Wednesday, April 25, 2018
University vs. College - Đại học & Cao đẳng ở Mỹ, tây ta lẫn lộn !
Thỉnh thoảng có người quen, bạn bè hỏi thăm về các trường đại học & cao đẳng ở Mỹ. Định bụng hôm nào rãnh rỗi sẽ giải thích chi tiết chút, mà cứ bận hoài. Sáng nay lại có anh bạn ở Bình Dương gọi điện hỏi về sự khác biệt giữa "college" và "university" ở Mỹ, vì đang gặp tư vấn xin cho con đi du học. Người ta bảo anh college là như trường cao đẳng dạy nghề bên VN.
Thực ra là giữa tiếng Anh và tiếng Việt có những khái niệm không tương đồng, nhất là trong dịch thuật, nên khó mà giải thích cho sát nghĩa được. Nôm na là ở Mỹ, college hoặc university là bậc học sau phổ thông, như ở VN gọi là đại học. Còn nếu hiểu nghĩa của chữ "college" ở Mỹ như là cao đẳng bên VN thì không chính xác.
Thông thường người ta dùng chữ "college" như một khái niệm chung của bậc đại học 4 năm (undergraduate) trong lúc nói chuyện giao tiếp hàng ngày. Ví dụ như : Did you go to college (Anh có học đại học không) ? What is your college degree (Anh học đại học ngành gì) ? ..vv. Tuy nhiên, khi phải phân tích chi tiết ra nghĩa của chữ college và university, thì cũng có điểm khác biệt về cách xài chữ, cũng như cách đặt tên cho các trường đại học trong nước (đa số thôi, chứ không tuyệt đối).
Trước hết là ở Mỹ hầu hết ở mỗi quận, đều có trường "Community College" (tạm dịch là Cao đẳng cộng đồng). Những trường này được lập ra chủ yếu để phục vụ địa phương, chương trình đào tạo 2 năm. Tốt nghiệp xong, được cấp bằng "Associate's degree". Những trường này cũng có nhiều ngành, bộ môn, khác nhau. Nhiều trường có dạy cả nghề nữa, ngắn hạn, và chỉ cấp chứng chỉ (diploma). Chuyện tốt nghiệp đại học ở Mỹ thì dựa vào số tín chỉ của các môn học đã hoàn thành. Nên dù chủ trương của cao đẳng cộng đồng là 2 năm đào tạo, nhưng ai có điều kiện hoặc học giỏi thì học ngắn hơn. Ngược lại có người vừa đi học vừa đi làm, học cả 3, 4 năm chưa xong. Cũng bình thường thôi, ở xứ này không phải cứ nhất thiết học lên cao là học giỏi, mà còn lệ thuộc vào điều kiện gia đình, điều kiện tài chánh nữa. Nhiều người giỏi nhưng có những trách nhiệm gia đình khác nên không học tiếp được. Ngược lại, nhiều người học xoàng thôi, nhưng có điều kiện miệt mài hoài thì cũng tới nơi tới chốn. Hệ đại học 4 năm, hay thạc sĩ, tiến sĩ gì cũng theo nguyên tắc tín chỉ đấy (dĩ nhiên học lên cao thì còn phải đòi hỏi nhiều thứ khác, luận án, luận văn ... linh tinh nữa). Điểm đặc biệt của trường "community college" là thủ tục xin vào đơn giản, học phí rẻ, gần nhà, tiện lợi. Học xong lấy bằng Associate Degree cũng có thể kiếm được việc làm ngay, nhất là những hãng xưởng tại địa phương. Riêng những học sinh của trường Community College muốn học lên cao hơn, có thể chuyển trường lên các đại học hệ 4 năm học tiếp. Dĩ nhiên những môn cần học để có thể chuyển trường (transfer) có phần khác hơn chút đỉnh. Học sinh có thể tư vấn hỏi ý kiến các nhân viên hướng dẫn tại trường để biết thêm chi tiết, và tiết kiệm thời gian học đi học lại.
Có thể lâu nay nhiều người thường dịch thuật hoặc nói tắt chữ "community college" ra thành "college", nên một số người đã hiểu lầm trường "college" nghĩa là trường cao đẳng cộng đồng (community college), và coi là giống như là cao đẳng của VN ta. Điều đó không đúng lắm, vì trường "college" có nghĩa rộng lớn hơn. Nhiều người di trú, tị nạn, khi mới vào nước Mỹ, đã đi theo con đường học ở cao đẳng cộng đồng (community college) trước, rồi mới leo dần lên các bậc cao hơn . Chuyên cần, túc tắc rồi cuối ngày thì cũng thành bác sĩ kỹ sư cả thôi !
Đúng ra, thì đại đa số trường "college" là trường đào tạo 4 năm, và cũng cấp bằng "bachelor's degree" (nhiều người VN gọi là bằng cử nhân) như các trường university khác. Thông thường, thì các trường college có hệ thống điều hành riêng biệt, độc lập, quy mô nhỏ hơn, và không có chương trình "graduate programs" (bậc sau cử nhân, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ..). Nhưng cũng có một số ít trường college trực thuộc hệ thống điều hành và nằm trong phạm vi của các trường university. Ngoài ra, cũng có một số trường college có chương trình graduate (sau cử nhân) nhưng rất hạn chế.
Còn nói về university, thì khái niệm rộng rãi hơn. Các trường university thường quy mô lớn hơn, đa dạng ngành nghề hơn, có khi có cả hệ thống nhiều cơ sở, ở nhiều địa phương khác nhau. Ngoài việc đào tạo chương trình undergraduate (cử nhân), trường university thường có cả chương trình graduate (sau cử nhân), đào tạo và cấp bằng thạc sĩ, tiến sĩ cho nhiều ngành nghề khác nhau. Cho nên khi nói về đại học thì người ta xử dụng cả hai chữ "college" và "university". Nhưng khi nói về những chương trình thạc sĩ (master's degree), tiến sĩ (doctorate (Ph.D), người ta thường dùng chữ university.
Tuy nhiên cũng nên tránh một số nhầm lẫn là có những trường chuyên ngành hậu đại học như Luật Khoa, Nha Khoa, Y khoa cũng xài chữ college, ví dụ như "College of Law, College of Medicine ...", nhưng những "college" này được coi như một phân khoa trực thuộc hệ thống "university" nào đó.
Ở Mỹ, trường đại học tư nhân, kể cả college và university, rất nhiều. Hầu như những trường đại học "university" tên tuổi của thế giới ở Mỹ đều là trường tư, ví dụ như MIT, Harvard, Duke, Stanford, Yale, Caltech, Princeton .... Tuy nhiên, hệ thống đại học công lập của Mỹ cũng rất có uy tín và nhiều trừờng rất tên tuổi. Thông thường mỗi tiểu bang đều có hệ thống đại học riêng cho tiểu bang mình. Mỗi hệ thống đại học tiểu bang bao gồm nhiều cơ sở (campus) khác nhau. Ví dụ : University of California (UCLA, UC-Berkeley ...), University of North Carolina (UNC-Chapel Hill, UNC-Charlotte ...), University of Colorado (Denver, Boulder, Colorado Spings ...)...vv. Cũng cần nói thêm chút là không phải bằng cấp ở trường đại học nào ở Mỹ thì cũng được công nhận. Phải phân biệt cho rõ trường nào là "Accredited" (công nhận) và Unaccredited (không được công nhận). Nhiều người đi học vì những mục đích khác nhau, nhưng bằng cấp "unaccredited" không được công nhận, có thể không được hành nghề. Kể cả nhiều trường đào tạo các học vị cao hơn như thạc sĩ, tiến sĩ ....Như ở California dạo trước, có nhiều trường luật là unaccredited, đã gây ra nhiều tranh luận.
Còn hỏi trường nào tốt trường nào xấu, thì mình nghĩ là các anh nên tự tìm hiểu ở những trang mạng uy tín. Hàng năm các trang báo như US News, Top Universities, THE ... đều có đánh giá từng trường, từng ngành nghề, thay đổi cập nhật hàng năm. Có trường giỏi ngành này, nhưng chưa chắc là giỏi ngành khác. Nên lựa chọn cái nào phù hợp với mình thôi. Còn nếu ai hỏi nữa thì mình nói là cứ thấy trường đại học nào có đội bóng rổ, bóng cà na xuất sắc, thì xin vô, ít ra thì cũng từ khá trở lên :-). Đúng vậy, ở Mỹ ngoài những trường tên tuổi như Ivy League, MIT, Caltech ... được coi như ngoại lệ, còn những trường đại học khác nếu không tên tuổi, thì khó mà chiêu mộ được đám học sinh tài giỏi xuất sắc, chơi thể thao hay, hoặc có tài năng nổi trội.
Nói ngoài lề chút, thực ra thì các thông tin về trường ốc ở Mỹ rất minh bạch, rất rõ ràng. Chỉ cần bỏ chút ít thời gian đọc và tìm hiểu, sẽ có cái nhìn trung thực và chính xác hơn. Những em đang định đi du học, thì lại càng cần thiết phải biết đọc và phân tích các thông tin về các trường đại học, cao đẳng mà mình xin học một cách công bằng. Nếu cả những việc đó mà cũng phải nhờ cha mẹ hỏi dùm, hoặc nhờ văn phòng tư vấn du học (nhiều ông chưa đi học bên Mỹ bao giờ) giải thích, thì sẽ rất khó khăn trong việc tự học tự lập ở Mỹ. Cũng có nhiều người cứ trông cậy để hỏi bà con bạn bè VK, vì nghĩ rằng ở Mỹ thì biết, mà có khi dẫn đến các nhầm lẫn rất nguy hiểm. Ở VN cũng thế, chắc gì nhiều người đã biết trường nào tốt hơn trường nào. Ở tây ta, Tàu, Mỹ, Úc, Anh, Nhật nhiếc... gì cũng thế, ai làm việc gì thì hiểu về lãnh vực đó. Mình vẫn quan niệm về kiến thức cuộc sống không ai tài giỏi hơn ai, người này biết chuyện này, người khác biết chuyện khác thôi. Nhưng hỏi sai người, trả lời sai chuyện, có khi lại rách việc.
Thôi thì cách tốt nhất để có một thông tin trung thực vẫn là do mình tự tìm tòi nghiên cứu, tham khảo ý kiến từ nhiều nguồn khác nhau. Dưới đây là các đường link các anh chị có thể tham khảo thêm. Chúc may mắn !
US News Rankings
Times Higher Education
Bảng xếp loại 2018 của các trường đào tạo kỹ sư
Bốn lý do để học cao đẳng cộng đồng (community college)
Trường luật "Unaccredited" của bang California
Saturday, April 21, 2018
Bình dị một con người ...
Hôm nay, nhiều đài TV sẽ trình chiếu "live" chương trình đám tang của bà tổng thống Barbara Bush. Một người đàn bà bình dị, đơn giản, tận tụy vì chồng con, và có những đóng góp thầm lặng cho đất nước Mỹ trong vai trò phu nhân tổng thống. Bà vừa là vợ cũng vừa là mẹ của 2 người tổng thống nước Mỹ, nhưng đất nước Mỹ tôn kính bà vì những biểu tượng đơn giản gần gũi của bà trong đời sống. Đó cũng là những gì bà còn để lại trong lòng người dân Mỹ !
Nước Mỹ cũng còn môt bà phu nhân khác cũng vừa là vợ là mẹ của tổng thống, đó là Abigail Adams, vào thời mới lập quốc. Chồng bà, John Adams, được coi là một trong những cha đẻ của nước Mỹ. Con bà, J. Quincy Adams, cũng là tổng thống đời thứ 6 của Mỹ. Bà được ghi nhận là người phụ nữ của gia đình, bình dị, nữ tính, công bằng, và đề cao vai trò phụ nữ thời bấy giờ.
Tuesday, April 17, 2018
Phiếm - Nghề thơ cũng lắm công phu !
Nói chứ phải công nhận là một trong những cái nghề dễ nhất mà cũng khó nhất ở quê ta là nghề làm thơ. Có người làm thơ bỏ túi, tặng chiến hữu bạn bè đọc cho vui. Có người in thành sách nhờ anh em, bà con đọc dùm, bán dùm, không ai mua thì tặng. Có người nghiêm túc hơn, bỏ tiền ra in vài tập thơ, làm đúng quy trình, hợp thức hoá chức danh thi sĩ, nhà thơ, vào hội vào đoàn, để thi thố với thiên hạ. Tuy có chữ là có thơ, nhưng cũng phải tốn công tốn sức lắm mới làm ra một bài thơ vừa ý. Thiên hạ bình riết, rồi như con trùn mà vẽ lắm chân vào, chẳng biết thành ra con gì. Có bài chữ hay ý dở, có bài bàn loạn riết mà lại thành hay. Nhiều người làm thơ, mà độc giả lại khen bài vè hay. Nhiều người đọc vè, thính giả lại bảo thơ hay :-)..... Đúng là nghề thơ cũng lắm công phu !
Bạn bè mình cũng có dăm đứa làm thơ, dở hay gì đối với thiên hạ thì không biết. Nhưng đứa nào cũng thấy thơ mình hay. Mà thi sĩ nào lại chả thế. Có ông thơ hay thực sự, nổi tiếng như cồn. Nhưng cũng có ông thơ hay mà cồn chưa nổi. Có ông làm cả năm bảy trăm bài nhưng chưa gặp thời, nên tên tuổi chưa lên. Cũng có ông năm bảy bài được khen hay, bên cạnh cả trăm bài không ai đếm xỉa, cũng đủ khệnh khạng một đời thi tửu. Có ông dăm ba bài được giải địa phương, còn lại cả bao không được, gác trên dàn bếp, cũng đủ hiên ngang một cõi ta bà. Nhưng quả nhiên đúng vậy, ít có thi sĩ nào tự cho thơ mình là dở. Con cá sẩy là con cá to, nhưng bài thơ dở lại là bài thơ của đứa khác. Cũng có nhà thơ suốt đời chả thèm đọc thơ thiên hạ, chỉ đọc thơ họ, và của "bạn" họ thôi, nên độc tôn. Thiên hạ này có bao nhiều bồ chữ, họ nắm hết. Cao ngạo cỡ Cao Bá Quát là cái đinh gì !
Mà nghề làm thơ dẫu cực nhọc, cũng có cái sướng của nó. Lâu lâu ngâm nga, đọc cho ta, đọc cho người. Có đọc có nghe, là thấy sướng rồi. Được khen lại càng sướng hơn. Bàn rượu nào mà có thơ để bình, cũng vui, cũng uống được nhiều bia rượu hơn là ngồi cãi lộn. Mình cũng có mấy người bạn chuyên bình thơ thiên hạ. Đứa làm giám đốc xây dựng nên ảnh hưởng nghề nghiệp, chỉ nghiệm thu phần cuối rồi hoàn công. Ai ngâm bài thơ nào ngắn dài cũng ráng nhớ được chữ cuối, rồi ngồi "hoàn công" cả buổi miệt mài. Đứa làm bác sĩ, bài thơ có câu chữ nào lạ lẫm "nổi" lên, thì cứ coi như là khối u, đè ra mà mổ mà xẻ đến cùng. Đứa làm lãnh đạo, thì cứ nói chung chung, nôm na là "chữ nghĩa hay, có tiềm năng, ráng phát huy". Đứa làm bác sĩ phụ khoa, thì .... thôi, khỏi nói. Và cứ thế mà bàn loạn, đứa ngược đứa xuôi, tiệc nào cũng râm rang, sôi nổi. Uống xong về ngủ, mai lại quên mất !
Hồi đó quán 81 Trần Quốc Thảo, tài năng dập dìu, thiên tài lỡ vận, thơ văn lai láng (không biết giờ còn không ?). Vài tuần trận đánh lớn, dăm ngày trận đánh nhỏ. Có người hâm mộ mà đến nhậu, có người hiếu kỳ mà đến coi, cũng có người thích coi đấu khẩu lý sự mà đến ủng hộ. Có người phải mua bia mời kẻ khác đến nghe thơ mình, miễn phí mà còn bị trách móc phí phạm thời gian. Thường thì thiên hạ đều vui vẻ thái bình. Nhưng cũng đôi khi đang bàn thơ sôi nổi, bỗng chửi thề um tỏi, bia bay vèo vèo. Thơ văn sợ quá, bên lề nằm im, thin thít. Nhiều độc giả hãi quá, thần tượng sụp đổ, trốn tiệt. Không biết ngày xưa các cụ nhà ta như Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Đồ Chiểu, Tú Xương, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương ...có bị kiếp nạn này hay không. Còn bên Tàu thì các Thánh Thi, Tiên Thi, Phật Thi, Qủy Thi .... Lý Bạch, Đổ Phủ, Vương Duy, Lý Hạ, Bạch Cư Dị, Vương Bột ... có lên bờ xuống ruộng như thế không nhỉ ?
Đúng ra là từ ngày có internet, email, facebook, mạng xã hội ... nhiều thiên tài ngủ quên đã trở mình thức giấc. Nhiều tài năng tiềm ẩn đã lâu, có cơ hội trỗi dậy mạnh mẽ. Nhân tài như lá rụng mùa thu, từ thơ văn, ca nhạc, triết gia, chính trị gia, đủ cả. Mà rộ lên càng nhiều thì đương nhiên là càng phức tạp. Lời khen tiếng chê, phun châu nhả ngọc, thượng vàng hạ cám tràn lan, bất phân thắng bại. Trong đó, thi sĩ nhà thơ là một trong những ngành nghề khó kiểm tra chất lượng nhất. Không có chuẩn ISO, không quy trình, không chứng chỉ, không bằng cấp, không kiểm định .... Càng không phải cứ làm thơ thâm niên thì được lên chức, làm thơ hay thì bán được tiền, làm thơ nhiều thì được lãnh lương cao ... Dĩ nhiên là có những nhà thơ tài năng vẫn sống khiêm cung ẩn dật. Có những nhà thơ tên tuổi, thì vẫn được săn đón, nhuận bút cao, được nhiều người mê thơ đón nhận. Có người còn lấn sân đi làm MC, đóng phim, thậm chí đi làm lãnh đạo. Cũng có nhiều "nhà thơ" tự nhờ người phổ nhạc thơ mình, cây nhà lá vườn. Lâu lâu nhà chùa nhà thờ, họp trường họp lớp, đem ra hát hò, âu cũng là một cách quảng bá tài năng...
Nhà thơ ở cạnh nhà thờ
Nhà thơ tắt thở nhà thờ rung chuông !
Còn nói về chuyện thưởng thức thơ thì đâu phải ai cũng giống ai. Cũng như mục tìm bạn bốn phương, đẹp xấu tuỳ người đối diện. Có người đọc bài thơ hay của thiên hạ, lại thấy dở với mình. Có bài thiên hạ chê bai lãng xẹt, lại hợp tâm trạng mình, thành ra thấm ý mà hay. Có bài trong sách giáo khoa, nên đành phải thuộc. Có bài vì lãnh đạo khen hay, nên mình phải nhớ. Cũng có bài của người thân bạn bè sáng tác, bỗng hoá hay ngang ..vv.. Nhưng đó là những chuyện bình thường, thơ phú lâu nay vẫn vậy, từ hàn lâm cho đến hàng dân giả !
Mấy hôm nay trên mạng VN ném đá, phun nước miếng, chửi ầm một ông nhà thơ kiêm quan chức hội đoàn thơ văn nào đó, bởi dám chê bai thơ thiên hạ trên Facebook. Mình chưa bao giờ biết, chưa bao giờ nghe, cũng chưa bao giờ đọc thơ ông này. Tuy nhiên, nghe ông phán một câu “Thơ dở trên fây búc là thơ rác rưởi gây ngộ độc hơn cả ngộ độc thực phẩm", thì kể như ông đã cởi truồng mà ngồi xổm trên ổ kiến lửa rồi, có mặc quần vô cũng không còn kịp nữa :-).
Truyền thông trên mạng, hay báo chí VN bây giờ, thường có hai trạng thái phản ứng. Một là thần tượng, ca tụng thái quá. Hai là chống đối, bài xích thái quá. Nhiều người có khi cũng chả cần phải đọc cho rõ, thấy người ca tụng thì mình cũng ca tụng theo, thấy người ta chửi thì mình cũng chửi theo. Từ một vụ án tham nhũng cho đến một bài thơ hay áng văn, từ một nghi án chưa xử của người đương thời, cho đến một người hùng vừa ngã ngựa đêm qua. (Thường thường thôi nhe, không có ý vơ đũa cả nắm). Riêng đụng tới cái vụ thơ văn, thì còn đáng chết nữa. Ông này làm quan chức hội nhà văn mà dường như chưa hiểu hết sức mạnh của những người yêu thương & hâm mộ cái hội của ông ta.
Một đất nước đầy rẫy anh hùng và nhà thơ, cho nên chỉ cần một xúc phạm danh dự nhỏ, một vụ đạo thơ, cắp ý, phán bậy, nịnh đầm ... thì lưng nào chịu nỗi đá. Bây giờ có internet rồi, khác với mấy chục năm trước, chỉ một chút là cả làng đều biết. Mà lâu nay FB lại có câu thơ bất hủ "Ném đá thì phải ném liền tay. Chớ để lâu ngày nó trốn mất vui". Cỡ như "Đương đại quốc sư" Vũ Khiêu còn khiếp, huống hồ là hàng tôm tép chà bông :-) .
Nhưng dẫu bị ném đá ồ ạt như thế, thì ông thi sĩ Phan Hoàng này cũng được cái khác ngon lành hơn. Ít ra là nhờ vậy mà nhiều người biết đến tên ông, tò mò đọc thử thơ ông coi tài ba thế nào, trong đó có mình. Thú thiệt là mới đọc được 2 bài, từ hai tập thơ nổi tiếng nhất của ông ấy, rồi ngưng. Mình vốn dốt thơ mê nhạc. Đọc cho có đọc, chứ hiểu thì điếc đặc rồi, nên định bụng hôm nào về quê, sẽ mua bia đãi mấy đứa bạn già, nhờ nó bình dùm. Đúng ra, cũng không công bằng khi chỉ đọc 2 bài nổi tiếng nhất của ông mà dám bàn đến tài năng thơ phú của một nhân tài, nhưng quả là không có thời gian và không đủ kiên nhẫn. Thoáng qua, thì phải công nhận ông thi sĩ này dùng từ tượng hình dễ cảm ghê, "ngọt từ da thịt ngọt ra ", nghe thấy "mát mẻ" liền. Còn bài nữa thì nghe có "tiếng thì thầm", hoan lạc và thụ tinh, chuyển dạ và sinh nở ... đọc nghe "ham". Thơ cỡ đó hèn chi được làm quan chức. Mà chỉ bấy nhiêu ngôn từ sống động thế, gặp mấy nhà phê bình thơ ở quê mình, thì bao nhiêu bia mới đủ :-) .
Nghĩ lại, mình sống ở nước ngoài nhiều hơn trong nước, may mắn được đi cũng nhiều, nhưng chưa thấy nước nào có nhiều Hội nhà văn, nhà thơ, lại có nhiều người thi sĩ văn sĩ được ăn lương của chính phủ & nhà nước nhiều đến thế. (Có thể là Trung quốc hoặc Triều tiên cũng có, nhưng mình chưa được biết). Cũng chưa thấy nơi nào mà trong giới nhà thơ nhà văn, một trong những giới được cho là có một số kiến thức nhất định, lại có nhiều vụ scandal phê phán, bài xích, tâng bốc, bóc mẽ, quan tâm tới nhau nhiều đến thế. Cho nên nhiều người thường nói VN là đất nước trọng nhân tài, trọng thơ ca, trọng truyền thống văn hoá, có khi chẳng phải là ngoa chút nào !
Monday, April 16, 2018
Tin ai bây giờ ?
Đây là đoạn tin tức nói về người dân Syria khóc trong sung sướng, cảm ơn nước Mỹ đã nã pháo cảnh cáo và ngăn chận thảm hoạ xử dụng vũ khí hóa học đối với dân lành của chính phủ Assad.
Chiến tranh bao giờ cũng thế, đánh giặc mồm, hù doạ nhau, tháu cáy nhau, lên án nhau, rồi cổ động tuyên truyền ... Ai cũng giành phần thắng về mình, thiệt giả khó phân. Nhất là những người dân đen không có cơ hội tiếp cận với những nguồn tin khả tín, càng khó biết chân tướng vấn đề. Ở một số nước thông tin bưng bít như Triều Tiên thì càng tệ hại hơn. Cái gì cho nghe thì nghe, cái gì cho thấy thì mới được thấy.
Hồm tuần rồi, nước Mỹ khẳng định các tên lửa của Mỹ và đồng minh đã "hoàn thành sứ mệnh" cảnh cáo Assad đừng tàn bạo với người dân vô tội, và phá huỷ làm thiệt hại một số căn cứ liên quan đến sản xuất vũ khí hoá học của Syria. Nga thì nói đã ngăn chận được 2/3 tên lửa Tomahawk của Mỹ, còn báo chí Vietnam thì dịch rằng Syria vừa nghe nhạc vừa bắn đạn đạo phá được tên lửa Mỹ. Nghe cứ như những câu chuyện lãng mạn năm xưa, vừa làm thơ vừa đánh giặc, thả diều bắt máy bay đầm già :-).
Mình thì nghĩ thông tin ở quốc gia nào càng minh bạch, thì mức độ khả tín càng cao hơn. Thiết nghĩ Nga mà nói Pantsir S-1 không vô hiệu hoá được Tomahawk thì còn bán cho ai được nữa. Nhưng biết đâu qua vụ này, chú Ủn, Assad ... suy nghĩ lại, trở nên hiền lành hơn thì phước lành cho bá tánh rồi. Một điều rõ ràng là lãnh đạo nước nào mà đem lại đau khổ, tang thương, cho chính người dân của mình, đều không được thế giới đồng tình, và không tồn tại được lâu dài.
Cuối ngày thì ai bốc phét cũng tự biết mình bốc phét cả, nhưng nói vẫn cứ nói, gạt ai được thì gạt. Ai ghét bên kia thì tin bên này, ngược lại ai không thích bên này thì tin bên kia. Còn tin tức có kiểm chứng chưa ? Biết đâu mà kiểm chứng, nghe sao dịch lại vậy, chẳng biết đúng sai. Ai tin ráng chịu. Mà có khi kiểm chứng được cũng chưa chắc có can đảm nói !
Từ ngày có internet, và thuật ngữ "Fake News" của T/T Trump, thì mức độ khả tín của tin tức càng được quan tâm. Các ông lớn truyền thông Google, Facebook, cũng ráng tìm mọi cách để ngăn chận vấn nạn này, nhưng hành trình còn lắm gian nan. Kiểm tra được nguồn tin nhưng chưa chắc đã thẩm định được nội dung. Ngẫm lại thì ông bà ta đã có cái nhìn vượt thời gian khi bảo rằng " Lời đồn sợ người có trí khôn ".
Dù gì đi nữa, hoà bình vẫn là điều mong mỏi của thế giới. Mong được thế, bởi trong chiến tranh nào, thất bại cũng rơi về phía người dân !
Google bỏ ra 300 triệu cho vấn nạn tin giả (tiếng Anh) .
Tuesday, April 10, 2018
Nhớ Phạm Duy
Nhớ ngày đó nghe người bạn kể lại trong đám tang của nhạc sĩ Phạm Duy, không có một vòng hoa phúng điếu nào của hội nhạc sĩ Vietnam hoặc nhạc sĩ TP đem đến để tiễn biệt ông, mình cảm thấy thất vọng vô cùng. Một cây đại thụ của làng âm nhạc Việt Nam ra đi, một gia tài văn nghệ đồ sộ để lại, những lời ca tiếng nhạc còn vang vọng mãi trên mọi nẻo đường ngõ ngách quê hương hôm qua, hôm nay, và mai sau ... Thế mà không một lời tri ân, không một vòng hoa tiễn biệt cho một người đã chết ? Thật là một sự khôi hài cho những danh từ hoa mỹ vẫn thường nghe như cái tâm, cái tầm, cái sĩ, cái dũng, cái nghĩa, cao thượng, vị tha, trí thức, văn hoá...v.v. Đáng buồn !
Cuộc sống này bao giờ cũng thế, một khi nổi tiếng, hay có những thành đạt nhất định, bên cạnh những vinh quang, người ta thường phải đối diện với cái mặt trái nhất định của nó. Đó là những tin đồn, hẹp hòi, định kiến, ghen tị, đố kị, thù ghét, nhỏ nhen .....từ người khác. Nhiều hay ít là do bản chất văn hoá và tính nhân văn, cũng như sự hiểu biết của từng con người, từng địa phương, từng đất nước. Nhạc sĩ Phạm Duy, cũng như bao nhiêu con người thành đạt khác đều không ngoại lệ, bởi họ cũng chỉ là con người. Nhiều người thậm chí còn chính trị hoá, đạo đức hoá, thần tượng hoá, nhân cách hoá những câu chuyện đời thường của những người nổi tiếng để tôn sùng hoặc để phỉ báng, dèm pha họ. Dĩ nhiên là cũng có những câu chuyện thực, cũng có những câu chuyện giả, cũng có những câu chuyện chỉ là "câu chuyện làm quà", nghe đi nghe lại, tiếng được tiếng mất, bên lề cuộc sống ... Để rồi cuối ngày người ta quên mất những thành tựu, những công ơn lớn lao của các nhà văn nghệ sĩ đã cống hiến cho xã hội.
Văn nghệ là văn nghệ. Cho dù có thêm thắt là vị nghệ thuật, vị nhân sinh, vị chủ nghĩa, vị chế độ ... thì cũng thế. Cho dù có thêm thắt chuyện đời tư, chuyện cá nhân, chuyện quan điểm chính trị .... thì âm hưởng của lời ca, của tiếng hát, của dòng thơ, của cuốn sách, của những tác phẩm văn nghệ giá trị vẫn cứ còn đọng lại trong lòng mỗi người, bất kể dòng thời gian hay bất kỳ thể chế chính trị nào. Và dĩ nhiên là cho dù ở đất nước nào, thời đại nào, chính phủ nào, ít nhiều cũng có những tay bồi bút văn nô, xử dụng khả năng của mình để tạo dựng những tác phẩm hoặc bài viết mang tính phiếm diện, tuyên truyền, phản bác, để cổ suý và phục vụ cho mục đích chính trị hoặc thương mại nào đó. Cũng có nhiều văn nghệ sĩ không vượt qua nỗi cái giới hạn kiểm soát của chính quyền từ đất nước họ bởi những lý do khác nhau, nên có xu hướng sáng tác gói gọn trong một phạm vi hạn hẹp nhất định. Nhưng điều đó không khó lắm để thiên hạ nhận ra, thông thường những tác phẩm đó chỉ mang giá trị giai đoạn, và càng không phải là điều muốn nói ở đây. Mặt khác, cũng không phải cứ ông nhạc sĩ thi sĩ nào nổi tiếng thì làm bài nào cũng hay. Có ông nhà thơ làm cả vài trăm bài, mới được vài bài thành danh là qúy rồi. Cho nên xưa nay những tác phẩm văn học nghệ thuật nào được phổ biến rộng rãi, tồn tại và lưu truyền qua nhiều thế hệ, đủ để chứng minh thuyết phục nhất về giá trị thực của nó .
Công bằng với giá trị văn hoá nghệ thuật chân chính là công bằng với chính tri thức và lương tâm của mình. Trên thế giới, có biết bao nhiêu văn nghệ sĩ nghiện ngập, nghèo đói, tình cảm phóng khoáng, lưu vong trôi nổi, tù đày... Nhưng họ đã để lại cho đời sau những tác phẩm bất hủ, đáng trân trọng. Họ không phải là nhà đạo đức, càng không phải là nhà chính trị, mà chỉ là những con người bình thường, có ưu có khuyết, tài hoa, cần ngẫu hứng, cần sự tự do để sáng tác những gì họ muốn nói, muốn nghe. Thật là nghịch lý và buồn cưòi khi cố áp đặt những khuôn khổ, định kiến nhỏ nhen lên những sáng tạo phi khuôn khổ !
Nhớ hồi xưa còn bé, những bài ca ê a đầu đời là tình tự quê hương man mác. Từ Quê Nghèo, Tôi yêu tiếng nước tôi, Việt nam nghe tự vào đời, Em bé quê, Ông trăng xuống chơi .... Rồi cho đến khi lớn lên, đi học, sinh viên, ra nước ngoài, đi làm, đi xa .... những bài tình ca của Phạm Duy cứ đi theo suốt hành trình của mình, vui buồn mỗi lúc. Thỉnh thoảng cũng có nghe báo đài, bàn nhậu, đồn đóan râm ran chuyện đời tư, chuyện nhà cửa con cái, đi về ....của ông, mình cũng ít khi quan tâm mấy. (Thực ra thì lâu nay mình cũng không thưởng thức lắm cái tư duy chỉ cần coi được đoạn phim 2 phút là đủ để thao thao bất tuyệt phán xét nội dung một cuốn phim dài :-)). Mình chỉ yêu âm nhạc của ông, yêu cái ca từ mang nặng tình tự quê hương dân tộc, và tôn trọng tài năng của ông.
Những năm tháng còn ở Sài gòn, thỉnh thoảng có gặp ông ngoài Trần Cao Vân (Hồ Con Rùa). Vẫn thích cái phong thái lãng tử, phóng khoáng của ông. Cuộc sống này mà làm được cái mình thích làm, sống được với chính mình, thì cũng là một khí khái và bản lĩnh rồi. Mới tuần rồi ăn tối với một ông giáo sư người Mỹ, từng viết nhiều bài nghiên cứu về âm nhạc Phạm Duy bằng tiếng Anh, được nghe ông chia xẻ nhiều câu chuyện thú vị. Nhớ hôm tháng rồi có một người quen tặng mình đĩa nhạc "Nhớ Phạm Duy", thâu âm vào dịp 5 năm tưởng niệm ngày mất của cố NS Phạm Duy. Phải cảm ơn những con người như các anh chị ấy, đã bỏ công sức để duy trì, để tuởng nhớ, và công bằng tri ân những đóng góp giá trị của một người nhạc sĩ VN tài hoa.
Sáng nay mở ra nghe, tự nhiên nhớ quê nhà ghê. Đã bao nhiêu năm trôi qua nhưng vẫn còn đâu đó ..... những cánh đồng cát dài, có lũy tre già tả tơi, ruộng khô có những ông già rách vai, cuốc đất bên đàn trẻ gầy, có người bừa thay trâu cày.....
Cuộc sống này bao giờ cũng thế, một khi nổi tiếng, hay có những thành đạt nhất định, bên cạnh những vinh quang, người ta thường phải đối diện với cái mặt trái nhất định của nó. Đó là những tin đồn, hẹp hòi, định kiến, ghen tị, đố kị, thù ghét, nhỏ nhen .....từ người khác. Nhiều hay ít là do bản chất văn hoá và tính nhân văn, cũng như sự hiểu biết của từng con người, từng địa phương, từng đất nước. Nhạc sĩ Phạm Duy, cũng như bao nhiêu con người thành đạt khác đều không ngoại lệ, bởi họ cũng chỉ là con người. Nhiều người thậm chí còn chính trị hoá, đạo đức hoá, thần tượng hoá, nhân cách hoá những câu chuyện đời thường của những người nổi tiếng để tôn sùng hoặc để phỉ báng, dèm pha họ. Dĩ nhiên là cũng có những câu chuyện thực, cũng có những câu chuyện giả, cũng có những câu chuyện chỉ là "câu chuyện làm quà", nghe đi nghe lại, tiếng được tiếng mất, bên lề cuộc sống ... Để rồi cuối ngày người ta quên mất những thành tựu, những công ơn lớn lao của các nhà văn nghệ sĩ đã cống hiến cho xã hội.
Văn nghệ là văn nghệ. Cho dù có thêm thắt là vị nghệ thuật, vị nhân sinh, vị chủ nghĩa, vị chế độ ... thì cũng thế. Cho dù có thêm thắt chuyện đời tư, chuyện cá nhân, chuyện quan điểm chính trị .... thì âm hưởng của lời ca, của tiếng hát, của dòng thơ, của cuốn sách, của những tác phẩm văn nghệ giá trị vẫn cứ còn đọng lại trong lòng mỗi người, bất kể dòng thời gian hay bất kỳ thể chế chính trị nào. Và dĩ nhiên là cho dù ở đất nước nào, thời đại nào, chính phủ nào, ít nhiều cũng có những tay bồi bút văn nô, xử dụng khả năng của mình để tạo dựng những tác phẩm hoặc bài viết mang tính phiếm diện, tuyên truyền, phản bác, để cổ suý và phục vụ cho mục đích chính trị hoặc thương mại nào đó. Cũng có nhiều văn nghệ sĩ không vượt qua nỗi cái giới hạn kiểm soát của chính quyền từ đất nước họ bởi những lý do khác nhau, nên có xu hướng sáng tác gói gọn trong một phạm vi hạn hẹp nhất định. Nhưng điều đó không khó lắm để thiên hạ nhận ra, thông thường những tác phẩm đó chỉ mang giá trị giai đoạn, và càng không phải là điều muốn nói ở đây. Mặt khác, cũng không phải cứ ông nhạc sĩ thi sĩ nào nổi tiếng thì làm bài nào cũng hay. Có ông nhà thơ làm cả vài trăm bài, mới được vài bài thành danh là qúy rồi. Cho nên xưa nay những tác phẩm văn học nghệ thuật nào được phổ biến rộng rãi, tồn tại và lưu truyền qua nhiều thế hệ, đủ để chứng minh thuyết phục nhất về giá trị thực của nó .
Công bằng với giá trị văn hoá nghệ thuật chân chính là công bằng với chính tri thức và lương tâm của mình. Trên thế giới, có biết bao nhiêu văn nghệ sĩ nghiện ngập, nghèo đói, tình cảm phóng khoáng, lưu vong trôi nổi, tù đày... Nhưng họ đã để lại cho đời sau những tác phẩm bất hủ, đáng trân trọng. Họ không phải là nhà đạo đức, càng không phải là nhà chính trị, mà chỉ là những con người bình thường, có ưu có khuyết, tài hoa, cần ngẫu hứng, cần sự tự do để sáng tác những gì họ muốn nói, muốn nghe. Thật là nghịch lý và buồn cưòi khi cố áp đặt những khuôn khổ, định kiến nhỏ nhen lên những sáng tạo phi khuôn khổ !
Nhớ hồi xưa còn bé, những bài ca ê a đầu đời là tình tự quê hương man mác. Từ Quê Nghèo, Tôi yêu tiếng nước tôi, Việt nam nghe tự vào đời, Em bé quê, Ông trăng xuống chơi .... Rồi cho đến khi lớn lên, đi học, sinh viên, ra nước ngoài, đi làm, đi xa .... những bài tình ca của Phạm Duy cứ đi theo suốt hành trình của mình, vui buồn mỗi lúc. Thỉnh thoảng cũng có nghe báo đài, bàn nhậu, đồn đóan râm ran chuyện đời tư, chuyện nhà cửa con cái, đi về ....của ông, mình cũng ít khi quan tâm mấy. (Thực ra thì lâu nay mình cũng không thưởng thức lắm cái tư duy chỉ cần coi được đoạn phim 2 phút là đủ để thao thao bất tuyệt phán xét nội dung một cuốn phim dài :-)). Mình chỉ yêu âm nhạc của ông, yêu cái ca từ mang nặng tình tự quê hương dân tộc, và tôn trọng tài năng của ông.
Những năm tháng còn ở Sài gòn, thỉnh thoảng có gặp ông ngoài Trần Cao Vân (Hồ Con Rùa). Vẫn thích cái phong thái lãng tử, phóng khoáng của ông. Cuộc sống này mà làm được cái mình thích làm, sống được với chính mình, thì cũng là một khí khái và bản lĩnh rồi. Mới tuần rồi ăn tối với một ông giáo sư người Mỹ, từng viết nhiều bài nghiên cứu về âm nhạc Phạm Duy bằng tiếng Anh, được nghe ông chia xẻ nhiều câu chuyện thú vị. Nhớ hôm tháng rồi có một người quen tặng mình đĩa nhạc "Nhớ Phạm Duy", thâu âm vào dịp 5 năm tưởng niệm ngày mất của cố NS Phạm Duy. Phải cảm ơn những con người như các anh chị ấy, đã bỏ công sức để duy trì, để tuởng nhớ, và công bằng tri ân những đóng góp giá trị của một người nhạc sĩ VN tài hoa.
Sáng nay mở ra nghe, tự nhiên nhớ quê nhà ghê. Đã bao nhiêu năm trôi qua nhưng vẫn còn đâu đó ..... những cánh đồng cát dài, có lũy tre già tả tơi, ruộng khô có những ông già rách vai, cuốc đất bên đàn trẻ gầy, có người bừa thay trâu cày.....
Tuesday, April 03, 2018
Tình già,
Một người bạn đồng nghiệp vừa mới kỷ niệm 50 năm cưới nhau. Đúng ra thì ông lớn hơn mình nhiều, đã qua tuổi về hưu, nhưng vẫn còn khoẻ mạnh, xin đi làm tiếp tục. Con cái lớn hết, ở riêng, chỉ còn 2 vợ chồng già thủ thỉ với nhau.
Mình rủ đi ăn trưa, chúc mừng. Rồi hỏi ông ta:
- 50 năm qua, cái kỷ niệm nào đáng nhớ nhất, lãng mạn nhất, còn lại bây giờ ? Ông trả lời :
- Không nhớ cái gì lãng mạn nhất, đáng nhớ nhất cả. Nhưng ngồi nghĩ lại thì cứ cái này nối cái kia. Coi như chuyện bình thường mỗi ngày !
Lớn lên ở quê, 20 tuổi có vợ. Hôn nhân vội vàng, gần như sắp đặt, cũng chẳng có thời gian yêu đương lãng mạn gì nhiều, cùng làng cùng quê, biết nhau rồi cưới. Rồi đi lính, bị đưa qua VN mấy năm, về đi học lại. Vợ ở nhà đi làm, đợi chồng về, sinh con, nuôi lớn ..... Không chết chàng trai khói lửa, cũng không chết người em gái hậu phương. Đại khái cũng như bao nhiêu câu chuyện của những người phụ nữ khác. Cũng có những năm tháng sóng gió, những gây gỗ giận hờn, hoặc thăng hoa hạnh phúc như bao cặp vợ chồng bình thường. Có thời gian bà vợ bị bịnh trầm cảm nặng, đuổi ông ra khỏi nhà, chửi bới, đánh đập ông ta. Ông vẫn lặng lẽ cam chịu chữa trị bịnh cho vợ. Hôm nào vợ lên cơn đánh chửi, thì ra khách sạn hay nhà bạn bè ngủ nhờ. Rồi cũng qua, và họ đã sống được với nhau 50 năm !
Nghĩ lại giông giống thế hệ cha mẹ mình bên VN. Có nhiều lý do để họ sống chung với nhau. Ở nhau vì thương nhau, vì nghĩa vợ chồng, vì trách nhiệm, vì con cái, vì dư luận, vì mặt mũi gia đình, vì giòng họ, vì thói quen, vì ngại sóng gió, vì tiện lợi ...v.v. Rất nhiều cặp là mai mối cưới nhau, cha mẹ sắp đặt gả nhau, môn đăng hộ đối. Có bao nhiêu người trong số họ thật sự có những tình yêu lãng mạn, hiểu nhau, đồng cảm nhau mà đến với nhau ? Dĩ nhiên là có, nhưng có lẽ cũng không nhiều lắm. Nhưng cuối ngày thì họ vẫn sống được với nhau, chịu đựng và hy sinh cho nhau cả đời như ông bạn già của mình, con cháu đầy đàn.
Tất nhiên là cũng có những trường hợp thực sự yêu thương nhau, sống với nhau vì tình yêu và luôn cần có nhau, nhưng đó không phải là đại đa số. Mình có ông cậu ở VN, ông bà nay đều trên 90 tuổi. Cưới nhau cả 70 năm, vẫn thương yêu quấn qúit bên nhau. Rất kính phục !
Bên cạnh đó cũng không hiếm những trường hợp đợi nhau mãi cho đến khi về già, mới tìm được tình yêu đích thực của mình, rồi cùng nhau chung sống cho đến cuối đời.
Còn đến thế hệ mình, đa số là yêu đương cuồng nhiệt, bất chấp tất cả. Đại đa số là không đồng ý mai mối, hôn nhân sắp đặt, mà tự mình đi tìm một nửa của mình. Có cưới nhau được không, lại là chuyện khác, cứ yêu, cứ có nhau, cứ lãng mạn, cứ "dìu nhau dưới bóng nợ nần" mà đi. Dĩ nhiên thì cũng có một số ít là không đi theo phong cách đó, vẫn còn đi theo mai mối, sắp đặt. (Đúng sai miễn bàn ở đây. Nhiều ông Việt kiều, ngoại quốc, Đài loan, Hàn quốc, Trung quốc ... về VN cưới vợ. Đâu có hẹn hò yêu đương, hiểu nhau chút nào đâu, thậm chí là ông nói gà bà nói vịt, mà vẫn ở với nhau, sinh con đẻ cái hà rầm).
Cái mình muốn nói đến là chuyện ly dị, ly hôn, chia tay .... ở thế hệ mình nhiều hơn thế hệ trước quá nhiều. Chuyện hôn nhân sắp đặt thì còn có thể hiểu được. Đằng này là tại sao có hẹn hò nhau, yêu thương nhau, có lựa chọn nhau, mà rồi vẫn chịu đựng nhau không nỗi ? Có lẽ tính kiên nhẫn ít hơn, nhiều chọn lựa hơn, dư luận dễ dãi hơn, xã hội dễ chấp nhận hơn, vai trò người phụ nữ khác hơn, tính bình đẳng cao hơn ...? Nguyên nhân chắc là nhiều, nhưng điểm chính là cấu trúc xã hội thay đổi, đa dạng hơn, cuộc sống phức tạp hơn, nhiều áp lực hơn, bình đẳng hơn, nên sự cam chịu, hy sinh để chấp nhận nhau cũng không còn được như thời trước. Dĩ nhiên trong bất kỳ cuộc chia tay nào cũng luôn có những lý lẽ riêng của họ, mà người ngoài không hiểu hết được, không nên phán xét và chen vào.
Cho dù thế nào, cũng xin trân trọng những sự hy sinh, gắn bó nghĩa tình của thế hệ đi trước. Riêng mình thì vẫn tin rằng tình yêu vợ chồng phải cần thiết sự lãng mạn, hiểu nhau, đồng cảm và tôn trọng nhau để tồn tại. Nói tới đây mới nhớ hôm trước có ai kể mình, có cặp vợ chồng VN mới qua Mỹ ở Cali. Ngày Valentine ông chồng học theo phong cách nước ngoài, mua bó hoa hồng và món quà về, chuẩn bị bữa ăn đặc biệt, có đèn cầy, sâm banh, đợi cô vợ về. Cô vợ về nhà, thấy vậy, phán ngay "Bày đẹt, tiền không lo để dành mua nhà, mua xe. Mà cứ lo loãng mạn hoa với hoè , tốn kém ". Ông chồng tiu nghiủ, rưng rưng :-) .
Lâu nay có nhiều người quan niệm rằng tình yêu không có nghĩa là "còn hay hết", mà là "có hay không". Mình thì không đủ khả năng để phân tích sâu sắc vậy, chỉ biết là trân quý những ai đã gìn giữ được hôn nhân, đó là cái hay của cả vợ lẫn chồng. Mình cũng tôn trọng những con người đã can đảm, dứt khoát từ giã những cam chịu của một hôn nhân thất bại, để đi tìm một cuộc sống mới an vui hơn và không hành hạ nhau.
Mà nghĩ lại, cưới nhau rồi thì thôi, cầu yên ổn chung lo gia đình. Chứ còn trai trẻ thì tình yêu phải có được có mất, có thăng có trầm, có vui có buồn, có thương có giận, có hẹn hò, có thất tình, có yêu thầm nhớ trộm .... mới làm cho cuộc sống thi vị, đậm đà chất sống. Nhớ ngày xưa mình cũng là tín đồ thường xuyên của mấy ông bà nhạc sĩ thi sĩ thất tình, trữ tình. Từ Thâm Tâm, TTKH, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương ... cho đến Nguyễn tất Nhiên, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng... Từ Trịnh Công Sơn, Vũ Thành Anh, Từ công Phụng, Lê Uyên Phương, Ngô Thụy Miên ... cho đến Lam Phương, Trần Thiện Thanh.... Mà hình như là phải thất tình, thì mấy ông làm thơ làm nhạc mới hay, mới chất, mới lâm ly được. Chớ mấy ông nghệ sĩ nhà giàu, chăn êm nệm ấm, quan chức, đại gia, làm thơ làm nhạc nghe chán ngắt. Nhiều ông không có tình yêu mà cố làm thơ tình, đọc cứ như bài vè, học thuộc lòng. Có ông lấy chữ ráng ghép lại ra vần thành thơ, từa tựa nhau, đọc thơ tình yêu mà nghe như báo cáo thành tích !
Nhớ đám bạn bè mình thời đó xa quê, lam lũ, cũng tập tành lãng mạn yêu đương. Cả ngày lãng đãng thơ với thẩn. Có đứa thuộc nằm lòng thơ Du Tử Lê, Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Thiên Thư, Đinh Hùng ...nhưng chưa bao giờ có dịp đọc cho em nghe. Có đứa đi tìm hoài một nửa của mình, đến lúc ế độ mới giật mình cưới vợ. Có đứa yêu thầm hoài không dám nói, đợi khi em có chồng, bắt đầu làm thơ thất tình, nên trở thành thi sĩ. Có đứa ngỡ mình thi sĩ, tóc tai bù xù, quần áo lếch thếch, làm thơ tặng em giao hàng đến tận nhà. Bị ông bà già em chửi cho một trận đuổi về. Nhờ vậy, tỉnh giấc Nam Kha, đi làm cán bộ mà giờ ngon lành. Cũng có đứa tự cho mình chí lớn cao thượng, tập trung sự nghiệp, đợi lúc thành đạt mới nói yêu em. Ai dè tới khi thành đạt thì em đã là bà ngoại người ta. Nhưng mà vậy mới vui, nhờ vậy mới có chuyện để nói lúc về già. Hồi đó rời quê, mình cũng mê lắm hai câu thơ của Quang Dũng - "Bao giờ ta gặp em lần nữa. Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa". Rồi thoáng vèo một cái đã mấy chục năm trôi qua. Nếu lỡ gặp ai đâu đó, mắt mũi lem hem, chắc gì đã nhận ra nhau. Nên tính ra, phải kính nể cụ Phan Khôi ngày xưa, vẫn tỉnh táo ngon lành, con mắt còn có đuôi khi viết "Tình Già"...
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung,
đố có nhìn ra được?
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
con mắt còn có đuôi...
Saturday, March 31, 2018
Công bằng ?
Mới hôm rồi về nhà, chạy ngang Cầu Bông mua heo quay bánh hỏi, đi qua Lăng Ông. Vẫn còn tháng Giêng, ghé viếng thăm Lăng chút rồi đi. Dọc đường, cậu tài xế hỏi:
- Sao Lăng Ông thì vẫn còn, mà không thấy đặt tên đường nào cả anh hén ?
Ừ, lâu nay mình vẫn biết thế nhưng chẳng ai hỏi, ai nhắc, rồi cũng quên. Mình nghĩ nếu Sài Gòn mà không có tên đường Lê Văn Duyệt là quá thiếu sót, quá nhỏ nhen.
Một vị Tổng Trấn lâu đời nhất, đã có công kiến tạo Sài Gòn Gia Định phát triển rực rỡ thời ban đầu, khiến người ngoại quốc Anh, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha ... phải thán phục và tôn kính. Dân chúng ai cũng kính cẩn gọi Ngài là Cụ Thượng. Chính sách an ninh nghiêm khắc, văn hoá an dân, xây dựng thương cảng, giao thương rộng mở, ưu đãi ngoại thương, bình đẳng tôn giáo, bang giao hữu hảo với láng giềng Chân Lạp Xiêm La, nghiêm trị bọn tham quan cửa quyền. Hỏi thử mấy thế kỷ sau, cho đến bây giờ, có bao ngài thị trưởng, đô trưởng, hoặc lãnh đạo của SG, đã có tư duy và tài năng làm được như thế ?
Nội điểm sơ qua cái trí tuệ của các cuộc dẹp loạn bình an dân từ Nam ra Bắc. Cái sáng suốt xây dựng kinh tế thương mại và phồn thịnh đất nước. Cái can đảm dám ngăn vua GL không truyền ngôi cho Minh Mạng. Cái dũng khí xử tử tham quan, kể cả phó tổng trấn Huỳnh Công Lý (cha vợ vua Minh Mạng). Cái sĩ & trung nghĩa của một vị quan vì dân vì nước, không nịnh nọt bợ đỡ bề trên, không sợ cường quyền, không tham nhũng hối lộ.... Bấy nhiêu đó cũng đáng cho người đời tôn kính và noi theo rồi. Thế thì tại sao tên Ông không được đặt cho con đường nào cả, đặc biệt ngay chính trên cái thành phố mà Ông đã có công kiến tạo nên ?
Mình không rõ lắm, nhưng nghĩ có thể là liên quan đến việc làm quan thời Gia Long, chứ không phải vì câu chuyện Lê Văn Khôi. (Mở ngoặc chút, nội cái chuyện Gia Long là công hay tội, mà không biết đã có bao nhiêu sử gia miệt mài năm tháng, rồi mỗi ông nói một nẻo. Người sợ, kẻ làm thinh, tới giờ vẫn chưa dám trả lại sự thật cho lịch sử :-)). Xưa nay, tất nhiên là đại đa số người dân sống dưới chế độ nào thì phải làm việc cho chế độ đó, đặc biệt là dưới thời phong kiến, mang nặng ý thức hệ bề tôi, quần thần. Có người đi làm vì mưu sinh, vì trách nhiệm. Có người phụng sự vì lý tưởng. Nhưng bên cạnh đó cũng có kẻ chỉ vì cơ hội, hám danh hám lợi, cậy quyền cậy thế, xu nịnh hà hiếp người khác. Quan cũng thế mà vua cũng vậy. Còn triều đại đó có xứng đáng được vinh danh hay không, có đem lại sự thịnh vượng cho nước nhà hay không, lại là một góc cạnh khác. Lịch sử dân tộc nào cũng vậy, cũng sẽ ghi nhận và đánh giá điều đó rõ ràng, cho dù có những giai đoạn bị bóp méo xuyên tạc. Thời nay cũng thế thôi, "ăn cơm chúa phải múa tối ngày", còn chuyện ai tốt ai xấu thì khó lường cho đến khi bị lộ :-). Nhiều quan lại bây giờ có khi còn thua xa các vị quan ngày xưa về sự can đảm, trung nghĩa, lòng tự trọng & ái quốc thương dân.
Vậy thì chỉ vì có định kiến với triều đại nhà Nguyễn (chủ yếu là Gia Long), mà bao nhiêu công trạng của các vua quan nhà Nguyễn, Chúa Nguyễn, đều bỏ cả sao ? Hàng trăm năm mở mang bờ cõi, xây dựng đất nước cho chúng ta có được VN hôm nay, đều xấu cả sao ? Những con đường, những ngôi trường, những đền đài, mang tên Minh Mạng, Duy Tân, Lê Văn Duyệt, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Phan Thanh Giản.... đều phải gỡ bỏ hết sao ?
Thực ra nhiều người cũng thắc mắc tại sao triều đại nhà Nguyễn bắt đầu từ vua Gia Long đều không được trọng thị, tất cả tên hiệu của vua quan đều bị gỡ xuống. Có người cho rằng vì triều Gia Long là triều đại phong kiến cuối cùng. Có người cho rằng vì nhà Nguyễn về sau yếu kém nên để Pháp đô hộ. Có người cho rằng vì Nguyễn Ánh đi cầu viện nước ngoài để giành lại đất nước .v.v.... Mình thì luôn nghĩ nên có cái nhìn khách quan vào hoàn cảnh xã hội và chính trị mỗi thời kỳ, cũng như bối cảnh chính trị thế giới của từng giai đoạn lịch sử, để đánh giá công tội của các bậc tiền nhân công bằng hơn. Thời đại ngày nay cũng có những quốc gia trên thế giới nhờ cậy sự giúp đỡ chi viện từ nước ngoài, hoặc dựa dẫm quan hệ quốc tế để giành lại chính quyền, hoặc đi theo chủ thuyết ngoại bang để xây dựng đất nước. Chẳng lẽ đời sau cũng xoá sạch công trạng của họ sao ? Không. Mình nghĩ đời sau phải nên công bằng để luận công và tội của các tiền nhân. Càng không nên gieo vào đầu của những thế hệ trẻ những hận thù vô cớ & những quan niệm dựa trên ý thức hệ sai lệch và chủ quan. Trên thế giới, rất nhiều quốc gia dạy dỗ con nít sự công bằng (fairness) và lòng vị tha (forgiveness) từ hồi còn mang bỉm, mang tã.
Không ai phủ nhận công trạng của các bậc anh hùng tiền nhân đối với đất nước, nhưng cũng phải chấp nhận sự thật rằng ai cũng có những khiếm khuyết nhất định của họ. Vua chúa cũng thế, mà quần thần cũng thế. Ví dụ: Quang Trung tài ba, anh dũng, nhưng khi thành công lại đào mồ các Chúa Nguyễn. Cho nên Gia Long lên ngôi, lại truy sát tận diệt Tây Sơn là thế. Lâu nay vẫn thường vậy, đời sau "xử" đời trước. VN và Tàu ngày xưa luôn luôn bị lôi cuốn vào những bi kịch này, nên nội chiến triền miên, không tận dụng được tính kế thừa, chậm tiến so với thế giới phương Tây. Thử hỏi bao nhiêu công việc bận rộn để trả thù và gieo rắt hận thù như thế, rồi lo xây dựng tượng đài, lo xây lăng tẩm mồ mả, rồi lo dấu đi cho khỏi bị đập phá, lo yếm phong thuỷ địa lý để kéo dài thời đại, lo phô trương, rồi lo đi cầu hàng .....thì còn lại bao nhiêu thời gian để xây dựng đất nước và chăm lo đời sống người dân ? Thực ra Nguyễn Huệ và nhà Tây Sơn anh dũng, giỏi chiến đấu, giành được non sông nhưng lại yếu kém về mặt xây dựng đất nước. Quân đội đa phần là nông dân nổi dậy, chỉ giỏi đánh nhau. Đặc biệt là sau khi vua Quang Trung mất, triều đình suy thoái loạn lạc, tranh giành quyền lực. Người dân phải chịu nhiều khổ lụy, nhất là dân miền Nam và miền Tây Nam bộ, nên họ ủng hộ Nguyễn Ánh phục hưng. Người ta thường nói, đánh lộn thì dễ, làm hoà mới khó. Giành nước thì dễ, xây dựng quốc gia mới khó. Nhưng nếu không biết công bằng giữa công và tội, không phân minh giữa tốt và xấu, thì làm sao làm hoà, làm sao xây dựng kiến tạo ?
Nhớ hồi mình còn nhỏ đi học, học cả Nguyễn Huệ lẫn Nguyễn Ánh. Có những con đường, trường học, căn cứ huấn luyện, mang tên nhà Tây Sơn như Quang Trung, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân ... nhưng cũng có cả tên anh hùng của triều đại Gia Long như Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Lê văn Duyệt, Duy Tân.... Suy cho cùng, đất nước nào thời đại nào cũng có những anh hùng tận tụy hy sinh vì nước vì dân, vì quê hương đồng bào của họ. Bên cạnh đó cũng không hiếm bọn bán nước cầu vinh, coi tư lợi trọng hơn quốc gia, cơ hội chủ nghĩa.
Thiết nghĩ, những vị anh hùng liệt sĩ hy sinh vì nước vì dân đều đáng được tri ân. Cho dù ý thức hệ có khác nhau, nặng tính triều đại phong kiến, nhưng có xưa mới có nay. Mỗi thời đại lịch sử có những ưu khuyết nhất định của nó, nhưng không nên vì thế mà phỉ báng tất cả công trạng cao cả của họ với đất nước. Lịch sử phải được công bằng nói lên sự thật. Một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ trở thành thế hệ "tiền nhân". Liệu ta có mong muốn thế hệ sau có cái nhìn phiếm diện, thiếu công bằng về những người đi trước hay chăng ? Chết là hết. Thiết nghĩ người chết không ai quan tâm đến công trạng thị phi nữa, nhưng người sống phải có trách nhiệm công bằng với công và tội của tiền nhân. Nghĩ vậy !
Saturday, March 24, 2018
Đêm bên bờ Trà Khúc
Gió bấc ngàn xưa về đây chớm lạnh
Rờn rợn trăng tàn lấp lánh trên sông
Ly rượu cuối năm cay nồng khoé mắt
Rát mặt môi cười hiu hắt phố đông
Bến cũ rêu phong rỉ máu Hàm Rồng (*)
Trắng đêm đầu sóng nẫu lòng Thiệu Khôi (**)
Đoản kiếm lọc lừa trên ngôi tuẫn tiết
Nước mắt thật thà chảy miết quanh đây
Cuộc rượu đêm nay rót đầy trắc ẩn
Cổ tích một thời cứ vẫn nợ nhau
Ai nợ Giao Châu bên bờ Nam Chiếu
Ai nợ quần thần để thiếu minh quân ?
Nhớ tiếng gươm xưa cờ lau xao xác
Nửa đời phiêu bạt ngơ ngác chim Di
Non thế kỷ đám con lì chinh chiến
Mẹ quê nhà đau điếng đói rưng rưng ...
Đêm thấm lạnh, mắt trừng soi phương bắc
Chuyện nghìn năm quay quắt một đêm say !
(*) Long đầu hý thuỷ
(**) Điển tích Mẹ vua Nam Chiếu & Cao Biền
PN
Friday, March 23, 2018
Phiếm: Về quê xưa
Mình nhớ có một nhà văn Mỹ nào đó khi trở về quê cũ của ông, đã nói như thế này "When you finally go back to your old hometown, you find it wasn't the old home you missed but your childhood." (Tạm dịch: Cuối cùng khi trở về lại quê mình, mới nhận ra rằng không phải là nhớ ngôi nhà xưa, mà là luyến tiếc thời thơ ấu"). Đúng vậy, mình cũng quan niệm như thế. Dĩ nhiên trong những kỷ niệm của thời thơ ấu, có cả ngôi nhà xưa cũ kỹ của mình.
Riêng mình, cả gia đình cha mẹ đã rời xa quê ấy lâu lắm rồi, cả gần thế hệ. Nơi đó, chỉ còn lại những ngôi mộ của ông bà, người thân, ngày mỗi riêu phong bạc phếch. Thế nhưng lần nào về VN, dù bận bịu thế nào cũng tranh thủ chạy về nơi đó thắp vài cây nhang, chạy xe máy một vòng, bờ đê ruộng lúa, nương mía nương mì, con sông ngọn núi, lang thang.... Xong, lên thị xã uống vội vài ly rượu với bạn bè, rồi đi. Dẫu ở xa cho mấy, rồi cũng thèm về ngồi cạnh mộ ông bà, nhổ cây cỏ, thắp cây nhang, ngồi nhớ lại những quãng ngày thanh bình, êm đẹp.
Mình lớn lên ở quê Ngoại nên không biết nhiều về quê Nội. Quê Nội mình là vùng chiến tranh, mất an ninh, mãi sau năm 1975 mới đến được. Gia đình mình thì gần như bị bắt buộc phải về quê nội ngay sau ngày đình chiến. Ở đó được vài năm nhưng không có nhiều ký ức đẹp đẽ lắm, ngoài những chuyện như cưỡng chiếm ruộng vườn, vô hợp tác xã, chứng lý lịch, hận thù và đố kỵ ....v.v. Quê Nội mình cũng có những cánh đồng mía bát ngát, dòng sông trong vắt lững lờ. Bên kia sông có bờ xe nước đêm ngày thổn thức cạnh luỹ đằng ngà râm mát quanh năm. Nhưng đáng tiếc, những nét đẹp ấy đã sớm bị lu mờ bởi những tranh chấp nghiệt ngã và định kiến nhỏ nhen của những con người thiệt thòi cả về tư duy lẫn ý thức hệ. Điều đó cũng dễ hiểu và dường như là hiện tượng tất yếu sau lưng một cuộc cách mạng vô sản. Một số nước khác trên thế giới cũng từng trãi qua hoàn cảnh tuơng tự như thế, rồi họ thay đổi. Cho nên mỗi lần về đó thắp hương, mình vẫn thương cái nơi chốn ấy. Cầu mong ngày mỗi thông thoáng, tốt đẹp hơn !
Với quê Ngoại thì khác, mình thuộc cả từng cái mương cái hào, bờ tre khóm dứa. Từng phiên chợ chiều, từng ngôi chùa làng, từng mái đình lối xóm. Từng khu gò mả, từng cái chòi canh, từng ao sen bàu cá. Những con đường thân thuộc mỗi ngày Ba La, Vạn tượng, Quán láng, Thu Xà, Tân Mỹ, Phổ An, Hiền Lương, Khánh Lạc, Sung Túc, Hàm Long, Hổ tíu, Phú Thọ .... Đâu đâu cũng có một cái gì còn lại để nhớ để thương. Ngôi nhà Ngoại mà mình đã sống và lớn lên từ nhỏ cũng đã bị đốt cháy, nhưng quả nhiên cái ký ức tuổi thơ vẫn còn mãi mãi .....không ai thiêu rụi được !
Và về quê, thì cũng chỉ cần có thế là đủ. Lần nào cũng vậy, sau khi thắp hương cúng giỗ cho ông bà xong, mình mượn chiếc xe máy chạy một vòng những nơi chốn cũ quen thuộc. Vẫn thế, vẫn nghèo nàn, vẫn thân thuộc, vẫn một mùi lúa rạ, mùi phân bò phân trâu, cỏ rác, khói đốt .... nhưng mà vẫn mê vẫn thích mới lạ. Đôi khi nhớ đến TCS .... "Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy. Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày xưa ...", rồi lại phì cười một mình. Có lẽ rồi ai ai cũng có một "đường chạy vòng quanh" cho cuộc đời mình, còn vòng quanh đó lớn hay nhỏ lại là chuyện khác :-).
Một người bạn thân thường cứ thắc mắc " ...Sao những người bà con ở gần đấy không làm chuyện mồ mả, mà mày xa xôi thế cứ nhất định phải về ?". Thực ra thì mình cũng chưa bao giờ trả lời cho bạn ấy. Câu hỏi của bạn mình thuộc về vấn đề trách nhiệm và nghĩa vụ. Còn đối với mình, việc chăm sóc mồ mả thờ cúng ông bà, chưa bao giờ là trách nhiệm hoặc nghĩa vụ, mà chủ yếu là vì nhu cầu bản thân. Như một bản năng cần thiết, như con cá hồi có nhu cầu trở về chốn cũ, như con cá thài bai cứ lội ngược giòng trở về cố hương, như một đứa con thèm được một cảm giác gần gũi thương yêu che chở bên cạnh cha mẹ ông bà. Mình từ nhỏ sống với ông bà Ngoại, nên cảm giác thân thuộc đó trở thành một nhu cầu cần thiết. Bởi thế mình ít quan tâm người khác có làm nghĩa vụ ông bà hay không. Nếu có, thì mình vẫn cứ về. Về chỉ để được ngồi cạnh ngôi mộ ông bà ấm áp. Về để được chạy xe máy vòng vòng trên những lối rẽ ngày xưa. Đôi khi không có thời gian, vội vã về vội vã đi, như lần mới vừa rồi cũng vậy, thế mà cứ thích.
Nhưng về quê mà không nói đến con sông quê thì cũng là điều thiếu sót. Nhớ có ai đó đã nói "...trong mỗi con người VN đều có một giòng sông ...". Có lẽ đúng thiệt. Mỗi người VN hình như luôn mang trong mình một giòng sông nào đó. Cho dù có lỡ bồi dâu bể, gương trong soi tóc, hay xuôi ngược lục bình, thì vẫn cứ lững lờ theo suốt hành trình tháng năm của họ. Nên lần nào về quê, dù gấp gáp thế nào cũng ráng ra bờ sông ngồi chút. Con sông bây giờ khác lắm so với con sông ngày xưa ở thời niên thiếu của mình, nhưng vẫn cứ là một hoài niệm bất tử. Mà ngộ, mỗi lúc được im lặng ngồi nhìn giòng sông quê lững lờ, mình cứ nghĩ lung tung về câu chuyện Siddhartha (Tất Đạt) gặp người lái đò Vasudeva (Vệ Sử) trong "Câu chuyện giòng sông" của Hermann Hesse. Một trong những câu chuyện sâu sắc nhất mà mình được đọc ngày xưa. Họ gặp nhau, rồi cả hai cùng làm việc của những người đưa đò và sống trong bình yên và an phận. Họ cùng lắng nghe rất nhiều âm thanh của giòng sông mà ngộ ra nhiều thứ cần thiết trong cuộc sống. Còn mình thì quả nhiên là phàm phu tục tử, ngồi đó hoài chẳng ngộ ra điều gì hay ho. Uống vài ly rượu, vài chai bia, tào lao thiên địa với mấy ông bạn già, rồi lại bỏ đi, hẹn lần sau .....:-) .
Thursday, March 22, 2018
Re-post: Tản mạn cuối năm (1)
Người VN mình bao đời nay vốn quen thuộc với cuộc sống lưu lạc. Chiến tranh, lưu đày, di trú, sinh nhai ... làm cho họ hội nhập & quen dần với những vùng đất mới, kể cả món ăn, ngữ điệu, và phong tục văn hoá địa phương. Đến ngày nay văn hoá ẩm thực phong phú đa dạng, ba ngày tết, kẻ nấu người ăn, món ngon vật lạ, đôi khi chẳng biết xuất xứ tận phương nào. Mà thật ra cũng chẳng cần phải biết !
Nhà mình ở tận vùng cao nguyên nghèo, hẻo lánh. Ở đó người Kinh, người dân tộc, người gốc bắc, trung, nam, đều có đủ. Quanh năm lam lũ, dành dụm cho mấy ngày xuân. Tết về, la cà từ nhà này sang nhà nọ, bạn bè rủ nhau nhậu nhẹt, có gì đãi nấy, cứ thế mà mần. Có khi về đến nhà lại quên mất đã ăn qua món gì. Từ gỏi tré, thịt đông giò thủ, giò bò chả lụa, dưa món củ kiệu, thịt kho hột vịt, giò nấu măng, ba rọi thả mắm ... cho đến khô cá dứa, cá trám kho riềng, cá kèo khô nướng ... đủ món vùng miền, cholesterol các loại. Rượu thì cũng thế, từ vang Đà lạt cho đến rượu dâu tằm, từ bia nội đến bia ngoại, từ rượu đế đến rượu tây, không uống không được. Miền núi vào tiết xuân, trời se lạnh, mưa phùn, sương mù giăng rắc. Chậu mai, cành đào, lan rừng, lan đất, hoa huệ, hoa hồng, thược dược, lay ơn, cúc vàng, cúc tím ... sắc màu rực rỡ. Những phiên chợ cuối năm ở nơi đây luôn làm rạo rực lòng người, ngay cả những thời kỳ đất nước nghèo đói nhất.
Mình lúc nào về nhà, qua đèo Chuối đến đèo BL, cũng ngừng lại la cà hàng giờ, uống cafe ngắm rừng ngắm suối, ăn trái cây. Tuỳ mùa, có khi măng cụt, có khi sầu riêng, có khi chôm chôm, có khi mít tố nữ ... Dân vườn không biết cách chưng bày, nhìn không được đẹp mắt như Bến Thành, Hàm Nghi, nhưng toàn là cây nhà lá vườn, mới hái. Có một món mình thường mua đem về là măng rừng lồ ồ, đặc sản núi rừng. Lúc trước người dân tộc còn gùi ra bán, giờ cũng thưa dần, chỉ còn lại nhiều là măng mạnh tông. Măng khô ở đây cũng rất ngon, mua về hầm giò ăn tết. Bây giờ trên đèo còn có cả nhà hàng cơm lam rau rừng, nhưng cái hương rừng thực sự thì đã bay xa ...
Mấy năm gần đây, đường sá được sửa lại khang trang hơn, đường về nhà tưởng chừng như ngắn lại. Cuối năm lên đèo, cũng ngừng lại như mọi lần. Nhưng những thứ quen thuộc ngày xưa cũng bắt đầu xách gói ra đi. Người du lịch qua lại mua bán ngày càng nhiều, và cái chân thực hồn nhiên của người nhà vườn, của người dân tộc, cũng dần dần thay đổi. Thưa dần những nhánh mai rừng, những giò phong lan bụi bặm, những túi mật ong còn nguyên xác nhộng... Nhưng chuyện đổi thay âu cũng lẽ thường tình !
Tết năm nào về đây cũng thấy lòng mình lãng đãng, thích đi lang lang & nhớ mơ hồ về những điều đã cũ, đã xa. Mới hiểu cụ Vũ đình Liên... hồn ở đâu bây giờ ? Qua Đại Lào nhìn về Phương Bối Am, không biết "Sơn Núi" có còn ở đó ? Nhớ những đam mê một thời "Nẻo về của Ý", "Đường xưa mây trắng"... giờ cũng phai dần theo năm tháng. Nhớ Đại Bình, nhớ giòng Đạ Bin cần mẫn chảy qua núi Spung. Nhớ Dambri có còn những chiếc cầu vồng mịt mờ bụi nước ? Nhớ tiếng chuông Bát Nhã văng vẳng trên đồi mà thưở nào đã hàng giờ ngồi mơ mộng "Hồn bướm mơ tiên " ? Quanh bờ hồ, Viseri và màu sơn mới, những quán cafe sập sình mới mọc. Ngang qua trường Nông lâm súc B'lao, bất chợt đâu đó những khóm hoa vàng, giấy đỏ, giấy trắng, bỗng nghĩ về Trịnh Công Sơn với cao nguyên bụi đỏ sương mù ....
Mà suy cho cùng, về quê ăn tết, cùng chỉ là như vậy. Gặp gỡ bè bạn gia đình, ăn lại món xưa, đi lại chốn cũ, mơ màng chuyện đã qua... rồi lại đi. Cho dù to lớn đến đâu khi về với gia đình cha mẹ, rồi cũng thấy mình non nớt, nhỏ bé như hôm nào. Vẫn ước mơ những điều đơn giản, và vẫn thèm từng món của Mẹ, Ngoại, nấu ngày xưa !
Nhà mình ở tận vùng cao nguyên nghèo, hẻo lánh. Ở đó người Kinh, người dân tộc, người gốc bắc, trung, nam, đều có đủ. Quanh năm lam lũ, dành dụm cho mấy ngày xuân. Tết về, la cà từ nhà này sang nhà nọ, bạn bè rủ nhau nhậu nhẹt, có gì đãi nấy, cứ thế mà mần. Có khi về đến nhà lại quên mất đã ăn qua món gì. Từ gỏi tré, thịt đông giò thủ, giò bò chả lụa, dưa món củ kiệu, thịt kho hột vịt, giò nấu măng, ba rọi thả mắm ... cho đến khô cá dứa, cá trám kho riềng, cá kèo khô nướng ... đủ món vùng miền, cholesterol các loại. Rượu thì cũng thế, từ vang Đà lạt cho đến rượu dâu tằm, từ bia nội đến bia ngoại, từ rượu đế đến rượu tây, không uống không được. Miền núi vào tiết xuân, trời se lạnh, mưa phùn, sương mù giăng rắc. Chậu mai, cành đào, lan rừng, lan đất, hoa huệ, hoa hồng, thược dược, lay ơn, cúc vàng, cúc tím ... sắc màu rực rỡ. Những phiên chợ cuối năm ở nơi đây luôn làm rạo rực lòng người, ngay cả những thời kỳ đất nước nghèo đói nhất.
Mình lúc nào về nhà, qua đèo Chuối đến đèo BL, cũng ngừng lại la cà hàng giờ, uống cafe ngắm rừng ngắm suối, ăn trái cây. Tuỳ mùa, có khi măng cụt, có khi sầu riêng, có khi chôm chôm, có khi mít tố nữ ... Dân vườn không biết cách chưng bày, nhìn không được đẹp mắt như Bến Thành, Hàm Nghi, nhưng toàn là cây nhà lá vườn, mới hái. Có một món mình thường mua đem về là măng rừng lồ ồ, đặc sản núi rừng. Lúc trước người dân tộc còn gùi ra bán, giờ cũng thưa dần, chỉ còn lại nhiều là măng mạnh tông. Măng khô ở đây cũng rất ngon, mua về hầm giò ăn tết. Bây giờ trên đèo còn có cả nhà hàng cơm lam rau rừng, nhưng cái hương rừng thực sự thì đã bay xa ...
Mấy năm gần đây, đường sá được sửa lại khang trang hơn, đường về nhà tưởng chừng như ngắn lại. Cuối năm lên đèo, cũng ngừng lại như mọi lần. Nhưng những thứ quen thuộc ngày xưa cũng bắt đầu xách gói ra đi. Người du lịch qua lại mua bán ngày càng nhiều, và cái chân thực hồn nhiên của người nhà vườn, của người dân tộc, cũng dần dần thay đổi. Thưa dần những nhánh mai rừng, những giò phong lan bụi bặm, những túi mật ong còn nguyên xác nhộng... Nhưng chuyện đổi thay âu cũng lẽ thường tình !
Tết năm nào về đây cũng thấy lòng mình lãng đãng, thích đi lang lang & nhớ mơ hồ về những điều đã cũ, đã xa. Mới hiểu cụ Vũ đình Liên... hồn ở đâu bây giờ ? Qua Đại Lào nhìn về Phương Bối Am, không biết "Sơn Núi" có còn ở đó ? Nhớ những đam mê một thời "Nẻo về của Ý", "Đường xưa mây trắng"... giờ cũng phai dần theo năm tháng. Nhớ Đại Bình, nhớ giòng Đạ Bin cần mẫn chảy qua núi Spung. Nhớ Dambri có còn những chiếc cầu vồng mịt mờ bụi nước ? Nhớ tiếng chuông Bát Nhã văng vẳng trên đồi mà thưở nào đã hàng giờ ngồi mơ mộng "Hồn bướm mơ tiên " ? Quanh bờ hồ, Viseri và màu sơn mới, những quán cafe sập sình mới mọc. Ngang qua trường Nông lâm súc B'lao, bất chợt đâu đó những khóm hoa vàng, giấy đỏ, giấy trắng, bỗng nghĩ về Trịnh Công Sơn với cao nguyên bụi đỏ sương mù ....
Mà suy cho cùng, về quê ăn tết, cùng chỉ là như vậy. Gặp gỡ bè bạn gia đình, ăn lại món xưa, đi lại chốn cũ, mơ màng chuyện đã qua... rồi lại đi. Cho dù to lớn đến đâu khi về với gia đình cha mẹ, rồi cũng thấy mình non nớt, nhỏ bé như hôm nào. Vẫn ước mơ những điều đơn giản, và vẫn thèm từng món của Mẹ, Ngoại, nấu ngày xưa !
Wednesday, March 21, 2018
Chuyện đời thường ...
(Hình của hai mẹ con Jane & Jenny được anh T chụp hôm cuối tuần rồi, tháng 3/2018)
Khi nhận Jane về, nghe người cho nói rằng Jane đã qua một đợt chích ngừa ban đầu, nên mình cũng chưa cần đem lại bác sĩ thú y ngay, mà đợi cô nàng lớn lên chút nữa. Mấy tuần sau, bỗng nhiên Jane ngã bịnh nặng, sốt, không ăn uống. Mình vội chở Jane đi bác sĩ bằng xe máy. Đặt trong chiếc giỏ để phía dưới chân xe tay ga, chạy gấp đến phòng mạch BS. Không hiểu lý do gì, mình đang lái xe, thì cô nàng dọt ra ngoài giỏ . Đầu của Jane (lúc đó khoảng 2-3 tháng tuổi) đập mạnh xuống lòng đường, may là những chiếc xe sau né được. Nó nằm ngay đơ, thoi thóp. Mình vội gởi xe lại, đón taxi, ôm nó vào lòng, đem qua nhà ông anh (anh T), nhờ gọi BS thú y đến coi gấp. Anh T nuôi nhiều chó, nên có ông BS thú y ruột, giỏi, thường xuyên chăm sóc, gọi đến ngay.
Ông BS đến khám Jane rất cẩn thận, rồi nói cho mình và anh T, nên tiêm muỗi thuốc cho Jane đi nhẹ nhàng, vì sẽ không thể nào cứu nỗi chú cún đáng thương này. Lúc đó nghe thấy rất đau lòng. Vừa cảm giác bất lực, vừa cảm giác tội lỗi, vì đã không bảo vệ được một sinh mạng nhỏ bé. Vợ chồng anh T thì nói thôi "còn nước còn tát", không chích thuốc, cứ để anh chị nuôi cho đến ngày Jane mất.
Muôn vàn khó khăn để nuôi một cô chó con bị chấn thương sọ não, không mở miệng, không nhai ăn được, lại bị dịch bịnh nặng nề. Cứ vài giờ, phải bơm thức ăn dinh dưỡng và nước vào miệng. Ban ngày đã khó, ban đêm lại càng khó hơn. Hàng đêm vợ chồng anh T thay phiên nhau thức dậy chăm sóc, nửa đêm vài lần, 2-3 giờ sáng. Dạo đó anh chị T có đứa con dâu đang sinh nở. Hôm nào con dâu của anh chị T cũng dành chút sữa Mẹ cho Jane để có thêm dinh dưỡng. Và cứ thế, thức đêm thức hôm, chăm sóc từng ly từng tí như thế mỗi ngày, sữa thuốc đủ loại. Như một phép nhiệm màu, vài tháng sau, Jane khỏi bệnh, cứng cáp, và đứng lên đi lại được. Tuy nhiên, di chứng của chấn thương sọ não, vẫn không chữa được. Jane đi đứng không bình thường, chốc lát lại quay vòng vòng, đập đầu xuống đất. Anh T nhờ người thiết kế cái loa cổ đeo vào, để chống va đập sọ đầu, và tiếp tục chăm sóc tiếp.
Rồi thời gian qua đi, công việc bận rộn, thỉnh thoảng mình ghé thăm anh chị T, thấy Jane vẫn sống, vẫn khoẻ mạnh, vẫn bị động kinh thường xuyên. Thấy thương nhưng cũng chẳng biết làm sao hơn. Cảm ơn anh chị T đã dày công chăm sóc Jane. Ông BS thú y thì cứ vẫn không tin điều đó là sự thật.
Một hôm anh T. gọi báo tin cho mình là Jane vừa hạ sinh được một cô con gái, anh đặt tên Jenny. Mình vô cùng ngạc nhiên, chở thằng con, chạy qua coi ngay. Cô bé con lông màu nâu, đẹp giống Mẹ như đúc. Mình cứ nghĩ như là một thứ nhiệm màu, nhưng lại lo lắng cho vấn đề khả năng làm mẹ của Jane, nuôi nấng và bảo vệ được cho con. Ai dè, chính Jane, một con chó tật nguyền, được sống sót, bị động kinh liên tục, lại là người Mẹ nuôi con giỏi nhất. Nó bảo vệ con rất tốt, và chăm sóc Jenny còn tốt hơn bao nhiêu con chó bình thường khác. Hai mẹ con quấn qúit bên nhau mà sống, vui vẻ mà tồn tại, mà trưởng thành mỗi ngày. Mỗi lúc nhìn thấy hai mẹ con bên nhau, một hình ảnh rất dễ thương và vô cùng cảm động !
Hết thời gian làm việc tại VN, mình về lại Mỹ. Lâu lâu về VN, ghé thăm anh chị T, vẫn thấy mẹ con Jane và Jenny mạnh khoẻ, chạy nhảy vui đùa. Đã mười năm qua đi, cả hai mẹ con đều già đi, nhưng vẫn thương yêu, gắn bó nhau mà sống như xưa.
Gần đây anh chị T dọn về một ngôi nhà, đầy hoa và yên tĩnh. Phía trước là một giòng sông, chung quanh nhà và lối đi nhiều loại hoa, đủ màu đủ sắc, chim chóc hót líu lo cả ngày. Anh T. vẫn làm công việc cho chim ăn mỗi ngày, và dọn dẹp rác trên sông, làm sạch môi trường, làm sạch đường đi. Hàng ngày, ngàn ngàn con chim trời kéo về đó ăn uống rồi bay đi, líu lo ca hát. Mỗi tháng anh phải mua cả mấy tạ lúa cho chim ăn. Lo lắng chim bay đụng cửa kiếng chết, mua giấy màu về, nghiên cứu tỉ mỉ dán ..... Mẹ con Jane & Jenny cũng được đưa về đó, rộng rãi thoáng mát hơn. Vẫn mạnh khoẻ, và thương yêu nhau như ngày nào.
Đôi lúc mình vẫn thường nghĩ về cái nhân đức của con người đời thường. Sẽ không thể nào dựa vào cái nhìn bên ngoài, hoặc những lời nói ngọt ngào bóng bẩy, những cái "tâm, tầm" luôn đưọc kể lể, mà khẳng định được điều gì. Ví dụ như nhìn cái ngoại hình dữ dằn của anh T, đâu có ai thấy được một trái tim nhân hậu núp đằng sau ấy. Nhưng cuộc sống này vốn là thế, không có ai hoàn hảo cả, có người làm tốt chuyện này, nhưng chưa làm tốt chuyện khác. Quý nhau là ở cái tâm hồn của họ. Nên lâu lâu nhìn thấy mấy ông quan chức, trọc phú, mệnh phụ .... phóng sinh cầu phước, trồng cây, làm thiện, chụp hình đưa tin, mình cũng hy vọng một ngày nào đó họ làm thiện với cái tâm thực sự của mình, có lẽ cuộc sống được an vui tự tại hơn.
Mình cũng có bạn bè và quen biết nhiều người thành công trong cuộc sống (đa phần là về mặt vật chất), nhưng một số ít lại thích hơn thua nhau. Vô tình hay cố ý, họ so đo quá nhiều trong cuộc sống, ít chịu hy sinh cho người khác, huống hồ là cho những con vật, cỏ cây vô thức. Mình thực sự không biết sự so đo, hơn thua đấy, có đem lại hạnh phúc gì cho họ không ? Nhưng mình vẫn luôn nghĩ rằng hạnh phúc là những gì mình đang làm chứ không phải là cái đích để đến. Mỗi ngày thấy nhẹ nhàng hơn, tha thứ hơn, ít câu nệ hơn, làm nhiều việc có ý nghĩa hơn, thì đã là hạnh phúc rồi. Trong Đạo cũng có nói khi giúp đỡ người khác hay làm việc tốt, thực ra là đang giúp đỡ chính mình, nên cũng chẳng cần ai đáp trả. Có lẽ đó mới là cái gốc của sự an lạc vậy !
Wednesday, March 14, 2018
Saturday, February 24, 2018
Phiếm: Quê ta hay hát
Hồi xưa mình chỉ biết dân xứ Quảng thích thơ. Mà đúng vậy, có lẽ Quảng Nam, Quảng Ngãi là những tỉnh có nhiều nhà thơ nhất nước. Nên mỗi lúc nghe người ta nói "Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co", mình cứ nghĩ nếu co cãi vì thơ, thì cũng thú vị chứ sao nê :-). Đã có lúc mình định về quê mở quán nhậu cho khách thơ, giống quán 81 ở SG, nhưng ước mơ chưa thực hiện được, thì bây giờ quê mình đã chuyển sang hát. Đâu đâu cũng hát. Từ karaoke cho đến "hát với nhau", từ chương trình sân khấu cho đến hội thi nội bộ. Từ làng karaoke, tụ điểm, phòng trà, quán cóc, khu phố, cho đến tư gia. Từ thành thị cho đến nông thôn, từ vùng biển cho đến miền núi, vùng sâu vùng xa... đâu đâu cũng nghe tiếng hát, giọng ca. Tết nhất, lễ lộc, thôi nôi, đầy tháng, tất niên ... nhiều nhà nhiều xóm còn mướn cả băng nhạc về hát, chỉa loa kẹo kéo qua nhà hàng xóm bắt nghe. Cũng là có ý tốt giúp láng giềng thử thính lực và rèn luyện đức tính kiên nhẫn. Mà phải công nhận là quê ta nhiều người hát hay. Khi hát thì cái chất giọng miền Trung của con trai ấm hẳn ra, con gái thì mượt mà trong suốt, nhún nhẩy điệu đà. Cái ngữ âm lúc bình thường nói khó nghe, nhưng khi hát tự nhiên bay mất. Nên đôi khi yêu cầu họ hát giọng Quảng chính gốc, còn khó khăn hơn.
Mình lần nào về quê mà có dịp ngồi lai rai với bạn bè, thì cũng có chút văn nghệ văn gừng. Kiếm cái đờn guitar, rồi thì tha hồ mà QN nhớ thương, QN anh hùng... Cái món đặc sản đờn ca tài tử trong bàn nhậu của dân miền Tây giờ mất độc quyền rồi. Quê mình miền Trung cũng dữ dằn không kém. Mà thời buổi này muốn nghe đờn ca tài tử cũng không cần về đến miền Tây. Nhiều ông bạn mình ở SG cứ hát "Đã bao lâu rồi không về miền Trung thăm miền Tây". Mà về tới rồi thì cứ hát. Không hát tăng một, thì cũng hát tăng hai, có khi còn hát cả tăng ba. "Hát ngày chưa đủ, tranh thủ hát đêm, lại thêm tròng bóng !". Nhiều bạn luyện sẵn dăm ba bài tủ (bài ruột), đến hẹn lại lên, cứ thế mà hát. Hát hoài, thành thương hiệu riêng như .... anh T "Đời tôi cô đơn", chị H "bolero", ông N "Lá ngọc cành vàng", thằng C "Riêng một góc trời" ..vv. Có lần đi ăn tiệc, nghe nói bạn kia tới nơi, đã có người lỡ hát bài ruột của hắn trước rồi, thế là tức giận bỏ về. Mình tính chạy theo năn nỉ kêu lại mà không kịp. Còn chuyện hát hay dở thì không dám bàn ở đây, trầm bổng bất thường cũng là chuyện hên xui. Bạn bè thì có đứa hát hay, có đứa hay hát. Có đứa ban đầu thì e lệ mắc cỡ, nhưng hát qua vài bài, xin nó nhường lại cái mic cũng khó. Có đứa lỡ lên sân khấu rồi, còn lâu mới chịu xuống, hát miệt hát mài, chỉ có cách cúp điện, hoặc nhờ bảo vệ kéo xuống. Nghe nói ở quê có nhiều vụ đánh lộn, hàng xóm bất hoà, cũng vì tranh nhau mà hát. Mấy đứa đi xa như mình, lâu lâu về quê luôn được bạn bè tặng những bài xứ Quảng, đầy tình cảm. Có bài mình được tặng đến cả vài chục lần. Còn đi xe lửa thì mới vô địa phận Sa Huỳnh là đã nghe "...anh từng nói với em về QN ...Ba Tơ, Sơn Mỹ, ghi sâu nợ máu không nhoà...". Đi máy bay thì vô ga Chu Lai đã nghe "...các anh về đây quê hương chào đón ...núi Ấn sông Trà mai này sẽ nở hoa..". Máu lửa và hứa hẹn !
Mà không phải chỉ dân quê ta ở trong nước mới thích hát nghen. Đi đây đi đó, vô SG ra Hà nội, ra đến nước ngoài cũng thế. Cứ cafe thì có nhạc nghe, cứ bàn nhậu thì có nhạc hát. Nhiều nhà còn tậu cả dàn karaoke bên VN đem ra nước ngoài, cập nhật nhạc vàng, nhạc đỏ, đủ loại. Tối hát, cuối tuần hát, tiệc hát, nhậu hát .... Hàng xóm Tây, Mỹ gì lần hồi rồi cũng phải biết cái văn hoá hay hát của dân ta.
Hát riết đâm ghiền. Mình quen biết nhiều ông anh, bạn bè, ở nước ngoài, cứ mong ngóng về quê để được đi hát. Mấy đứa bạn quen ở SG cũng vậy, lâu lâu xin vợ về quê, để nhậu rồi hát. Hát hay không bằng hay hát. Nhưng có đứa bao nhiêu năm cũng vẫn một vài bài tủ, không ai dám xâm phạm đến chủ quyền lãnh thổ của nó. Còn có đứa lâu lâu gặp lại, hát hay nghe đến ngỡ ngàng. Mình thuộc loại khô khan, mà đôi khi nghe lòng còn muốn tái tê, huống chi là mấy cô gái thích thơ yêu nhạc. Nhiều anh ở xa về quê, chạy làm tô don cái bánh tráng, hay dĩa bê thui, rồi đi hát. Chiều về làm dĩa ram nướng hay mấy cái bánh xèo, rồi đi hát. Sáng xuống Mỹ Khê tắm biển, làm mấy chén bánh bèo hay tô cháo, rồi đi hát. Ai khen thì vui chóng, ai chê thì giận lâu. Hát riết cũng đâm ghiền, mà nghe riết cũng quen tai. Như mình bây giờ về quê lúc nào cũng thủ sẵn cái album "QN nhớ thương" của cô ca sĩ Quảng ...Ninh. Không ai hát, thì mình cũng tự nghe :-).
Mà dân quê ta hát nhạc cũng chọn lọc kỹ càng, đôi khi còn có chút kỳ thị. Có khi bạn bè chơi chung, cũng lựa người cùng gu nhạc mới thân nhau. Nào là gu nhạc sến, nhạc sang, nhạc mùi, nhạc thính phòng, nhạc Pháp, nhạc Mỹ, nhạc Tàu, nhạc Tây Ban Nha, đủ loại. Từ Abba, Eagles, Beatles, Bolero, Slow, Rock, Pop ...cho đến Classic, New Wave, New Age ... Thế hệ lớn chút thì chơi nhạc tiền chiến, nhạc ngoại thập niên 60,70. Trẻ hơn chút thì Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương, Vũ Thành Anh, Lam Phương, Anh Bằng, Nhật Ngân... Trẻ nữa thì Phú Quang, Thanh Tùng, Trần Tiến, Diệu Hương ... Và dĩ nhiên là không quên các nhạc sĩ quê nhà, cây nhà lá vườn như Trương Quang Lục, Đình Thậm, Thế Bảo, Hà Chương, Nguyễn Tuấn, Phạm Đăng Khương, Vân Đông, Dương Quang Hùng, Đông Sơn, Trần xuân Tiến, Trần xuân Tiên ...nhiều, nhiều lắm. Đó là chưa kể nhiều bài nhạc tự biên tự diễn, cứ có thơ là có nhạc. Mà riêng về cái khoảng thi sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, võ sĩ, thì quê mình phong phú nhất :-).
Mình thì chả có gu nhạc gì, cứ ai hát hay thì mình nghe. Mà cũng lạ, hồi trẻ thích nghe đủ thứ, đủ loại nhạc. Bây giờ tóc muối tiêu, mỗi khi về quê lại thích nghe bolero. Có nhiều đứa bạn uống vài chai bia vô, hát "..giọt lệ đài trang, những đồi hoa sim, đôi mắt người xưa ...", nghe lâm ly, mùi mẫn, đứt ruột đứt gan, chịu không thấu. Nhiều người chê nhạc Bolero là dòng nhac bình dân, nhạc sến. Nhưng bây giờ mình lại thấy dễ nghe, hợp tâm trạng mấy đứa bạn già. Hôm rồi coi báo QN, thấy có đăng chuyện "Không ít những cặp đôi trí thức 70, 80 tuổi tối hằng tuần vẫn đèo nhau đến các tụ điểm để nghe và hát nhạc “sến” trong đó có bolero". Mình nghĩ nghe nhạc mà phân biệt trí thức, trí ngủ gì ở đây. Bảy, tám chục tuổi mà còn đèo nhau được là bảnh rồi, sá gì nhạc sang, nhạc sến. Nhạc nào đi vào lòng người dễ dàng, thì họ nghe thôi. Ai cũng có quyền bình đẳng thưởng thức cái hay và sống với cảm xúc của họ. Âm nhạc là thế. Đừng quên, đa số những nhạc sĩ, ca sĩ, nổi tiếng trên thế giới đều không thuộc về giới "trí thức". Ngay cả việc đi nghe nhạc, mà cũng phân biệt giới cấp, thì ông nhà báo đó phải coi lại quan niệm của mình. Cũng có khi vì nhiều người quan niệm như thế, nên nước nhà đang bị lạm phát "trí thức", tiến sĩ, giáo sư ... :-)
Mình lần nào về quê mà có dịp ngồi lai rai với bạn bè, thì cũng có chút văn nghệ văn gừng. Kiếm cái đờn guitar, rồi thì tha hồ mà QN nhớ thương, QN anh hùng... Cái món đặc sản đờn ca tài tử trong bàn nhậu của dân miền Tây giờ mất độc quyền rồi. Quê mình miền Trung cũng dữ dằn không kém. Mà thời buổi này muốn nghe đờn ca tài tử cũng không cần về đến miền Tây. Nhiều ông bạn mình ở SG cứ hát "Đã bao lâu rồi không về miền Trung thăm miền Tây". Mà về tới rồi thì cứ hát. Không hát tăng một, thì cũng hát tăng hai, có khi còn hát cả tăng ba. "Hát ngày chưa đủ, tranh thủ hát đêm, lại thêm tròng bóng !". Nhiều bạn luyện sẵn dăm ba bài tủ (bài ruột), đến hẹn lại lên, cứ thế mà hát. Hát hoài, thành thương hiệu riêng như .... anh T "Đời tôi cô đơn", chị H "bolero", ông N "Lá ngọc cành vàng", thằng C "Riêng một góc trời" ..vv. Có lần đi ăn tiệc, nghe nói bạn kia tới nơi, đã có người lỡ hát bài ruột của hắn trước rồi, thế là tức giận bỏ về. Mình tính chạy theo năn nỉ kêu lại mà không kịp. Còn chuyện hát hay dở thì không dám bàn ở đây, trầm bổng bất thường cũng là chuyện hên xui. Bạn bè thì có đứa hát hay, có đứa hay hát. Có đứa ban đầu thì e lệ mắc cỡ, nhưng hát qua vài bài, xin nó nhường lại cái mic cũng khó. Có đứa lỡ lên sân khấu rồi, còn lâu mới chịu xuống, hát miệt hát mài, chỉ có cách cúp điện, hoặc nhờ bảo vệ kéo xuống. Nghe nói ở quê có nhiều vụ đánh lộn, hàng xóm bất hoà, cũng vì tranh nhau mà hát. Mấy đứa đi xa như mình, lâu lâu về quê luôn được bạn bè tặng những bài xứ Quảng, đầy tình cảm. Có bài mình được tặng đến cả vài chục lần. Còn đi xe lửa thì mới vô địa phận Sa Huỳnh là đã nghe "...anh từng nói với em về QN ...Ba Tơ, Sơn Mỹ, ghi sâu nợ máu không nhoà...". Đi máy bay thì vô ga Chu Lai đã nghe "...các anh về đây quê hương chào đón ...núi Ấn sông Trà mai này sẽ nở hoa..". Máu lửa và hứa hẹn !
Mà không phải chỉ dân quê ta ở trong nước mới thích hát nghen. Đi đây đi đó, vô SG ra Hà nội, ra đến nước ngoài cũng thế. Cứ cafe thì có nhạc nghe, cứ bàn nhậu thì có nhạc hát. Nhiều nhà còn tậu cả dàn karaoke bên VN đem ra nước ngoài, cập nhật nhạc vàng, nhạc đỏ, đủ loại. Tối hát, cuối tuần hát, tiệc hát, nhậu hát .... Hàng xóm Tây, Mỹ gì lần hồi rồi cũng phải biết cái văn hoá hay hát của dân ta.
Hát riết đâm ghiền. Mình quen biết nhiều ông anh, bạn bè, ở nước ngoài, cứ mong ngóng về quê để được đi hát. Mấy đứa bạn quen ở SG cũng vậy, lâu lâu xin vợ về quê, để nhậu rồi hát. Hát hay không bằng hay hát. Nhưng có đứa bao nhiêu năm cũng vẫn một vài bài tủ, không ai dám xâm phạm đến chủ quyền lãnh thổ của nó. Còn có đứa lâu lâu gặp lại, hát hay nghe đến ngỡ ngàng. Mình thuộc loại khô khan, mà đôi khi nghe lòng còn muốn tái tê, huống chi là mấy cô gái thích thơ yêu nhạc. Nhiều anh ở xa về quê, chạy làm tô don cái bánh tráng, hay dĩa bê thui, rồi đi hát. Chiều về làm dĩa ram nướng hay mấy cái bánh xèo, rồi đi hát. Sáng xuống Mỹ Khê tắm biển, làm mấy chén bánh bèo hay tô cháo, rồi đi hát. Ai khen thì vui chóng, ai chê thì giận lâu. Hát riết cũng đâm ghiền, mà nghe riết cũng quen tai. Như mình bây giờ về quê lúc nào cũng thủ sẵn cái album "QN nhớ thương" của cô ca sĩ Quảng ...Ninh. Không ai hát, thì mình cũng tự nghe :-).
Mà dân quê ta hát nhạc cũng chọn lọc kỹ càng, đôi khi còn có chút kỳ thị. Có khi bạn bè chơi chung, cũng lựa người cùng gu nhạc mới thân nhau. Nào là gu nhạc sến, nhạc sang, nhạc mùi, nhạc thính phòng, nhạc Pháp, nhạc Mỹ, nhạc Tàu, nhạc Tây Ban Nha, đủ loại. Từ Abba, Eagles, Beatles, Bolero, Slow, Rock, Pop ...cho đến Classic, New Wave, New Age ... Thế hệ lớn chút thì chơi nhạc tiền chiến, nhạc ngoại thập niên 60,70. Trẻ hơn chút thì Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương, Vũ Thành Anh, Lam Phương, Anh Bằng, Nhật Ngân... Trẻ nữa thì Phú Quang, Thanh Tùng, Trần Tiến, Diệu Hương ... Và dĩ nhiên là không quên các nhạc sĩ quê nhà, cây nhà lá vườn như Trương Quang Lục, Đình Thậm, Thế Bảo, Hà Chương, Nguyễn Tuấn, Phạm Đăng Khương, Vân Đông, Dương Quang Hùng, Đông Sơn, Trần xuân Tiến, Trần xuân Tiên ...nhiều, nhiều lắm. Đó là chưa kể nhiều bài nhạc tự biên tự diễn, cứ có thơ là có nhạc. Mà riêng về cái khoảng thi sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, võ sĩ, thì quê mình phong phú nhất :-).
Mình thì chả có gu nhạc gì, cứ ai hát hay thì mình nghe. Mà cũng lạ, hồi trẻ thích nghe đủ thứ, đủ loại nhạc. Bây giờ tóc muối tiêu, mỗi khi về quê lại thích nghe bolero. Có nhiều đứa bạn uống vài chai bia vô, hát "..giọt lệ đài trang, những đồi hoa sim, đôi mắt người xưa ...", nghe lâm ly, mùi mẫn, đứt ruột đứt gan, chịu không thấu. Nhiều người chê nhạc Bolero là dòng nhac bình dân, nhạc sến. Nhưng bây giờ mình lại thấy dễ nghe, hợp tâm trạng mấy đứa bạn già. Hôm rồi coi báo QN, thấy có đăng chuyện "Không ít những cặp đôi trí thức 70, 80 tuổi tối hằng tuần vẫn đèo nhau đến các tụ điểm để nghe và hát nhạc “sến” trong đó có bolero". Mình nghĩ nghe nhạc mà phân biệt trí thức, trí ngủ gì ở đây. Bảy, tám chục tuổi mà còn đèo nhau được là bảnh rồi, sá gì nhạc sang, nhạc sến. Nhạc nào đi vào lòng người dễ dàng, thì họ nghe thôi. Ai cũng có quyền bình đẳng thưởng thức cái hay và sống với cảm xúc của họ. Âm nhạc là thế. Đừng quên, đa số những nhạc sĩ, ca sĩ, nổi tiếng trên thế giới đều không thuộc về giới "trí thức". Ngay cả việc đi nghe nhạc, mà cũng phân biệt giới cấp, thì ông nhà báo đó phải coi lại quan niệm của mình. Cũng có khi vì nhiều người quan niệm như thế, nên nước nhà đang bị lạm phát "trí thức", tiến sĩ, giáo sư ... :-)
Thursday, February 22, 2018
Trách nhiệm dân sự !
Bao nhiêu năm nay mình đi bộ qua lối mòn này, nhưng không để ý. Hôm rồi, mới thấy cái bảng "nhà bảo trợ" lượm rác dọn vệ sinh đoạn đường, lại là gia đình đứa bạn làm chung sở với mình hồi xưa. Gọi nó hỏi thăm cho rõ, thì ra nhà nó đã "bảo kê" khúc đường này lâu lắm rồi. Nó thì vẫn còn làm sếp nhỏ của một công ty khác, nhưng lâu lâu kéo bà con, bầu đoàn thê tử, ra đây lượm rác, dọn dẹp.
Xứ này người ta cũng thường làm chuyện đó. Mấy công ty cũng vậy, thường xin "bảo trợ" một đoạn đường trong thành phố hay ngoài xa lộ, để dọn dẹp vệ sinh cảnh quang, làm sạch môi trường công cọng. Lâu lâu cuối tuần, kêu gọi nhân viên và gia đình ra lượm rác, dọn vệ sinh. Còn công ty hoặc ông chủ hãng thì tài trợ nước uống, áo thun, hay mũ nón ... gọi đó là chương trình "Adopt-a-Highway" hoặc "Sponsor-a-Highway". Đại loại có nhiều chương trình dân sự tương tự như thế ở khắp nơi. Như khu nhà mình ở, cũng đăng ký làm sạch một đoạn đường trong rừng. Mỗi năm làm vệ sinh mấy lần, mục đích chính là tập cho mấy em nhỏ, thanh thiếu thiên có ý thức trách nhiệm cộng đồng. Các gia đình trong khu thì tài trợ nước uống, cà rem, bánh ngọt, quà biếu ...cho ngày hội dọn dep vệ sinh đấy. Chủ yếu là vui, nhưng đó lại là nền tảng quan trọng của xã hội dân sự.
Cho tới hiện nay, có một số ít quốc gia trên thế giới, vẫn không khuyến khích xã hội dân sự. Có lẽ bởi những vướng mắc về cơ chế chính trị và hệ thống quản lý. Ngược lại, phần lớn ở nhiều quốc gia khác, các tổ chức thiện nguyện, phi chính phủ, dân sự, hội đoàn, tôn giáo, làm rất tốt các lãnh vực xã hội cộng đồng. Cũng chính vì thế, mà ở một số quốc gia, hiện nay chính phủ & nhà nước vẫn còn phải tốn kém rất nhiều tiền bạc để chi trả cho các doanh nghiệp tư nhân, hoặc các hội đoàn chính quy (có lãnh lương), để làm những công việc mà thay vì cộng đồng dân sự có thể san sẻ được. Thậm chí biết rằng những tổ chức dân sự có thể làm tốt hơn hội đoàn nhà nước rất nhiều. Hơn nữa, dẫu chính quyền có ôm đồm, thì cho dù tốn kém nhiều cũng làm không xuể được. Nhưng thực ra, điểm thua thiệt chính của vấn đề không chỉ nằm chỗ tiền bạc, mà ở chỗ không xây dựng được ý thức phụng sự và trách nhiệm cộng đồng của người dân. Tính vô cảm của một xã hội vốn hình thành từ những điều đơn giản như vậy. Sáng nay đọc báo thấy hình ảnh đường phố thành phố Đà Lạt sau mấy ngày tết mà nẫu lòng !
(Ngày xưa, thường thấy Hướng đạo, Gia đình Phật Tử, Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể ... đều có tham gia các sinh hoạt cộng đồng như thế. Không biết bây giờ ra sao?)
Hôm trước tết, thấy mấy anh công an "lượm rác cuối năm", báo đài cả nước hoan hô quá chừng. Có khi mấy ảnh nên bảo trợ những cung đường dơ bẩn để dọn dẹp thường xuyên hơn. Mình ở đây cũng đi lượm rác hoài, về nhà còn bị mấy đứa con đì, bắt nấu cơm rửa chén, mà chẳng thấy ai hoan hô cả. Ghen tị quá :-) ....
Monday, February 19, 2018
Xuân Di Lặc của VN hôm nay ...
Lâu nay người VN thường nói đón Tết là đón mùa xuân Di Lặc, bởi lẽ ngày mùng một tết là ngày lễ vía của Đức Phật Di Lặc. Ngài Di Lặc là vị Phật đương lai tượng trưng cho hạnh hoan hỷ, hỷ xả, bao dung và tha thứ. Hình dáng biểu tượng bên ngoài của Ngài đơn giản, vui vẻ, hoà đồng, thân thiện. Và đó cũng chính là niềm ước nguyện an lành mong đợi của bao người VN mỗi dịp Xuân về.
Sáng nay đi làm lại, đọc lướt qua báo chí trong nước, mấy trăm người chết vì tai nạn giao thông trong ba ngày tết, chưa kể bị thương. Đặc biệt hơn nữa là cả 2 nghìn (2000) người đánh nhau nhập viện. Mình cứ tưởng đọc lộn. Bộ người VN bây giờ thích đánh nhau đến thế ư ? Chúc phúc nhau, rồi lại hận thù, ganh ghét, đập nhau vào bệnh viện ?
Tuần trước, một cậu học sinh (có thể là bị tâm thần) ở bang Florida, cầm súng vào trường trung học bắn chết 17 người . Cả nước Mỹ rúng động . Nhiều nơi biểu tình, phản đối chính sách, phản đối hiệp hội NRA. Tổng thống, thống đốc, bỏ việc ,tức tốc đến an ủi, trấn an, hứa hẹn phương án giải quyết .... Bao nhiêu TV, báo đài, liên tục đưa tin, bàn luận về sự kiện này. Cho đến hôm nay vẫn đang còn là một vấn đề nóng bỏng .
Nhưng 17 người so với cái con số tai nạn giao thông hàng ngày ở VN chả đáng là bao, huống chi là ngày tết. Dĩ nhiên so sánh vụ thảm sát trong trường học với tai nạn giao thông ở VN là khập khểnh, nhưng mình chỉ muốn nói đến con số chết bởi tai nạn giao thông ở VN là quá lớn. Rồi mỗi năm cứ qua đi, những con số ái ngại đó vẫn cứ nhảy múa, không giảm. Như một thông lệ, ủy ban an toàn giao thông, sau những ngày xuân vất vả lên báo đài, lặng lẽ trở về cương vị của mình, đợi mùa xuân sau. Riêng vụ mấy ngàn người đánh nhau nhập viện thì không nghe nói có phương án gì. Hỏi nguyên nhân ư ? chắc là nhiều !
Bia rượu, băng đảng, anh hùng rơm, quân tử tàu, cái tôi vĩ đại, gia đình, giáo dục, văn hoá .... Nguyên cớ thì đầy, khách quan chủ quan đủ cả, mấy nhà chuyên gia giáo sư tiến sĩ phân tích hoài mỗi năm, rồi đâu cũng vào đấy. Theo mình, nguyên nhân chính thuộc về phạm trù giáo dục !
Thiết nghĩ, một đứa bé lớn lên mà ảnh hưởng cái "tâm hồn cao thượng" của Edmondo De Amicis, cái tư duy giáo dục của Jean-Jacques Rousseau, thì chắc không tới nỗi cậy mạnh hiếp yếu, cậy đông cắn càn. Một đứa bé được giáo dục cái hào hùng của cha anh, của lịch sử dân tộc, của Trần Quốc Toản, của Triệu quang Bình, của Yết Kiêu Dã Tượng, của Nguyễn Trãi, Hưng Đạo Vương, Quang Trung .... thì không tới nỗi thấy giặc làm im, thấy bạn bè anh em nhìn "đểu" lại đánh. Lại càng không tới nỗi tự hào vì hơn nhau vài chai bia, vài ly rượu, kháo nhau đía nhau vài lời khen vô bổ, ganh tị hận thù vì ghét nhau tiếng gáy, hơn thua nhau cái phone cái xe, rồi đập nhau tới chết ... Chắc không là như vậy. Lâu nay thiên hạ ai cũng biết là sự háo thắng, háo danh, hung dữ, sĩ diện hảo, lọc lừa, kiêu binh .... của con người liên quan mật thiết đến nền giáo dục và văn hoá địa phương của đất nước họ. Trong đó, vai trò của bản thân, gia đình, trường học, xã hội, và chính quyền, đều là những mắc xích quan trọng.
Một đất nước yêu chuộng hoà bình là đất nước không thường xuyên nhắc nhở đến chiến tranh, hận thù. Một thế hệ cao thượng không phải là thế hệ đắc chí vì những điều vặt vãnh, so đo để hơn thua nhau, rình rập để đâm thọc nhau, mà là chung tay nhau để làm nên những điều có ích. Một xã hội đáng sống là xã hội không có vài trăm người chết đầu xuân, vài ngàn người vào nhà thương vì đánh lộn đầu năm !
Luôn mong Mùa Xuân Di Lặc sẽ là mùa xuân thanh bình cho đất nước VN !
Saturday, February 17, 2018
Một ngày đầu năm
Đầu năm mới, bạn bè trong nước nhắn tin "Đầu năm làm gì, vui không ?" Nhớ lại là hình như năm nào mình cũng được hỏi câu này vào ngày đầu năm :-). Thực ra thì ở đâu cũng vậy, ngày đầu năm bao giờ cũng thấy vui hơn, phơi phới hơn, nhưng cũng trang nghiêm và sâu lắng hơn. Người Việt nào chắc cũng thế thôi, đã lâu quen rồi !
Lâu nay, nếu ăn Tết ở nước ngoài, mình luôn ở nhà vào ngày mùng một. Thông thường mấy hãng lớn của Mỹ cũng có một ngày "floating holiday" (ngày lễ tự chọn) cho những người công nhân của họ, để phù hợp với môi trường làm việc đa chủng tộc, đa tôn giáo. Người đạo Hồi, đạo Chúa, đạo Phật đạo Hindu, tết Lào, tết Thái, tết Việt, tết Tàu .v.v.. sẽ chọn lựa những ngày nghỉ khác nhau. Còn mình thì dẫu hãng có cho hay không, vẫn nghỉ, vì đêm giao thừa nào cũng đi chùa đến 2,3 giờ sáng mới về đến nhà :-).
Chùa VN bên Mỹ hay châu Âu gì cũng làm lễ giao thừa nửa đêm. Bên Mỹ thì đông người hơn, càng ngày càng đông. Nhớ hơn 30 năm trước, thưa thớt hơn nhiều, nhất là những năm thời tiết lạnh lẽo. Giờ thì đông đảo hẳn lên, áo dài, áo vét, xanh đỏ tím vàng, iphone, ipad, Samsung, Canon, Nikon, đủ kiểu đủ pô. Chen nhau lễ Phật, chen nhau chụp hình. Có khi dẫm cả lên hoa, leo cả lên bệ thờ mà tạo dáng tạo kiểu. Người xin xăm, người hái lộc, người nhét tiền cầu phúc, người quơ hương cầu duyên, người chen chân lễ bái, người nọ lạy người kia ... đủ sắc màu, đủ kiểu tin. Chỉ có đức Phật là năm nào cũng thế, năm nào cũng cười, năm nào cũng bao dung. Chẳng màng tiền "hối lộ" nhét đầy, chẳng quan tâm quà khủng, nhang tấn, hứa hẹn đủ điều. Vẫn lắng nghe những lời khấn nguyện, hiền từ nhìn chúng sinh mỗi đứa mỗi vẻ, ngày một tinh tấn hơn :-) .
Ngày xưa còn vào được bên trong chánh điện, ngồi tĩnh niệm hàng giờ, đọc một thời kinh trong đêm giao thừa. Bây giờ có khi chỉ kịp đứng bên ngoài, lạy vội ngôi chùa hay tượng Phật, rồi nhường chỗ cho người khác. Mà điều đó không quan trọng lắm, cái chính là khoảnh khắc đầu năm, cái giao mùa của tạo hoá, cái hồn của mùa xuân, tiếng chuông tiếng mõ, câu kinh hồi kệ, hương trầm thoang thoảng ... đã tạo nên sự cảm nhận sâu lắng của một năm nhìn lại đời mình chuẩn bị bước qua năm mới.
Ngày xưa khi chưa có con, sáng đầu năm ngủ nướng, mở nhạc Xuân nghe. Giờ sáng mùng một, vẫn phải dậy sớm đưa con đi học. Về nhà, nhìn bánh tét bánh chưng, hủ dưa món, nồi thịt kho, chưa ăn no mất. Hẹn bạn bè ra quán uống cafe đầu năm, chuyện xưa chuyện nay, chuyện "xuân này con không về". Điện thoại thì tò tí te, tin nhắn từ bạn bè VN...:-).
Năm nay trời đẹp, đang lạnh, Tết về lại ấm. Chiều về dẫn con, dẫn chó, đi chơi một vòng. Con không thích ăn mứt ăn bánh, vì ăn chưa quen. Nên cả nhà đi ra ngoài ăn tết Việt với món Mỹ. Buồn cười, nhưng mấy đứa nhỏ bên này dễ gì chịu ăn dưa món củ kiệu, thit kho dưa giá. Tối lai rai với gia đình & bạn bè gần nhà, nghe nhạc xuân, gọi phone chúc tết người thân.
Thực ra Tết ở nước ngoài đại loại cũng chỉ có thế, chủ yếu là phần hồn, phần ý tưởng. Nhớ về, nghĩ về một nơi chốn nào đó. Nhớ về quê hương và gia đình, để thấy mùa Xuân, để thấy cái Tết của lòng mình lạc lõng giữa cái "không tết" chung quanh. Nếu năm nào Tết rơi vào cuối tuần thì vui hơn. Cộng đồng người Việt, chùa chiền nhà thờ VN lúc nào cũng có tổ chức hội chợ, lễ lộc, nhưng thường chỉ vào cuối tuần, không nhất thiết phải là ngày đầu năm. Những vùng đông người VN như Bolsa Cali, San Jose Cali, Bellaire Houston, Eden Virginia, Buford Atlanta ... thì linh đình hơn. Chào cờ đầu năm, dạ vũ hội chợ, tưng bừng hoa lá. Bên Châu Âu thì vắng hơn bên Mỹ. Nhưng Tết bên châu Âu nhiều gia đình sắm sửa đơn giản mà lại sâu sắc hơn. Nhớ có năm mình đi từ Soho (London) qua quận 13 (Paris), rồi về Metz (France) ăn Tết. Thưởng thức cái không khí Tết gia đình, những món quốc hồn quốc tuý của bạn bè ở đó, nhớ nhà muốn khóc !
Thực ra Tết ở nước ngoài đại loại cũng chỉ có thế, chủ yếu là phần hồn, phần ý tưởng. Nhớ về, nghĩ về một nơi chốn nào đó. Nhớ về quê hương và gia đình, để thấy mùa Xuân, để thấy cái Tết của lòng mình lạc lõng giữa cái "không tết" chung quanh. Nếu năm nào Tết rơi vào cuối tuần thì vui hơn. Cộng đồng người Việt, chùa chiền nhà thờ VN lúc nào cũng có tổ chức hội chợ, lễ lộc, nhưng thường chỉ vào cuối tuần, không nhất thiết phải là ngày đầu năm. Những vùng đông người VN như Bolsa Cali, San Jose Cali, Bellaire Houston, Eden Virginia, Buford Atlanta ... thì linh đình hơn. Chào cờ đầu năm, dạ vũ hội chợ, tưng bừng hoa lá. Bên Châu Âu thì vắng hơn bên Mỹ. Nhưng Tết bên châu Âu nhiều gia đình sắm sửa đơn giản mà lại sâu sắc hơn. Nhớ có năm mình đi từ Soho (London) qua quận 13 (Paris), rồi về Metz (France) ăn Tết. Thưởng thức cái không khí Tết gia đình, những món quốc hồn quốc tuý của bạn bè ở đó, nhớ nhà muốn khóc !
Bởi vậy, ngày đầu năm xa quê bao gìơ cũng nhiều tâm trạng. Vui buồn lẫn lộn. Nhưng đó cũng là một phần của đời sống, chuyện tất nhiên thôi. Một cành đào ven rừng, một chậu mai, một bài ca quen thuộc, một tà áo lụa, một món ăn xưa .... cũng đủ làm ngẩn ngơ cả buổi. Một đời người có mấy mùa xuân ? Một năm đi qua đã qua đi. Bắt đầu một năm mới, một ngày mới, một hành trình mới. Lạc quan, an vui, tha thứ, hạnh phúc, bi quan, ghen tức, hận thù, đố kị ... dĩ nhiên tất cả đều bắt đầu từ chính bản thân mình.
Chúc tất cả năm mới thân tâm an lạc !
Tưởng niệm 17/2
Tưởng niệm những quân dân Việt Nam đã hy sinh vì cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Cọng ngày 17/2/1979.
Gửi em ở cuối sông Hồng
(Dương Soái)
Anh ở Lào Cai
Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt
Tháng Hai, mùa này con nước
Lắng phù sa in bóng đôi bờ
Biết em năm ngóng, tháng chờ
Cứ chiều chiều ra sông gánh nước
Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt
Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong
Đài báo gió mùa, em thương ở đầu sông
Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét
Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết
Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng hàng không?
Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng...
Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy
Em ra sông chắc em sẽ thấy
Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông.
Nhưng thơ ngây đâu còn ở chúng mình
Khi Tổ quốc trao anh lên tuyến đầu chặn giặc
Khi biên cương trong anh đã trở thành máu thịt
Đạn lên nòng anh giữ trọn nguồn sông
Nỗi nhớ cho em chưa viết được đôi dòng
Đạn quân thù bỗng cuồng điên vào thị xã
Xe tăng thù nghiến mặt sông êm ả
Nhịp cầu thù chặt đứt chờ mong
Bão lửa này mang sức mạnh hờn căm
Phá cầu thù, xé vụn xe tăng giặc
Giữa dòng sông nghìn xác thù ngã gục
Máu giặc loang ố cả một vùng
Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng
Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ
Là niềm thương anh gửi về em đó
Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh.
Lào Cai, 1979
Gửi em ở cuối sông Hồng
(Dương Soái)
Anh ở Lào Cai
Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt
Tháng Hai, mùa này con nước
Lắng phù sa in bóng đôi bờ
Biết em năm ngóng, tháng chờ
Cứ chiều chiều ra sông gánh nước
Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt
Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong
Đài báo gió mùa, em thương ở đầu sông
Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét
Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết
Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng hàng không?
Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng...
Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy
Em ra sông chắc em sẽ thấy
Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông.
Nhưng thơ ngây đâu còn ở chúng mình
Khi Tổ quốc trao anh lên tuyến đầu chặn giặc
Khi biên cương trong anh đã trở thành máu thịt
Đạn lên nòng anh giữ trọn nguồn sông
Nỗi nhớ cho em chưa viết được đôi dòng
Đạn quân thù bỗng cuồng điên vào thị xã
Xe tăng thù nghiến mặt sông êm ả
Nhịp cầu thù chặt đứt chờ mong
Bão lửa này mang sức mạnh hờn căm
Phá cầu thù, xé vụn xe tăng giặc
Giữa dòng sông nghìn xác thù ngã gục
Máu giặc loang ố cả một vùng
Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng
Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ
Là niềm thương anh gửi về em đó
Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh.
Lào Cai, 1979
Subscribe to:
Posts (Atom)