đọc tin tức VN ở đâu cũng nghe chuyện này, phát chán. Ngay cả một câu chuyện khác quan trọng hơn nhiều như sự kiện bãi Tư Chính ngoài khơi biển Đông VN, cũng phải nhường chỗ cho câu chuyện nóng bỏng "đập chuột vỡ bình" này. Tính ra, cái giá của một ông quan nhỏ với nghi án thiếu trách nhiệm & tham nhũng (chưa bị kết án) lại quan trọng đến thế. Đáng không ? Để trả lời rõ ràng, phải nhìn kỹ lại giá trị "được mất" của vụ việc TXT đem lại cho đất nước và con người VN hôm nay & ngày mai.
Và tất nhiên lý lẽ quan trọng sau cùng của cuộc chơi ngoại giao quốc tế vẫn là ai tin ai, ai cần ai. Được mất của một đất nước thường bắt đầu từ những câu chuyện như thế này !
PN
The greatness of a nation can be judged by the way its animals are treated. (Mahatma Gandhi)
Wednesday, August 02, 2017
Đắc đạo là gì ?
Một hành giả hỏi lão hoà thượng:
- “Trước khi đắc Đạo ngài làm gì?”
Hoà thượng:
- “Đốn củi, gánh nước, nấu cơm.”
Hành giả hỏi:
- “Vậy thì sau khi đắc Đạo rồi thì sao?”
Hòa thượng:
- “Đốn củi, gánh nước, nấu cơm.”
Hành giả lại hỏi:
- “Vậy thì có khác gì khi chưa đắc Đạo đâu?”
Hòa thượng:
- “Trước khi đắc Đạo, khi đốn củi thì lo đến việc nấu nước, lúc gánh nước lại nghĩ đến chuyện nấu cơm. Khi đắc Đạo rồi, đốn củi thì cứ đốn củi, gánh nước thì cứ gánh nước, nấu cơm thì cứ nấu cơm.”
Khi cái tâm vô ái ngại như vậy chính là đã đắc Đạo.
(Source: internet)
- “Trước khi đắc Đạo ngài làm gì?”
Hoà thượng:
- “Đốn củi, gánh nước, nấu cơm.”
Hành giả hỏi:
- “Vậy thì sau khi đắc Đạo rồi thì sao?”
Hòa thượng:
- “Đốn củi, gánh nước, nấu cơm.”
Hành giả lại hỏi:
- “Vậy thì có khác gì khi chưa đắc Đạo đâu?”
Hòa thượng:
- “Trước khi đắc Đạo, khi đốn củi thì lo đến việc nấu nước, lúc gánh nước lại nghĩ đến chuyện nấu cơm. Khi đắc Đạo rồi, đốn củi thì cứ đốn củi, gánh nước thì cứ gánh nước, nấu cơm thì cứ nấu cơm.”
Khi cái tâm vô ái ngại như vậy chính là đã đắc Đạo.
(Source: internet)
Tuesday, August 01, 2017
An Nhiên Vô Sự (Thầy Viên Minh)
Trong ngoài lặng lẽ chẳng vin đâu
Sáng suốt, hồn nhiên khỏi vọng cầu
Buông hết một phen đừng luyến tiếc
Mới hay ngay đó thấy đạo mầu!
(Viên Minh)
Ngày nay, nhân loại đã tiến bộ rất xa về mặt khoa học, kỹ thuật, đã làm thay đổi bộ mặt thế giới từng ngày, từng giờ và thậm chí từng phút, từng giây, nên đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội v.v… đều được nâng cao một cách đáng kể.
Nhờ phương tiện giao thông vận tải, phương tiện truyền thanh, truyền hình, mạng internet, vô tuyến viễn thông mà thế giới đã và đang hội nhập thành một cộng đồng quốc tế với qui mô toàn cầu hóa. Điều này đem đến biết bao phúc lợi xã hội, tiện nghi đời sống đủ để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ ngày càng đa diện và phong phú của con người.
Tuy nhiên, để có được những thành quả ấy, cư dân trên trái đất nầy đã phải khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên: Khoáng sản, lâm sản, hải sản, nhiên liệu. Đồng thời, khí thải từ các nhà máy, từ tàu thuyền xe cộ, từ các thiết bị dân dụng, các sóng điện từ, các chất hóa học độc hại, từ phóng xạ hạch nhân v.v... đã làm ô nhiễm môi trường sống, phá vỡ tầng ozone, thay đổi khí hậu, thời tiết, phát sinh nhiều loại siêu vi nguy hiểm, những căn bệnh ngặt nghèo, động đất, sóng thần, bão lũ, v.v...
Hoạt động của thân và tâm là nhu cầu tất yếu của đời sống con người, thậm chí càng hoạt động tích cực, nhiệt tình, siêng năng, tháo vát để làm lợi mình lợi người hay phục vụ trong tinh thần vô ngã vị tha thì càng tốt. Tuy nhiên, vì tham vọng và ích kỷ cá nhân mà nhiều người đang cố gắng tăng tốc đến chóng mặt trong mọi lãnh vực đời sống. Họ tận dụng mọi tiềm năng thể chất lẫn tinh thần để phấn đấu, tranh thủ, giành giựt, và thậm chí, còn sẵn sàng trừ khử lẫn nhau bằng nhiều mưu mô, thủ đoạn.
Những cuộc chạy đua đủ mọi lãnh vực, tầm cỡ giữa những cá nhân, tập thể, xí nghiệp, công ty, quốc gia, xã hội, hay quy mô toàn thế giới dường như không bao giờ có thể chấm dứt. Như vậy, trong khi khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại hơn thì không những tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, môi trường sống bị ô nhiễm mà cả thể chất lẫn tinh thần của con người cũng ngày càng bị khủng hoảng trầm trọng hơn!
Trong tình huống đó, bạn cũng bị lôi cuốn vào cơn lốc của thành – bại , được – mất , hơn – thua, vui – khổ giữa cuộc đời; để rồi, một lúc nào đó chợt thấy mình và những người xung quanh đã trở nên quá hấp tấp, nôn nóng, vội vã, khẩn trương, kèm theo những nỗi lo âu, sợ hãi, căng thẳng, bức xúc, thậm chí lắm khi hung bạo, tàn nhẫn, bất nhân và thác loạn. Những tình trạng khủng hoảng đó ít nhiều ảnh hưởng đến hệ thần kinh, đưa đến suy nhược, trầm cảm và những biến chứng nguy hại về mặt tâm thần.
Chính trong tình trạng bất an mà sự căng thẳng có nguy cơ đưa đến suy sụp cả thể chất lẫn tinh thần đó, bạn cần phải bình tĩnh. Không nên lăng xăng, hối hả tìm biện pháp giải quyết; vì càng nôn nóng giải quyết, dù bằng cách nào, thì sự căng thẳng sẽ càng gia tăng và trở nên bất trị. Đơn giản bạn chỉ cần để cho thân tâm được nghỉ ngơi vô sự - nghỉ ngơi hoàn toàn - dù chỉ một lát thôi. Đừng dụng công, đừng gắng gượng, đừng khống chế, đừng cố luyện tập cho thân tâm đứng yên bất động. Thân tâm bạn chỉ yên khi bạn buông xuống mọi ý đồ tạo tác để cố gắng trở thành.
Chính ý muốn trở thành là động cơ làm cho tâm bạn không yên, kể cả ý muốn thiền định để cố giữ cho tâm yên tĩnh. Mặc dù thiền định được gọi là hiện tại lạc trú, nhưng thực ra nó vẫn là một loại hoạt động căng thẳng chứ không phải là một nội tâm an nhiên vô sự. Vậy điều quan trọng là bạn có khám phá được sự quân bình giữa hoạt động và nghỉ ngơi một cách đúng mức hay không.
Thân tâm an lạc không xuất phát từ sự thúc ép để tạo ra an lạc, vì bất cứ điều gì được tạo thành một cách chủ quan theo tư kiến tư dục đều bị hủy hoại và đưa đến bất an đau khổ. Bí quyết của sự an lạc là thân tâm bạn phải thoát khỏi mọi ý đồ lăng xăng tạo tác của cái ta ảo tưởng.
Bình an vô sự chỉ có được khi tâm bạn không bị dính mắc vào quá khứ, hiện tại hoặc vị lai, mà nó an nhiên tự tại không lệ thuộc vào bất cứ điều kiện nào. Bạn nên để cho thân tâm nghỉ ngơi thật thoải mái, tự nhiên, vì đó là nhu cầu thực sự của nó sau khi đã bị lạm dụng quá mức. Khi thân tâm bạn được nghỉ ngơi thỏa đáng thì khả năng hoạt động của nó sẽ rộng lớn hơn, chính xác hơn và hiệu quả hơn so với cái tâm lo âu, căng thẳng và bị áp lực của tham vọng hay sự ức chế tham vọng.
Hãy để cho thân bạn được thư giãn từ đầu đến chân; và hãy để cho tâm bạn được buông xả trước mọi bận rộn, đa đoan, trong những lo âu, toan tính của cái ta ảo tưởng đầy tham vọng. Bạn thử nhìn lại xem: Bạn đã bắt cái thân làm việc quá nhiều, cần phải dành cho nó ít thời gian để được nghỉ ngơi thật sự thoải mái.
Cũng vậy, tâm bạn đã bận rộn với quá nhiều lo tính, sao thỉnh thoảng không cho nó được rỗng lặng vô tư để tinh thần tự ổn định và tự phục hồi năng lực? Tâm an nhiên vô sự chính là nguyên lý: “Điềm đạm hư vô chân khí tùng chi” mà Y Đạo phương Đông thường nói đến.
Nếu ngay tại đây và bây giờ tâm bạn không buông xuống được, không thể điềm đạm hư vô, an nhiên vô sự, thì bạn có thể dùng một phương tiện nào đó giúp bạn thư giãn buông xả dễ dàng hơn, như yoga, thái cực quyền, khí công hay thiền định, nhưng đó chỉ là giải pháp tạm thời thôi, đừng xem đó là phương pháp rèn luyện lâu dài để đạt được điều gì cả, vì như vậy bạn lại lợi dụng thân tâm cho ý đồ ích kỷ nào đó của bạn, điều này chỉ làm thân tâm bạn lệ thuộc vào những điều kiện của kỹ thuật, phương pháp, chứ không phải được nghỉ ngơi thoải mái, điềm đạm hư vô một cách toàn triệt.
Theo Lão Tử thì cảnh giới cao nhất của tâm là vô vi, còn đức Phật thì đó là tâm không, vô tướng, vô tác, vô nguyện. Chính khi rỗng lặng vô tâm thì mọi điều kỳ diệu mới có thể xảy ra. Đó là lý do vì sao Lão Tử nói: “Cố thường vô, dục dĩ quan kỳ diệu”. (Cho nên thường rỗng không để thấy điều kỳ diệu của nó). Và đức Phật cũng dạy: “Hữu vi tạo tác lặng xuống mới an lạc”.
Bạn đừng xem sự buông xuống mọi ý đồ lăng xăng tạo tác của cái ta ảo tưởng chỉ là một sự nghỉ ngơi tạm thời để lấy sức cho những ý đồ mới quy mô hơn, thực ra sự buông xuống cái ngã hữu vi này là sự giải thoát đầu tiên mà cũng chính là sự giải thoát cuối cùng nếu như đó là sự buông xả toàn triệt của ba-la-mật (upekkhā pāramī). Trong Kệ Pháp Cú 97, đức Phật mô tả một người giác ngộ toàn triệt như sau:
Liễu vô vi, vô tín
Phá vỡ sự tục sinh
Buông vọng cầu, cơ hội
Chính là người tối linh.
Trong Hattha yoga, nếu một người có thể nằm buông lỏng như một xác chết trong tư thế sāvasana khoảng 20 phút thì có thể phục hồi được chân khí bị tiêu hao trong 24 tiếng đồng hồ trước đó. Theo Phật giáo, niệm sự chết tức đặt mình trong tình huống đã chết, là cách buông xuống mọi ý đồ lăng xăng của bản ngã để thể nghiệm “cái không là gì cả” ngay nơi thực tại hiện tiền.
Và chính khi chết đi mọi hữu vi tạo tác thì sự sống mới thật là nguồn an lạc vô biên, bất tận. Thư giãn, buông xả, nghỉ ngơi hoàn toàn là yếu tố cơ bản không thể bỏ qua trong bất cứ tâm thiền nào. Rất nhiều người xem thường yếu tố buông xả cơ bản này, họ quyết tâm nỗ lực rèn luyện thiền định, thiền tuệ, thiền công án, hay trì chú, niệm Phật, cầu nguyện tha lực v.v... với hy vọng thúc đẩy kết quả đến nhanh hơn! Nhưng hãy coi chừng: Càng mong kết quả đến nhanh áp lực của thời gian tâm lý càng cao và kết quả đến càng chậm!
Thực ra, khi thân tâm thoát ra khỏi áp lực của cái ta ảo tưởng thì tự thân sự thư giãn, buông xả đã mang lại nhiều kết quả lớn lao mà không một cố gắng cá nhân nào có thể đạt được. Mọi bế tắc, bất an, xáo trộn trong cuộc sống sẽ được hóa giải một cách tự nhiên mà không cần cố gắng giải quyết một cách chủ quan, không mong chờ một giải pháp lý tưởng ở tương lai hay một sự trợ lực nào từ quyền năng bên ngoài. Hiệu quả rất tự nhiên mà thư giãn buông xả đem lại thật lớn lao không ngờ được:
1- Tình trạng thân căng thẳng thường kèm theo nhiều bệnh chứng như co cứng, đau nhức, hồi hộp, khó thở, nhồi máu cơ tim, huyết áp cao, suy nhược thần kinh v.v… Vì vậy thân thư giãn là điều kiện tốt nhất để hóa giải căng thẳng, giúp tật bệnh được điều trị dễ dàng và sức khỏe được phục hồi nhanh chóng. Mặt khác, căng thẳng tâm lý cũng sinh ra nhiều tâm bệnh như bứt rứt, bực bội, lo âu, mặc cảm, u uất, hoang tưởng v.v… Do đó, tâm buông xả đưa đến tinh thần lắng dịu, hóa giải tình trạng dồn nén, bức xúc.
2- Khi quá nôn nóng, hấp tấp, căng thẳng bạn thường hành động, nói năng, suy nghĩ thiếu chính xác và dễ bị tiêu hao năng lực. Ngược lại khi thân tâm khinh an, thư thái sẽ là cơ sở nền tảng cho hành động, nói năng và suy nghĩ của bạn được đúng đắn, chính xác và thoải mái hơn nên cũng không bị tiêu hao năng lực.
3- Một tâm trí bị sử dụng quá tải sẽ cảm thấy mệt mỏi, cạn kiệt, chán chường, bức bối, sợ hãi v.v... Trong buông xả trọn vẹn, tinh thần được thanh thản nên tự nhiên những phiền não bức xúc tự động lắng dịu và được hóa giải. Ngược lại, bạn càng cố gắng diệt trừ phiền não thì phiền não lại càng gia tăng.
4- Khi tâm bạn được nghỉ ngơi hoàn toàn thì nó có thể tùy duyên hướng đến bất kỳ một đối tượng thiền định tự nhiên nào. Một ngọn lá xanh, một ô cửa trống, một áng mây bay... đều có thể giúp tâm bạn dễ dàng an nhiên tĩnh lặng. Khi tâm rỗng lặng thì nó liền trong sáng, đó chính là tâm có khả năng minh sát (minh sát tuệ) mọi trạng thái diễn biến nơi thân, nơi cảm giác, nơi tâm hay nơi sự tương giao vận hành của thân tâm, và sáng suốt thấy rõ bản chất như thực của mọi hiện tượng trong đời sống.
Hỏi: - Khi tôi thư giãn, buông xả một lát thì bị rơi vào giấc ngủ, như vậy là xấu hay tốt?
Đáp: - Khi tâm thần căng thẳng bạn thường xuyên ngáp dài, rất uể oải, mệt mỏi, có vẻ như buồn ngủ lắm; nhưng nằm xuống lại không ngủ được. Đó là biểu hiện trạng thái suy nhược thần kinh. Nếu bạn đang bị căng thẳng mà sau khi thư giãn, buông xả một lát, bạn chìm vào một giấc ngủ ngon lành - thì đó quả là một liều thuốc an thần tự nhiên, giúp thân tâm bạn tự động điều chỉnh một cách tuyệt vời. Nhưng nếu trong tình trạng bình thường mà khi nào thư giãn bạn cũng bị rơi vào giấc ngủ - thì đó là hôn trầm, thụy miên - trạng thái này là một trở ngại, không tốt chút nào cho sức khỏe thể chất và sự tỉnh táo, sáng suốt tinh thần!
Trong trường hợp đó, bạn nên đi bộ tốt hơn là ngồi hay nằm. Nếu phải ngồi thì sau khi thư giãn buông xả, để khỏi hôn trầm thụy miên, bạn nên chú tâm quan sát rõ hơi thở vào ra. Sự chú hướng đúng mức vào một đối tượng sẽ giúp tâm bạn tỉnh táo hơn. Nếu làm như thế cũng không hết dã dượi uể oải thì bạn nên đi tắm rửa hoặc ra ngoài trời đi đi lại lại cho tỉnh táo hơn. Nếu thích ngồi, bạn nên ngồi thiền nơi có ánh sáng, không khí mát mẻ và trước khi ngồi không nên ăn no.
Hỏi: - Ngược lại, tôi hầu như không thể thư giãn, buông xả được. Thân tôi cứ như cứng đờ ra và tâm tôi thì gần như lúc nào cũng bận rộn, không thể rời khỏi những mối quan tâm của nó. Vậy làm sao để buông thư?
Đáp: - Gặp trường hợp ấy, bạn nên làm quen với thư giãn về thân trước. Trong khi thử thư giãn, bạn nên để tâm theo dõi từng động tác một cách tự nhiên, không nên quá cố gắng tập chú cũng không nên lơ là, chểnh mảng. Nếu bạn cảm thấy thân không được mềm dẻo, linh hoạt do thường làm một số động tác nào đó lâu ngày mà trở nên chai lỳ; hoặc thường xuyên đề kháng, cảnh giác mà trở thành đờ cứng thì bạn nên chơi thể thao, đi bộ thong thả, v.v...
Cũng có thể tập thái cực quyền hay thể dục dưỡng sinh đơn giản để thân bớt đờ cứng, dần dần sẽ mềm dẻo, nhẹ nhàng và linh hoạt hơn. Trong khi tập cho thân thư giãn như thế bạn nên quan sát các động tác của thân một cách tự nhiên - không quá chuyên chú, cũng không lơ đễnh - thì tâm bạn sẽ tự động được khinh an, thư thái và buông xả dễ dàng hơn.
Hỏi: - Có những công việc đòi hỏi phải quan tâm một cách khẩn trương, căng thẳng, không cho phép chúng ta được quyền thư giãn, buông xả, nghỉ ngơi thoải mái một giây phút nào; vì nếu làm vậy thì chẳng khác nào chúng ta đang trốn tránh một trách nhiệm nào đó?
Đáp: - Có lẽ bạn nên hiểu ngược lại! Chính vì để làm tròn trách nhiệm đối với những công việc đòi hỏi phải khẩn trương, căng thẳng mà chúng ta cần phải biết thư giãn buông xả. Buông lỏng giúp giảm bớt căng thẳng, nhanh chóng phục hồi năng lực để tiếp tục công việc và nhờ vậy sẽ đạt được hiệu quả cao. Một người có khả năng buông thư khi phải đối đầu với những công việc khẩn trương thì chẳng bao lâu anh ta sẽ thản nhiên, nhẹ nhàng trong những công việc khó khăn hơn.
- Nếu sự khẩn trương, căng thẳng tích lũy lâu ngày không hoá giải được sẽ đưa đến suy nhược tâm thần, lúc đó không những không làm tròn trách nhiệm mà sự luống cuống của bạn còn phá hỏng công việc nữa là khác.
Hỏi: - Nhưng như thế tôi phải mất một khoảng thời gian nhất định cho sự buông thư? Mà thời gian của tôi không cho phép thì sao?
Đáp: - Thực ra, lúc đầu chúng ta nên tập quen với sự thư giãn, buông xả; khi đã nhuần nhuyễn rồi, bạn có thể buông thư ngay trong công việc nên không cần phải mất một khoảng thời gian nào. Nếu bạn thường căng thẳng mà không biết buông thư thì hậu quả sẽ khó lường; lúc đó, có thể không phải chỉ mất một khoảng thời gian mà có khi mất cả quãng đời còn lại!
Hỏi: - Xin hỏi thêm: Nói thư giãn tức là đã hàm ý phải cố gắng làm cho thân thư giãn. Nhưng đã cố gắng thì vô hình trung lại tạo thêm một sự căng thẳng khác. Buông xả cũng vậy, muốn loại bỏ cái gì ra khỏi tâm trí chúng ta thì vẫn phải dụng lực. Ví dụ, muốn buông bỏ một nỗi buồn đâu phải là dễ. Như vậy, dụng lực hay không dụng lực đều không buông bỏ được. Bây giờ phải làm sao đây?
Đáp: - Dường như bạn nhầm lẫn giữa hai sự kiện: cố gắng thể lực và cố gắng tâm lý. Khi thân căng thẳng, mệt mỏi bạn có quyền thư giãn, đó là một đáp ứng hay phản xạ rất tự nhiên, giống như bạn siêng năng tập thể dục thể thao mỗi khi khí huyết bất thông, chân tay nhức mỏi v.v... thì có vấn đề gì đâu.
Chẳng lẽ bạn cố gắng thư giãn vì một mục đích lý tưởng cao siêu nào đó? Nếu vậy thì không còn thuộc lãnh vực thể lý mà đã bước sang vấn đề tâm lý mất rồi. Bạn cần thấy rõ thân thư giãn và tâm buông xả là hai lãnh vực hoàn toàn khác nhau.
Cố gắng tâm lý để buông xả mới là trọng tâm câu hỏi của bạn, phải không? Tuy nhiên, ở đây bạn lại một lần nữa nhầm lẫn giữa buông xả và buông bỏ. Bạn đã đồng hóa buông xả với buông bỏ theo nghĩa “loại ra khỏi tâm trí” một nỗi buồn, chẳng hạn. Về mặt tâm lý, những từ cố gắng, nỗ lực, dụng công đồng nghĩa với dụng tâm, dụng ý hay có chủ ý, v.v… tức là nỗ lực của ý chí muốn đạt được một điều gì đó. Chính ý chí này là biểu hiện của cái “ta” hay “bản ngã”.
Mặt khác, khi bạn xem những mối lo âu, sợ hãi, chán nản, buồn phiền, thất vọng v.v… là đối tượng cần phải buông bỏ vì đã làm bạn khổ đau, căng thẳng, nghĩa là bạn muốn trút bỏ gánh nặng đang gây áp lực cho bạn để được tự do giải thoát khỏi mọi ưu phiền, phải không? Như vậy, đúng là bạn phải dụng lực để rồi lại rơi vào vòng lẩn quẩn của cái ta muốn giải quyết vấn đề hay muốn lẩn tránh thực tại.
Thực ra, bạn không cần làm gì để giải quyết vấn đề cả, đó mới thực là buông xả. Cứ để yên tất cả mọi thứ ở chỗ của chúng, đừng cố gắng loại bỏ điều gì, vì không cách nào bạn bỏ chúng được cả. Khi bị dồn nén những phiền não này chỉ ẩn vào vô thức chứ không bị hủy diệt. Lúc đó bạn còn đâu cơ hội để thấy ra mặt thực của chúng! Mà bao lâu chưa thấy ra thực tánh của phiền não thì dù bạn làm gì chúng vẫn là mối thách thức suốt đời bạn.
Bởi vì, dụng tâm loại bỏ chỉ tạo ra một sự đối kháng mà hậu quả là tăng thêm bất an, căng thẳng, phiền não, khổ đau. Vậy, buông xả không phải là nỗ lực buông bỏ một trạng thái, một tình huống hay một hậu quả, mà đơn giản chỉ là buông xuống thái độ lăng xăng của cái ta ảo tưởng nỗ lực duy trì hoặc loại bỏ trạng thái đó.
Nói buông xuống nhưng thực ra chỉ cần bạn không làm gì cả để cho tâm được nghỉ ngơi vô sự khỏi mọi ý đồ của cái ngã lăng xăng tạo tác. Lúc đó, mặc dù bạn không cố gắng loại trừ nhưng phiền não lại tự trở nên vô hiệu.
(Thầy Viên Minh)
Một ý kiến nhỏ
Ngoài yếu tố lý lịch chính trị, thì một trong những sự khác biệt chính ở tiêu chí xử dụng con người giữa VN và nước ngoài là bằng cấp lý luận & kinh nghiệm thực tế kết quả trong công việc. Ở những nước phát triển, cụ thể như ở Mỹ, yếu tố bằng cấp và trường học, thường có giá trị ở giai đoạn đầu mới ra trường, hoặc khởi nghiệp, nhưng đối với những vị trí thâm niên hoặc lãnh đạo quan trọng, thì người ta lại quan tâm nhiều về kinh nghiệm bản thân và thành tựu đạt được (track record) trong quá trình làm việc.
Ở VN thì thường chuộng bằng cấp, nên có khi nhiều cơ quan rinh về cả đám bằng cấp lý thuyết, lý luận, để đó chưng chơi, hoặc lâu lâu phát biểu ý kiến ý cò trên báo trên đài. Thực ra, thì giữa lý luận lý thuyết suông và kết quả ứng dụng vào thực tế để được thành công, khác nhau quá nhiều. Những đất nước phương Tây họ thực tế hơn, vì đã rút tỉa được kinh nghiệm xương máu đó từ những thành bại bản thân, doanh nghiệp, trong nền kinh tế thị trường đúng nghĩa, không "bao cấp".
Ở VN thì thường chuộng bằng cấp, nên có khi nhiều cơ quan rinh về cả đám bằng cấp lý thuyết, lý luận, để đó chưng chơi, hoặc lâu lâu phát biểu ý kiến ý cò trên báo trên đài. Thực ra, thì giữa lý luận lý thuyết suông và kết quả ứng dụng vào thực tế để được thành công, khác nhau quá nhiều. Những đất nước phương Tây họ thực tế hơn, vì đã rút tỉa được kinh nghiệm xương máu đó từ những thành bại bản thân, doanh nghiệp, trong nền kinh tế thị trường đúng nghĩa, không "bao cấp".
Nhớ ngày xưa, cũng có đôi lần phỏng vấn để mướn một số vị trí quản lý cho công ty, cũng nhận ra một số anh em ở bên nhà ngộ nhận về giá trị bằng cấp như thế.
Đúng vậy, bằng cấp quan trọng, nhưng đó chỉ là chỉ điều kiện cần chứ không phải điều kiện đủ, đặc biệt ở những vai trò quan trọng cần kinh nghiệm cụ thể đã từng thành công. Nếu chỉ dựa vào mớ lý thuyết học đường, giảng dạy, hoặc lý luận suông chưa có kinh nghiệm thực tế, chưa thực sự làm kinh tế, để điều hành thực tế, để ứng dụng thực tế, thì có khi lại lợi bất cập hại. Thường thấy các tổ tư vấn nước ngoài có cả ông thực tế lẫn ông lý thuyết. Quan trọng là cả hai bên nghe được với nhau, nói được với nhau, cọng tác được với nhau, vậy mới là ngon lành !
Đúng vậy, bằng cấp quan trọng, nhưng đó chỉ là chỉ điều kiện cần chứ không phải điều kiện đủ, đặc biệt ở những vai trò quan trọng cần kinh nghiệm cụ thể đã từng thành công. Nếu chỉ dựa vào mớ lý thuyết học đường, giảng dạy, hoặc lý luận suông chưa có kinh nghiệm thực tế, chưa thực sự làm kinh tế, để điều hành thực tế, để ứng dụng thực tế, thì có khi lại lợi bất cập hại. Thường thấy các tổ tư vấn nước ngoài có cả ông thực tế lẫn ông lý thuyết. Quan trọng là cả hai bên nghe được với nhau, nói được với nhau, cọng tác được với nhau, vậy mới là ngon lành !
Nhìn anh nào cũng đẹp trai, hy vọng tràn trề, không khéo chỉ là mình lo bò trắng răng
:-) ....

Friday, July 28, 2017
Bên ni bên nớ,
Hôm qua có ông giáo sư Mỹ rủ đi ăn phở, nhưng đến nơi, mình ăn bún bò Huế, ổng ăn bún chả giò. Ông này đang dịch một số tác phẩm từ tiếng Việt sang tiếng Anh, từ tiểu luận đến phân tích. Đây là lần đầu tiên mình gặp một người Mỹ hiểu sâu sắc về ngôn ngữ, văn hoá, và âm nhạc Việt nam đến thế. Dạo trước ông ta phụ trách khoa Đông phương của 1 trường đại học danh giá ở Mỹ, nên kiến thức nghiên cứu rõ ràng rất là "hàn lâm" so với các bạn ngoại quốc khác .
Nôm na về ông như thế, nhưng câu chuyện chính phía sau ly cafe sữa nóng và tô bò Huế vẫn là những trăn trở "bên ni, bên nớ " của người VN tha phương. Ối dà, chuyện này thì trăm năm chưa hết chuyện, nói chút đã tới giờ đi, hẹn ngày nói tiếp :-) .
Có một câu chuyện tiếu lâm ông kể, khi nhận định về nhân sinh quan của 2 nhà nhạc sĩ VN nổi tiếng trước đây, làm mình suy nghĩ cả đoạn đường về. Một bên lạc quan thái quá và bên kia bi quan thái quá ! Ngẫm lại đôi khi cái nhìn của mình và nhiều người VN về đất nước cũng như thế. Nhưng liệu đó có phải là bi quan hay lạc quan thái quá không, hay chỉ là những sự khiếm khuyết nhất định và ảo giác quyền lực cũng như kiến thức ?
Dĩ nhiên sẽ không ai nhận là mình "thái quá". Bởi con người lâu nay vẫn thường không biết những thứ mà mình không biết. Thế mới là rách việc ! Đọc tin tức, cứ dăm ba bữa là nghe báo chí phê phán ông này ông nọ phát biểu linh tinh, nói chày nói cối, nói gà nói vịt. Trong nước cũng thế mà ngoài nước cũng thế. Từ những câu chuyện về văn hoá, chính trị, kỹ thuật, môi trường, kinh tế, đấu tranh, cộng đồng. Nhiều ông tưởng mình có mệnh số là "minh chủ" thật. Có ông tưởng mình có khả năng lãnh đạo thật. Có ông tưởng mình có chức quyền thì đồng nghĩa với thì có kiến thức thật. Có ông tưởng mình có đi học giáo sư tiến sĩ thật. Có ông tưởng mình chửi hoài thì đất nước sẽ thay đổi thật ..vv...Và cứ thế nhầm lẫn, thật giả, khó lường, người lạc quan kẻ bi quan, ngày ngày vẫn thế.
Gần nửa thế kỷ để đấm đá nhau, dối gạt nhau, giết chóc nhau, vu khống nhau. Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946, Geneve 1954, Paris 1973 .... và thân phận một đất nước nhỏ bé trên bàn cờ tranh chấp của những nước lớn. Được mất những gì ?
Rồi gần nửa thế kỷ khác để hận thù chống đối, để bắt bớ tù đày, để rêu rao vô cớ, để khóc để cười, để ai oán để kiêu binh, để lần mò dọ dẫm, để bào chữa sửa sai ... Và nhìn lại vẫn những lối mòn tư duy, những con đường gian nan ngổn ngang đá gạch !
Bên ni bên nớ, ông GS dùng chữ này rất hay. Bi quan hay lạc quan ? Nỗi lòng của những người VN tha phương, hay chính trên quê hương mình ... vẫn cứ như là những câu dân ca đầy trắc ẩn, những giai điệu thăng trầm bên bờ sông quê hương đang ngày mỗi cạn dần.
Nôm na về ông như thế, nhưng câu chuyện chính phía sau ly cafe sữa nóng và tô bò Huế vẫn là những trăn trở "bên ni, bên nớ " của người VN tha phương. Ối dà, chuyện này thì trăm năm chưa hết chuyện, nói chút đã tới giờ đi, hẹn ngày nói tiếp :-) .
Có một câu chuyện tiếu lâm ông kể, khi nhận định về nhân sinh quan của 2 nhà nhạc sĩ VN nổi tiếng trước đây, làm mình suy nghĩ cả đoạn đường về. Một bên lạc quan thái quá và bên kia bi quan thái quá ! Ngẫm lại đôi khi cái nhìn của mình và nhiều người VN về đất nước cũng như thế. Nhưng liệu đó có phải là bi quan hay lạc quan thái quá không, hay chỉ là những sự khiếm khuyết nhất định và ảo giác quyền lực cũng như kiến thức ?
Dĩ nhiên sẽ không ai nhận là mình "thái quá". Bởi con người lâu nay vẫn thường không biết những thứ mà mình không biết. Thế mới là rách việc ! Đọc tin tức, cứ dăm ba bữa là nghe báo chí phê phán ông này ông nọ phát biểu linh tinh, nói chày nói cối, nói gà nói vịt. Trong nước cũng thế mà ngoài nước cũng thế. Từ những câu chuyện về văn hoá, chính trị, kỹ thuật, môi trường, kinh tế, đấu tranh, cộng đồng. Nhiều ông tưởng mình có mệnh số là "minh chủ" thật. Có ông tưởng mình có khả năng lãnh đạo thật. Có ông tưởng mình có chức quyền thì đồng nghĩa với thì có kiến thức thật. Có ông tưởng mình có đi học giáo sư tiến sĩ thật. Có ông tưởng mình chửi hoài thì đất nước sẽ thay đổi thật ..vv...Và cứ thế nhầm lẫn, thật giả, khó lường, người lạc quan kẻ bi quan, ngày ngày vẫn thế.
Gần nửa thế kỷ để đấm đá nhau, dối gạt nhau, giết chóc nhau, vu khống nhau. Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946, Geneve 1954, Paris 1973 .... và thân phận một đất nước nhỏ bé trên bàn cờ tranh chấp của những nước lớn. Được mất những gì ?
Rồi gần nửa thế kỷ khác để hận thù chống đối, để bắt bớ tù đày, để rêu rao vô cớ, để khóc để cười, để ai oán để kiêu binh, để lần mò dọ dẫm, để bào chữa sửa sai ... Và nhìn lại vẫn những lối mòn tư duy, những con đường gian nan ngổn ngang đá gạch !
Bên ni bên nớ, ông GS dùng chữ này rất hay. Bi quan hay lạc quan ? Nỗi lòng của những người VN tha phương, hay chính trên quê hương mình ... vẫn cứ như là những câu dân ca đầy trắc ẩn, những giai điệu thăng trầm bên bờ sông quê hương đang ngày mỗi cạn dần.
Subscribe to:
Posts (Atom)